Đánh giá kết quả và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng bằng phương pháp Kangaroo tại Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh An Giang

Đặt vấn đề: Tỉ lệ trẻ sinh non/nhẹ cân chiếm 19% trong mô hình bệnh tật của trẻ sơ

sinh, chăm sóc tốt các trẻ sinh non/nhẹ cân luôn là mục đích của y học nhằm cho ra

đời những trẻ có thể chất khoẻ mạnh, thông minh trong đó chăm sóc trẻ bằng phương

pháp Kangaroo là giải pháp đơn giản hiệu quả nhất cho trẻ sinh non/nhẹ cân.

Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng bằng

phương pháp Kangaroo và tìm hiểu các yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ non tháng.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang có phân tích trên

48 trẻ non tháng có cân nặng từ 1500 gram đến 2500 gram, không dị tật bẩm sinh,

không phụ thuộc thở máy.

Kết quả: 68,8% trẻ có vàng da, 64,4% trẻ có suy hô hấp nhẹ, 50% trẻ có nhiễm

trùng huyết khi áp dụng chăm sóc Kangaroo, phần lớn người thực hành chăm sóc trẻ

đều có sự tham gia của mẹ chiếm 93,8%. 91,7% các trẻ được chăm sóc từ 5-14 ngày,

sự thay đổi mạch, nhiệt độ, nhịp thở trẻ không đáng kể và dần ổn định, cân nặng trẻ có

giảm trong 3 ngày đầu sau đó tăng dần từ 2110 ± 273 gram lên 2214 ± 280 gram,

100% bà mẹ hài lòng với chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo.

Kết luận: Chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo là giải pháp đơn giản hiệu

quả giúp cho trẻ hoàn thiện thể chất.

pdf 13 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá kết quả và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng bằng phương pháp Kangaroo tại Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh An Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng bằng phương pháp Kangaroo tại Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh An Giang

Đánh giá kết quả và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng bằng phương pháp Kangaroo tại Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh An Giang
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 35 
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ VÀ TÌM HIỂU MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN 
CHĂM SÓC TRẺ SƠ SINH NON THÁNG BẰNG PHƯƠNG PHÁP 
KANGAROO TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA KHU VỰC TỈNH AN GIANG 
Phạm Hồng Loan, Trương Ngọc Tú Trinh, 
Phạm Huyền Loan, Nguyễn Tấn Huy 
Email: [email protected] 
TÓM TẮT 
 Đặt vấn đề: Tỉ lệ trẻ sinh non/nhẹ cân chiếm 19% trong mô hình bệnh tật của trẻ sơ 
sinh, chăm sóc tốt các trẻ sinh non/nhẹ cân luôn là mục đích của y học nhằm cho ra 
đời những trẻ có thể chất khoẻ mạnh, thông minh trong đó chăm sóc trẻ bằng phương 
pháp Kangaroo là giải pháp đơn giản hiệu quả nhất cho trẻ sinh non/nhẹ cân. 
 Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng bằng 
phương pháp Kangaroo và tìm hiểu các yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ non tháng. 
 Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang có phân tích trên 
48 trẻ non tháng có cân nặng từ 1500 gram đến 2500 gram, không dị tật bẩm sinh, 
không phụ thuộc thở máy. 
 Kết quả: 68,8% trẻ có vàng da, 64,4% trẻ có suy hô hấp nhẹ, 50% trẻ có nhiễm 
trùng huyết khi áp dụng chăm sóc Kangaroo, phần lớn người thực hành chăm sóc trẻ 
đều có sự tham gia của mẹ chiếm 93,8%. 91,7% các trẻ được chăm sóc từ 5-14 ngày, 
sự thay đổi mạch, nhiệt độ, nhịp thở trẻ không đáng kể và dần ổn định, cân nặng trẻ có 
giảm trong 3 ngày đầu sau đó tăng dần từ 2110 ± 273 gram lên 2214 ± 280 gram, 
100% bà mẹ hài lòng với chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo. 
 Kết luận: Chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo là giải pháp đơn giản hiệu 
quả giúp cho trẻ hoàn thiện thể chất. 
 Từ khóa: sinh non, Kangaroo. 
EVALUATE THE RESULTS AND FINDING A NUMBER OF FACTORS 
RELATED TO CHILD CARE IN MONTHS BY THE KANGAROO 
METHODOLOGY AT THE GENERAL HOSPITAL OF CHAU DOC REGION 
Pham Hong Loan, Truong Ngọc Tu Trinh, 
Pham Huyen Loan, Nguyen Tan Huy 
ABSTRACT 
 Background: The preterm birth rate/ low weight accounts for 19% of the neonatal 
morbidity model, good care of preterm birth rate/ low weight has always been the goal 
of medicine to deliver possible babies. Healthy, smart substances in which taking care 
of babies by Kangaroo method is the simplest and most effective solution for preterm 
birth rate/ low weight. Objective: Evaluate the results of taking care of preterm infants 
by Kangaroo method and finding a number of factors related to care of preterm 
infants. Subjects and Methodology: Cross-sectional studies with analysis on 48 
preterm infants weighing from 1500 grams to 2500 grams, no birth defects, no 
mechanical ventilation. Results: 68,8% of children with jaundice, 64,4% of children 
with mild respiratory failure, and 50% of children with sepsis when applying 
Kangaroo care. Most of the people who practice child care have the participation of 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 36 
the mother, accounting for 93.8%. 91.7% of children received care from 5-14 days. 
When mothers were used to care, the changes in pulse, temperature, and breathing 
rate are not significant and gradually stabilized, the baby's weight has decreased in 
the first 3 days, then gradually increased from 2110 ± 273 grams to 2214 ± 280 
grams. 100% of mothers were satisfied with taking care of their babies with kangaroo 
method. Conclusion: Taking care of children by kangaroo method was a simple and 
effective solution to help children improve physically. Keywords: preterm birth, 
kangaroo. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ: 
 Theo báo cáo của Bộ Y tế, năm 2016, tỉ lệ trẻ sinh non/nhẹ cân chiếm 19% trong 
mô hình bệnh tật của trẻ sơ sinh; tỉ lệ tử vong sơ sinh chiếm 59% số tử vong trẻ dưới 5 
tuổi và 70,4% tử vong ở trẻ dưới 1 tuổi. Nguyên nhân gây nên tử vong ở trẻ sơ sinh là 
do sinh non/nhẹ cân, ngạt, chấn thương trong khi sinh, dị tật và các bệnh nhiễm khuẩn, 
trong đó nguyên nhân do sinh non/nhẹ cân chiếm tới 25%. Điều đáng quan tâm là 
những nguyên nhân này có thể phòng tránh được bằng các can thiệp đơn giản như: 
chăm sóc/quản lý thai nghén; dự phòng sinh non bằng liệu pháp corticoid; chăm sóc 
trẻ bằng phương pháp Kangaroo và các liệu pháp chăm sóc, cung cấp đầy đủ dinh 
dưỡng cho trẻ sinh non/nhẹ cân[1],[5]. 
 Tại Việt Nam theo Tổng cục thống kê, tỉ lệ sơ sinh nhẹ cân vẫn còn ở mức cao và 
chưa có dấu hiệu giảm, 5,1% năm 2011 tăng lên 5,7% năm 2014 [7]. 
 Hiện nay, với sự tiến bộ của y học chúng ta có thể nuôi sống những trẻ có trọng 
lượng và tuổi thai khá nhỏ, để thực hiện được điều đó đã tốn rất nhiều công sức, nhân 
lực, tài chính, đồng thời tỉ lệ mắc bệnh của những trẻ đó khi lớn lên còn khá cao. Do 
vậy, chăm sóc tốt các trẻ sinh non luôn là mục đích của y học nhằm cho ra đời những 
trẻ có thể chất khoẻ mạnh, thông minh. Và có thể cho rằng chăm sóc trẻ sinh non hiện 
nay là một thách thức, không chỉ ở Việt Nam mà cả ở các nước trên thế giới, vì nó ảnh 
hưởng đến chất lượng dân số. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài: Đánh giá kết quả và 
tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng bằng phương 
pháp Kangaroo tại Bệnh viện đa khoa khu vực Châu Đốc năm 2019-2020 với hai 
mục tiêu: 
 1. Đánh giá kết quả chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng bằng phương pháp 
Kangaroo tại Bệnh viện đa khoa khu vực Châu Đốc năm 2019-2020. 
 2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng tại Bệnh 
viện đa khoa khu vực Châu Đốc năm 2019-2020 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
 2.1. ĐỐI TƯỢNG 
 Đối tượng nghiên cứu: 48 trẻ sinh ra non tháng tại bệnh viện đa khoa khu vực 
Châu Đốc từ tháng 3 năm 2019 đến tháng 5 năm 2020. 
 Tiêu chuẩn chọn bệnh: Trẻ sinh ra non tháng từ 28 tuần đến dưới 37 tuần thai, có 
cân nặng từ 1500 gram đến 2500 gram không phụ thuộc máy thở. 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 37 
 Tiêu chuẩn loại trừ: dị tật bẩm sinh nặng: tim bẩm sinh, dị tật đường tiêu hóa... 
 2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
 - Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả có phân tích, tiền cứu. 
 - Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: 48 BN Chọn mẫu thuận tiện thỏa tiêu 
chuẩn ghi nhận vào phiếu thu thập đã được thiết kế sẵn trong thời gian nghiên cứu. 
 - Nội dung nghiên cứu 
 * Đánh giá kết quả chăm sóc trẻ sinh non bằng phương pháp Kangaroo: 
 Tình trạng chung của trẻ: 
 - Suy hô hấp của trẻ: dựa vào bảng điểm Silverman. Có hoặc không [11]. 
 - Tình trạng nhiễm trùng huyết, vàng da: Có hoặc không. 
 - Hạ đường huyết: khi mức đường huyết < 2,2 mmmol/L. 
 - Hạ canxi huyết: khi canxi ion hóa dưới 1,1 mmol/L. 
 - Hemoglobin: hemoglobin (Hb) giảm khi Hb < 13,5mg/dL. 
 - Bilirubin: được gọi là tăng khi bilirubin gián tiếp > 7 mg/dL.[7] 
 Đối tượng thực hành chăm sóc Kangaroo: 
 - Chỉ có mẹ; chỉ có cha; cả mẹ và cha; cha mẹ và người thân khác. 
 Kết quả thực hành chăm sóc Kanragoo: 
 - Nhịp thở, nhịp tim, nhiệt độ trẻ: được xác định mỗi ngày. 
 - Chế độ ăn của trẻ: Sữa mẹ hoàn toàn, sữa công thức, kết hợp 2 loại sữa. 
 - Thời gian thực hành chăm sóc Kangaroo mỗi ngày. 
 - Cân nặng trẻ: Cân nặng lúc sinh, cân nặng lúc kết thúc chăm sóc Kangaroo. 
 - Mức độ hài lòng của bà mẹ: không hài lòng, hài lòng và rất hài lòng. 
 * Các yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ sinh non bằng phương pháp Kangaroo. 
 - Liên quan giữa cân nặng của trẻ và tình trạng trẻ trong thời gian thực hành 
Kangaroo 
 - Liên quan giữa các bệnh lý của trẻ và tình trạng trẻ trong thời gian thực hành 
Kangaroo 
 - Liên quan giữa tuổi thai của trẻ và tình trạng trẻ trong thời gian thực hành 
Kangaroo 
 - Liên quan giữa cân nặng trẻ lúc bắt đầu thực hành Kangaroo và thời gian 
thực hành Kangaroo 
▫ Bước 1: Xác định những trẻ sơ sinh thỏa điều kiện chọn mẫu. 
▫ Bước 2: Đánh giá tình trạng trẻ, bệnh lý đi kèm để loại trừ các trường hợp dị 
tật nặng, hoặc nhỏ hơn 1500 gram hoặc còn chưa khỏe hoặc trên 2500 gram. 
▫ Bước 3: Tư vấn hướng dẫn và chỉ định thực hiện Kangaroo. 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 38 
▫ Bước 4: Theo dõi quá trình đáp ứng điều trị của một số bệnh đi kèm cho trẻ. 
▫ Bước 5: Đánh giá kết quả chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ theo các tiêu chí. 
- Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS. 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
 3.1. Đặc điểm chung 
 Bảng 1. Giới tính trẻ khi thực hành Kangaroo 
Giới tính trẻ Tần số (n) Tỉ lệ (%) 
Nam 22 45,8 
Nữ 26 54,2 
Tổng 48 100 
 Nhận xét: Nhóm trẻ được đưa vào thực hành Kangaroo có tỉ lệ nữ cao hơn nam 
1,18 lần. 
 Bảng 2. Đặc điểm lâm sàng trẻ sinh non 
Tình trạng trẻ sau sinh n % 
Nhiễm trùng huyết 25 52 
Vàng da 33 68,8 
Suy hô hấp 31 64,6 
Thiếu máu 4 8,3 
 Nhận xét: Phần lớn các trường hợp sinh non tại bệnh viện phải chuyển đơn 
nguyên sơ sinh, chiếm tỉ lệ 83,3%. Tỉ lệ trẻ bị suy hô hấp, vàng da sau sinh non chiếm 
tỉ lệ khá cao lần lượt là 64,6% và 68,8%. Nhiễm trùng huyết sau sinh chiếm 52%. 
 Bảng 3. Đặc điểm cận lâm sàng trẻ sau sinh non và sau thời gian chăm sóc 
Kangaroo 
Cận lâm sàng trẻ sau sinh Vào viện Ra viện 
Đường huyết 64,0 ± 21,1mg/dL 88,2 ± 13,8mg/dL 
Bilirubin 8,26 ±5,78mg/dL 7,89 ±5,57mg/dL 
Hemoglobin 15,87 ± 3,77g/dL 15,19 ±3,07g/dL 
Canxi huyết 2,04 ± 0,14mmol/L 2,17 ± 0,12mmol/L 
 Nhận xét: Các cận lâm sàng của trẻ khi vào viện và khi ra viện có sự tiến triển tốt 
khi áp dụng chăm sóc Kagaroo. Đường huyết từ 64,0mg/dL lên 88,2mg/dL, Canxi 
huyết từ 2,04mmol/L lên 2,17 mmol/L. Bilirubin gián tiếp từ 8,26mg/dL giảm xuống 
7,89mg/dL, Hemoglobin máu thay đổi rất ít từ 15,87g/dL đến khi ra viện vẫn còn 
15,19g/dL. 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 39 
 Bảng 4. Đặc điểm người thực hành chăm sóc Kanragoo 
Đặc điểm 
người thực 
hành 
Kangaroo 
Chỉ mẹ Chỉ cha Cả cha và 
mẹ 
Cha mẹ và cả 
người khác 
n % n % n % n % 
7 14,6 3 6,2 30 62,5 8 16,7 
 Nhận xét: Phần lớn người thực hành chăm sóc trẻ đều có sự tham gia của mẹ 
chiếm 93,8%, trong đó có rất ít trường hợp bà mẹ phải chăm sóc con một mình mà 
không có thêm sự hỗ trợ từ người thân khác (14,6%). 
 3.2. Kết quả chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo 
 Thời gian thực hành Kangaroo 
 Nhận xét: 91,7% các trẻ được chăm sóc từ 5-14 ngày. 
 Có 43,7% trẻ được chăm sóc trên 10 ngày. 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 40 
 Bảng 5. Thân nhiệt và nhịp tim trẻ trong thực hành Kangaroo 
Thân nhiệt và nhịp 
tim trẻ trong thực 
hành Kangaroo 
Ổn định thân nhiệt Ổn định nhịp tim 
Có 
 n (%) 
Không 
n (%) 
Có 
n (%) 
Không 
n (%) 
Ngày đầu 40 (83,3) 8 (16,7) 47 (97,9) 1 (2,1) 
Sau 3 ngày 39 (81,3) 9 (18,7) 47(97,9) 1 (2,1) 
Sau 6 ngày 36 (90) 4 (10) 39 (97,5) 1 (2,5) 
Sau 9 ngày 11 (78,6) 3 (21,4) 13 (92,9) 1 (7,1) 
Sau 12 ngày 10 (83,3) 2 (16,7) 11 (91,7) 1 (8,3) 
Khi ra viện 41 (100) 0 (0) 41 (100) 0 (0) 
 Nhận xét: Trong suốt quá trình thực hành Kangaroo, các trẻ đều có thân nhiệt ổn 
định ở mức cao dao động từ 78,6 đến 90%. 
 Nhịp tim trẻ trong toàn thời gian thực hành Kangaroo luôn ổn định và duy trì từ 
91,7% trở lên. 
 Bảng 6. Hô hấp của trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo 
Tình trạng hô hấp 
của trẻ trong thời 
gian thực hành 
Kangaroo 
Cơn ngưng thở Ổn định hô hấp 
Có 
n (%) 
Không 
n (%) 
Có 
n (%) 
Không 
n (%) 
Ngày đầu 26 (54,2) 22 (45,8) 45 (93,8) 3 (6,2) 
Sau 3 ngày 7 (14,6) 41 (85,4) 41 (85,4) 7 (14,6) 
Sau 6 ngày 3 (7,5) 37 (92,5) 35 (87,5) 5 (12,5) 
Sau 9 ngày 0 (0) 14 (100) 12 (85,7) 2 (14,3) 
Sau 12 ngày 0 (0) 12 (100) 12 (100) 0 (0) 
Khi ra viện 0 (0) 41 (100) 41 (100) 0 (0) 
 Nhận xét: Số cơn ngưng thở giảm dần rất nhanh khi áp dụng chăm sóc trẻ theo 
phương pháp Kangaroo, từ những ngày đầu số trẻ có cơn ngưng thở lên đến 54,2%, 
sau đó giảm rất nhanh và không còn cơn ngưng thở sau 9 ngày thực hành Kangaroo. 
Trẻ được thực hành Kangaroo thì hô hấp luôn được ổn định với tỉ lệ rất cao từ 85,4% 
trở lên. 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 41 
 Bảng 7. Chế độ ăn của trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo 
Chế độ ăn của trẻ 
trong thời gian 
thực hành 
Kangaroo 
Tỉ lệ trẻ bú mẹ 
hoàn toàn 
n (%) 
Tỉ lệ bé bú sữa mẹ 
+ Sữa công thức 
n (%) 
Tỉ lệ trẻ bú sữa 
công thức 
n (%) 
Ngày đầu 6 (12,5) 12 (25) 30 (62,5) 
Sau 3 ngày 17 (35,4) 24 (50) 7 (14,6) 
Sau 6 ngày 27 (67,5) 12 (30) 1 (2,5) 
Sau 9 ngày 13 (92,9) 1 (7,1) 0 
Sau 12 ngày 11 (91,7) 1 (8,3) 0 
Khi ra viện 41 (100) 0 (0) 0 
 Nhận xét: Tỉ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn 3 ngày đầu thấp và tăng dần đến ngày 
ra viện từ 12,5% lên đến 100%. Trong ngày đầu tiên các bé được cho uống sữa công 
thức sau đó giảm dần rất nhanh đến ngày thứ 9 thì hoàn toàn không còn dùng sữa công 
thức. 
 Sữa mẹ và sữa công thức phối hợp là lựa chọn của nhiều sản phụ, 3 ngày đầu trẻ 
uống sữa công thức chiếm đến 50% sau đó giảm dần đến ngày 12 chỉ có 8,3% còn 
phối hợp 2 loại sữa.. 
 Bảng 8. Cân nặng trẻ khi thực hành Kangaroo 
Cân nặng (gram) 
Trước khi thực hành Khi kết thúc 
2110 ± 273 2214 ± 280 
 Nhận xét: Trẻ có tăng cân rõ rệt từ 2110 gram lên 2214 gram sau thực hành. 
 Bảng 9. Mức độ hài lòng của sản phụ và gia đình 
Mức hài 
lòng 
Rất hài lòng Hài lòng Không hài lòng 
n % n % n % 
 21 43,8 27 56,2 0 0 
 Nhận xét: Không có trường hợp nào người tham gia chăm sóc Kangaroo cho trẻ 
thấy không hài lòng. Có đến 43,8% các sản phụ và gia đình rất hài lòng khi thực hiện 
Kangaroo cho trẻ sau sinh non tháng. 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 42 
 3.3. Một số yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng – nhẹ cân bằng 
phương pháp Kangaroo 
 Bảng 10. Liên quan giữa cân nặng của trẻ và tình trạng trẻ trong thời gian thực 
hành Kangaroo 
Cân nặng trẻ Chuyển 
NICU 
Không 
chuyển 
NICU 
OR 
(CI 95%) 
p 
1500 gram đến ≤ 2000gram 6 (28,6%) 15 (71,4%) 0,096 
(0,011-
0,877) 
0,038 
> 2000 gram đến ≤ 2500gram 1 (3,7%) 26 (96,3%) 
 Nhận xét: Chỉ có 3,7% trẻ >2000gram khi thực hành Kangaroo phải chuyển 
NICU để điều trị tiếp, trong khi nhóm ≤ 2000gram có đến 28,6% trẻ phải chuyển 
NICU với tỉ số chênh OR=0,096, Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p=0.038. 
 Bảng 11. Liên quan giữa tuổi thai của trẻ và tình trạng trẻ trong thời gian thực 
hành Kangaroo 
Tuổi thai khi sinh Chuyển 
NICU 
Không 
chuyển 
NICU 
OR 
(CI 95%) 
p 
28 đến < 34 tuần 5 (27,8%) 13 (72,2%) 0,186 
(0,032-1,087) 
0,062 
34 đến < 37 tuần 2 (6,67%) 28 (93,3%) 
 Nhận xét: Có đến 27,8% trẻ sinh ra ở nhóm tuổi thai từ 28 đến dưới 34 tuần khi 
thực hành Kangaroo phải chuyển NICU để điều trị tiếp, trong khi nhóm trẻ sinh ra có 
tuổi thai từ 34 tuần đến dưới 37 tuần chỉ có 6,67% trẻ phải chuyển NICU với tỉ số 
chênh OR=0,186, Tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thông kê với mức tin 
cậy p=0.062. 
 Bảng 12. Liên quan giữa các bệnh lý của trẻ và tình trạng trẻ trong thời gian thực 
hành Kangaroo 
Bệnh lý của trẻ 
Chuyển NICU 
n (%) 
Không chuyển 
NICU n (%) 
p 
Không bệnh 0 (0) 5 (100) 
0,107 
Trẻ có 1 bện ...  0 (0) 7 (100) 
Trẻ có 2 bệnh lý 1 (6,7) 14 (93,3) 
Trẻ có từ 3 bệnh lý trở lên 6 (28,6) 15 (71,4) 
Tổng 7 (14,6) 41 (85,4) 
 Nhận xét: Số bệnh lý của trẻ càng nhiều thì khi thực hành chăm sóc Kangaroo 
các trẻ phài chuyển NICU càng tăng, nếu có 2 bệnh lý thì tỉ lệ chuyển NICU là 6,7% 
trong khi có từ 3 bệnh phối hợp trở lên thì tỉ lệ này lên đến 28,6%. Tuy nhiên sự khác 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 43 
biệt này chưa có ý nghĩa thống kê vối p=0.107, có thể do số lượng ca trong nghiên cứu 
còn thấp. 
 Bảng 13. Liên quan giữa cân nặng trẻ lúc bắt đầu thực hành Kangaroo và thời 
gian thực hành Kangaroo 
Cân nặng trẻ khi 
bắt đầu thực hành 
Thời gian 
thực hành 
≤ 9 ngày 
Thời gian 
thực hành 
> 9 ngày 
OR 
(CI 95%) 
P 
1500 gram đến 
≤ 2000gram 
13 
(61,9%) 
8 
(38,1%) 
2,15 
(0,61-7,63) 
0.234 
> 2000 gram đến 
≤ 2500gram 
21 
(77,78%) 
6 
(22,2%) 
 Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy những trẻ có cân nặng <2000gram thời 
gian thực hành Kangaroo > 9 ngày chiếm 38,1%, trong khi nhóm trẻ cân nặng trên 
2000gram chỉ 22,2% có thời gian thực hành > 9 ngày với tỉ số chênh OR=2,15, Tuy 
nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thông kê với mức tin cậy p=0.234. 
IV. BÀN LUẬN 
 4.1. Đặc điểm người chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo 
 Bảng 14. Đặc điểm người thực hành Kangaroo 
Tác giả 
Năm Người thực hành 
Mẹ Cha và mẹ Cha mẹ và ông bà 
Châu Duy Khánh 2016 58,3 18,3 22,5 
Nguyễn Hồng Như 
Phượng 
2017 
0,5 58,2 
23,6 
Chúng tôi 2019 14,6 62,5 16,7 
 Theo nghiên cứu của Nguyễn Hồng Như Phượng thì người tham gia thực hành 
Kangaroo cho trẻ chủ yếu là mẹ và cha (58,2%) [4] và nghiên cứu Châu Duy Khánh 
mẹ là người chăm sóc chủ yếu chiếm 58,3%, kế đó mẹ và người khác 22,5% [3]. 
Nghiên cứu của chúng tôi một lần nữa cũng khẳng định mẹ là người trung tâm trong 
chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo với tỉ lệ 93,8%. Như vậy cho thấy mẹ được 
sự giúp đỡ hết mình của cha, người thân trong chăm sóc trẻ, thời gian ấp Kangaroo là 
nhiều giờ và nhiều ngày cho đến khi trẻ tăng cân tốt, các bệnh lý lâm sàng lui đi và trẻ 
được xuất viện sớm. 
 4.2. Kết quả chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng - nhẹ cân bằng phương pháp 
Kangaroo 
 Thời gian thực hành Kangaroo 
 Theo kết quả nghiên cứu của Châu Duy Khánh [3] cho thấy có đến 67,5% trẻ 
được thực hành Kangaroo, không có trường hợp nào thực hành dưới 4 ngày, Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 91,7% trẻ chăm sóc dưới 14 ngày, chỉ có 6,2% trẻ 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 44 
được chăm sóc trên 14 ngày. Kết quả này có thể do đối tượng đưa vào nghiên cứu của 
chúng tôi có tuổi thai và cân nặng trung bình cao hơn tác giả Châu Duy Khánh, Trung 
bình tuổi thai và cân nặng trẻ khi đưa vào thực hành Kangaroo của chúng tôi từ 28 
tuần đến dưới 37 tuần, có cân nặng 2110 ± 273 gram so với của tác giả Châu Duy 
Khánh là từ 26 tuần đến dưới 37 tuần, có cân nặng 1703 ± 343 gram. 
 Nhiệt độ trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo 
 Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Châu Duy Khánh, nhiệt độ trẻ trong lúc 
thực hành Kangaroo luôn ổn định trong khoảng nhiệt độ bình thường (36,5 - 37,5 độ 
C) chiếm tỉ lệ rất cao (96,7%), một số ít có thân nhiệt tăng và không có trẻ nào bị hạ 
thân nhiệt cho thấy hiệu quả của phương pháp trong việc ổn định thân nhiệt của trẻ là 
tối ưu. Phương pháp Kangaroo rất tốt cho việc truyền hơi ấm của mẹ cho con qua tiếp 
xúc da kề da. Thân nhiệt ổn định là dấu hiệu quan trọng để nhận biết bé có đáp ứng tốt 
với phương pháp này. Cũng như dấu hiệu đầu tiên cho biết bé dần dần cải thiện triệu 
chứng lâm sàng từ lúc nhập viện [3]. 
 Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận nhiệt độ trẻ chỉ có thay đổi nhiều trong 
ngày đầu tiên chăm sóc, những ngày còn lại đến khi ra viện trẻ có nhiệt độ ổn định. 
 Nhịp tim trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo 
 Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hồng Như Phượng thì 100% các trẻ 
thực hành Kangaroo có nhịp tim ổn định, chỉ dao động từ 120-160 lần/phút [4]. Kết 
quả nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận nhịp tim của trẻ dao động rất ít và ổn định dần 
khi đến ngày xuất viện, có đến 91,7% nằm trong giới hạn sinh lý bình thường của trẻ. 
 Nhịp thở trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo 
 Kết quả nghiên cứu chúng tôi cho thấy sự thay đổi nhịp thở ở trẻ đều đặn về 
ngưỡng ổn định cho trẻ là 40-60 lần/phút. Kết quả trên cũng tương đồng với tác giả 
Nguyễn Hồng Như Phương, tác giả cũng ghi nhận 98% nhịp thở nằm trong giới hạn 
bình thường 40-60 lần/phút, chỉ có 1,2% nhịp thở tăng trên 60 lần/phút do ủ ấm quá 
mức và 02 bé viêm phổi do có người chăm sóc bị cảm ho [4]. 
 Khi nói về cơn ngưng thở trong quá trình chăm sóc trẻ sinh non, tác giả Châu 
Duy Khánh nhận định có đến 25% các trẻ sinh non xuất hiện cơn ngưng thở, trẻ có 
tuổi thai càng nhỏ càng có nhiều cơn ngưng thở. Kết quả nghiên cứu chúng tôi cũng 
ghi nhận tương tự, những ngày đầu khi thực hành Kangaroo cho thấy trẻ có nhiều cơn 
ngưng thở nhưng ổn định rất nhanh trong những ngày thực hành tiếp theo. 
 Chế độ ăn của trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo 
 Trong nghiên cứu của chúng tôi trẻ được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 3 
ngày đầu tỉ lệ thấp chỉ chiếm khoảng 35,4% sau đó tỉ lệ này tăng dần và đến trước khi 
xuất viện tỉ lệ trẻ được nuôi con bằng sữa mẹ lên đến 91,7%. Sữa công thức được sử 
dụng cho trẻ 3 ngày đầu sau đó giảm dần đến sau 9 ngày thì không còn trẻ nào phải sử 
dụng sữa công thức. Nghiên cứu chúng tôi cũng tương đồng với nghiên cứu của 
Nguyễn Hồng Như Phượng, tỉ lệ trẻ được nuôi bằng sữa mẹ hoàn toàn của tác giả lên 
đến 96,7%. Việc nuôi con bằng sữa mẹ nghiên cứu chúng tôi cao hơn nhiều so với 
nghiên cứu Châu Duy Khánh: sữa mẹ 75,8%, sữa hỗn hợp 4,2%, sữa công thức 20% 
[3]. Sự khác biệt có thể do sự hiểu biết của các bà mẹ về lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 45 
được gia tăng và bà mẹ là người thực hành Kangaroo chính cho trẻ. Hội thảo quốc tế 
đầu tiên về phương pháp Kangaroo được tổ chức ở Trieste (năm 1966) đã thống nhất 
một số thuật ngữ, định nghĩa, cụ thể là phương pháp Kangaroo dùng để chỉ chăm sóc 
trẻ sơ sinh một cách toàn diện bao gồm tiếp xúc da kề da, nuôi con bằng sữa mẹ và 
xuất viện sớm[4]. Cho nên nuôi con bằng sữa mẹ là một phần trong chăm sóc 
Kangaroo. 
 Tình trạng tăng cân của trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo 
 Kết quả nghiên cứu chúng tôi cho thấy trẻ có cân nặng tăng rõ rệt khi thực 
hành Kangaroo, trước khi thực hành có 43,8% trẻ có cân nặng ≤ 2000gram, sau thực 
hành tỉ lệ trẻ có cân nặng ≤ 2000gram chỉ còn 22,9%. 
 Khi bắt đầu thực hành Kangaroo, trẻ có biểu hiện sụt cân sinh lý sau đó tăng 
cân trở lại và tăng đều đến khi đủ điều kiện xuất viện. Theo tác giả Châu Duy Khánh 
thì tiêu chuẩn xuất viện khi trẻ ≥ 1800 gram[3], còn chúng tôi chọn tiêu chí xuất viện 
là khi cân nặng tăng đều trong 3 ngày, mỗi ngày tăng ít nhất 15-20gram không còn 
biểu hiện các rối loạn khác. 
 Số giờ thực hành Kangaroo mỗi ngày 
 Theo nghiên cứu Châu Duy Khánh thời gian thực hành Kangaroo dao động 
tăng dần từ thấp nhất 8 giờ/ngày đến cao điểm nhất 18 giờ/ ngày, thời gian ủ ấm trung 
bình 11,25 giờ [3], còn theo nghiên cứu của Nguyễn Hồng Như Phượng thì số giờ thực 
hiện Kangaroo trong ngày nhiều nhất 23 giờ (chỉ tách bé khi bé đi vệ sinh, lau bé, mẹ 
đi vệ sinh cá nhân, ăn uống), ít nhất 08 giờ đa phần các bé có cân nặng > 2000 gr tuổi 
thai > 36 tuần [4]. Kết quả nghiên cứu chúng tôi tương tự các tác giả trên, thời gian 
thực hành Kangaroo mỗi ngày mỗi tăng thấp nhất là 7 giờ/ngày và cao điểm nhất 1 
ngày thực hành đến 21 giờ. Trung bình 12,6 giờ/ngày mỗi ngày tăng lên đến trung 
bình 15,4 giờ/ngày có thể thời gian càng về sau thì càng nhiều người biết và hiểu được 
tầm quan trọng của phương pháp này, chúng tôi triển khai đồng loạt, ngoài ra phòng 
chúng tôi trang bị máy điều hòa chỉnh nhiệt độ thích hợp tránh đổ mồ hôi của người ấp 
làm cho phương pháp có hiệu quả hơn. 
 Bảng 15. Cân nặng trung bình của trẻ trước và sau thời gian thực hành 
Kangaroo 
Tác giả Trước khi thực hành Kết thúc thực hành 
Châu Duy Khánh 1784 ± 305 (gram) 2101 ± 279 (gram) 
Chúng tôi 2110 ± 273 (gram) 2214 ± 280 (gram) 
 Nghiên cứu của chúng tôi trẻ có cân nặng trung bình khi thực hành Kangaroo 
cao hơn nghiên cứu của Châu Duy Khánh là do nghiên cứu của tác giả có tuổi thai 
trung bình 30,97±2,58 tuần thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi (34,9±2,8 tuần) . 
 Mức độ hài lòng của bà mẹ và người thân khi thực hành Kangaroo. 
 Nghiên cứu của Đặng Thị Hà cho thấy có đến 72,6% bà mẹ có thái độ đồng ý 
với việc Kangaroo là phương pháp ủ ấm đơn giản và dễ thực hiện. Ti lệ 64,2% bà mẹ 
đồng ý rằng Kangaroo là phương pháp ủ ấm an toàn và hiệu quả cho trẻ [2]. Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi một lần nữa cũng khẳng định sự hài lòng của bà mẹ khi áp 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 46 
dụng phương pháp trên với tỉ lệ 100%, trong đó có đến 43,8% bà mẹ rất hài lòng khi 
áp dụng chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo. 
 4.3. Một số yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng – nhẹ cân bằng 
phương pháp Kangaroo 
 Liên quan giữa cân nặng trẻ với tình trạng trẻ trong thời gian thực hành 
Kangaroo 
 Theo nghiên cứu của tác giả Huỳnh Thị Thanh Thúy [6] thì trẻ càng nhẹ cân 
thì tỉ lệ phải can thiệp hỗ trợ để điều trị cho trẻ càng nhiều với các kỹ thuật như đặt 
Catheter tĩnh mạch rốn, thở áp lực dương liên tục, thở máy và bơm Surfactant tại đơn 
vị can thiệp NICU. Kết quả nghiên cứu chúng tôi ghi nhận chỉ có 3,7% trẻ >2000gram 
khi thực hành Kangaroo phải chuyển NICU để điều trị tiếp với các can thiệp hỗ trợ 
tích cực, trong khi nhóm ≤ 2000gram có đến 28,6% trẻ phải chuyển NICU, sự khác 
biệt này có ý nghĩa thống kê với p=0.038 điều này chứng tỏ trẻ càng nhẹ cân thì tỉ lệ 
phải chuyển đến đơn vị chăm sóc đặt biệt càng cao. 
 Liên quan giữa tuổi thai khi sinh và tình trạng trẻ khi thực hành Kangaroo 
 Kết quả nghiên cứu chúng tôi có đến 27,8% trẻ sinh ra ở nhóm tuổi thai từ 28 
đến dưới 34 tuần khi thực hành Kangaroo phải chuyển NICU để điều trị tiếp, trong khi 
nhóm trẻ sinh ra có tuổi thai từ 34 tuần đến dưới 37 tuần chỉ có 6,67% trẻ phải chuyển 
NICU, tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thông kê với p=0.062, có thể do số 
mẫu chúng tôi đưa vào thực hành Kangaroo chưa đủ lớn nên sự khác biệt này vẫn 
chưa đủ mạnh để khẳng định tuổi thai >34 tuần thì chăm sóc Kangaroo sẽ hiệu quả 
hơn nhiều so với nhóm <34 tuần và tình trạng diễn biến nặng phải đưa vào đơn vị 
chăm sóc đặc biệt cũng sẽ giảm đáng kể. 
 Liên quan giữa các bệnh lý của trẻ và tình trạng trẻ trong thời gian thực hành 
 Theo tác giả Lê Nguyễn Nhật Trung [5] thì các bệnh lý của trẻ xuất hiện trong 
thời gian sau sinh non tháng thường gặp là suy hô hấp sơ sinh, bệnh màng trong, 
nhiễm trùng huyết, viêm ruột hoại tử, xuất huyết não làm tăng tỉ lệ can thiệp các thủ 
thuật điều trị tại NICU trong đó thủ thuật thường gặp nhất là thở áp lực dương liên tục 
chiếm tỉ lệ cao nhất (90,7%) kế đến là thở máy và truyền các thành phần của chế phẩm 
máu. Nghiên cứu chúng tôi cho thấy số bệnh lý của trẻ càng nhiều thì khi thực hành 
chăm sóc Kangaroo các trẻ phải chuyển NICU càng tăng, nếu có 2 bệnh lý thì tỉ lệ 
chuyển NICU là 6,7% trong khi có từ 3 bệnh phối hợp trở lên thì tỉ lệ này lên đến 
28,6%. Tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê vối p=0.107, có thể do số 
lượng ca trong nghiên cứu còn thấp. 
 Liên quan giữa cân nặng trẻ với thời gian thực hành Kangaroo 
 Theo nghiên cứu của Châu Duy Khánh cho thấy trẻ có cân nặng dưới 
2000gram được thực hành Kangaroo với thời gian dài hơn những đứa trẻ có cân nặng 
từ 2000gram trở lên, vì những trẻ có cân nặng càng thấp thì nguy cơ hạ thân nhiệt càng 
cao cũng như sức đề kháng càng kém và nguy cơ mắc các bệnh lý sơ sinh (tiêu hóa, hô 
hấp, tim mạch) càng lớn, trẻ càng nhỏ càng non yếu càng chậm phục hồi sức khỏe 
vì vậy cần thời gian dài chăm sóc Kangaroo để bé từ từ đáp ứng với phương pháp. Vì 
vậy thời gian thực hành Kangaroo cũng dài hơn những trẻ có cân nặng lớn hơn [3]. 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 47 
Kết quả nghiên cứu cho thấy những trẻ có cân nặng <2000gram thời gian thực hành 
Kangaroo > 9 ngày chiếm 38,1%, trong khi nhóm trẻ cân nặng trên 2000gram chỉ 
22,2% có thời gian thực hành > 9 ngày với tỉ số chênh OR=2,15, Tuy nhiên sự khác 
biệt này chưa có ý nghĩa thông kê với mức tin cậy p=0.234. Có thể cho nhóm nghiên 
cứu chúng tôi chỉ chọn các trẻ từ 1500-2500gram để đưa vào tiêu chuẩn chọn nên chưa 
thấy được sự khác biệt này hoặc do số lượng mẫu chưa đủ lớn để khẳng định thời gian 
chăm sóc những trẻ có cân nặng càng thấp sẽ kéo dài hơn những trẻ có cân nặng lớn 
hơn có ý nghĩa thống kê. 
V. KẾT LUẬN 
 Chăm sóc trẻ sinh non bằng phương pháp Kangaroo là giải pháp đơn giản hiệu quả 
giúp cho trẻ hoàn thiện thể chất. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Y Tế (2016), Quyết định số 4218/QĐ-BYT, ngày 29 tháng 07 năm 2016, 
Hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản. 
2. Đặng Thị Hà (2013), Kiến thức, thái độ và thực hành cuả bà mẹ về ủ ấm cho trẻ sơ 
sinh tại khoa sơ sinh bệnh viện Nhi Đồng Thành Phố Cần Thơ, Y học TP. Hồ Chí 
Minh, Tập 17, Phụ bản số 4, trang 98-104. 
3. Châu Duy Khánh (2016), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá 
kết quả chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ non tháng, nhẹ cân bằng phương pháp 
Kangaroo tại khoa sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng Cần Thơ năm 2015-2016, Luận văn 
bác sĩ Y khoa, Trường đại học Y Dược Cần Thơ. 
4. Nguyễn Hồng Như Phượng (2017), Đánh giá kết quả chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ 
non tháng, nhẹ cân bằng phương pháp Kangaroo tại khoa sơ sinh Bệnh viện Phụ 
Sản Thành phố Cần Thơ, Kỷ yếu hội nghị khoa học Bệnh viện Phụ Sản Thành phố 
Cần Thơ 2017. 
5. Lê Nguyễn Nhật Trung (2015), Kết quả điều trị trẻ sơ sinh non 26-34 tuần tuổi thai 
tại bệnh viện Nhi Đồng 2 TPHCM, Tạp chí Y Học Thực Hành, số 1, trang 20-29. 
6. Huỳnh Thị Thanh Thuý (2014), Tình hình trẻ sơ sinh nhẹ cân tại bệnh viện Nhi 
Tỉnh Quảng Nam, Kỷ yếu bệnh viện Nhi Tỉnh Quảng Nam. 
7. Tổng cục thống kê và Unicef (2015), Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ 
nữ Việt Nam, Báo cáo MICS việt nam 2014. 
8. Trương Quang Vinh (2016), Bài 44: Đặc điểm trẻ sơ sinh đủ tháng, thiếu tháng và 
già tháng, Giáo trình Sản Khoa, Trường đại học Y Dược Huế, tr 444-454. 
9. Conde-Agudelo A (2016), Kangaroo mother care to reduce morbidity and mortality 
in low birthweight infants. Cochrane Database of Systematic Reviews 2016, Issue 8 
10. Ruth Feldman(2003), Skin-to-skin contact (Kangaroo Care) accelerates 
autonomic and neurobehavioural maturation in preterm infants, Developmental 
Medicine & Child Neurology 2003, 45: 274–281. 
11. Silverman, W. and Anderson (1956), D.H: Pediatrics 17, American Academy of 
Pediatrics, pp 1-10. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_ket_qua_va_tim_hieu_mot_so_yeu_to_lien_quan_den_cha.pdf