Đánh giá kết quả và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng bằng phương pháp Kangaroo tại Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh An Giang
Đặt vấn đề: Tỉ lệ trẻ sinh non/nhẹ cân chiếm 19% trong mô hình bệnh tật của trẻ sơ
sinh, chăm sóc tốt các trẻ sinh non/nhẹ cân luôn là mục đích của y học nhằm cho ra
đời những trẻ có thể chất khoẻ mạnh, thông minh trong đó chăm sóc trẻ bằng phương
pháp Kangaroo là giải pháp đơn giản hiệu quả nhất cho trẻ sinh non/nhẹ cân.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng bằng
phương pháp Kangaroo và tìm hiểu các yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ non tháng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang có phân tích trên
48 trẻ non tháng có cân nặng từ 1500 gram đến 2500 gram, không dị tật bẩm sinh,
không phụ thuộc thở máy.
Kết quả: 68,8% trẻ có vàng da, 64,4% trẻ có suy hô hấp nhẹ, 50% trẻ có nhiễm
trùng huyết khi áp dụng chăm sóc Kangaroo, phần lớn người thực hành chăm sóc trẻ
đều có sự tham gia của mẹ chiếm 93,8%. 91,7% các trẻ được chăm sóc từ 5-14 ngày,
sự thay đổi mạch, nhiệt độ, nhịp thở trẻ không đáng kể và dần ổn định, cân nặng trẻ có
giảm trong 3 ngày đầu sau đó tăng dần từ 2110 ± 273 gram lên 2214 ± 280 gram,
100% bà mẹ hài lòng với chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo.
Kết luận: Chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo là giải pháp đơn giản hiệu
quả giúp cho trẻ hoàn thiện thể chất.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng bằng phương pháp Kangaroo tại Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh An Giang
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 35 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ VÀ TÌM HIỂU MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN CHĂM SÓC TRẺ SƠ SINH NON THÁNG BẰNG PHƯƠNG PHÁP KANGAROO TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA KHU VỰC TỈNH AN GIANG Phạm Hồng Loan, Trương Ngọc Tú Trinh, Phạm Huyền Loan, Nguyễn Tấn Huy Email: [email protected] TÓM TẮT Đặt vấn đề: Tỉ lệ trẻ sinh non/nhẹ cân chiếm 19% trong mô hình bệnh tật của trẻ sơ sinh, chăm sóc tốt các trẻ sinh non/nhẹ cân luôn là mục đích của y học nhằm cho ra đời những trẻ có thể chất khoẻ mạnh, thông minh trong đó chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo là giải pháp đơn giản hiệu quả nhất cho trẻ sinh non/nhẹ cân. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng bằng phương pháp Kangaroo và tìm hiểu các yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ non tháng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang có phân tích trên 48 trẻ non tháng có cân nặng từ 1500 gram đến 2500 gram, không dị tật bẩm sinh, không phụ thuộc thở máy. Kết quả: 68,8% trẻ có vàng da, 64,4% trẻ có suy hô hấp nhẹ, 50% trẻ có nhiễm trùng huyết khi áp dụng chăm sóc Kangaroo, phần lớn người thực hành chăm sóc trẻ đều có sự tham gia của mẹ chiếm 93,8%. 91,7% các trẻ được chăm sóc từ 5-14 ngày, sự thay đổi mạch, nhiệt độ, nhịp thở trẻ không đáng kể và dần ổn định, cân nặng trẻ có giảm trong 3 ngày đầu sau đó tăng dần từ 2110 ± 273 gram lên 2214 ± 280 gram, 100% bà mẹ hài lòng với chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo. Kết luận: Chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo là giải pháp đơn giản hiệu quả giúp cho trẻ hoàn thiện thể chất. Từ khóa: sinh non, Kangaroo. EVALUATE THE RESULTS AND FINDING A NUMBER OF FACTORS RELATED TO CHILD CARE IN MONTHS BY THE KANGAROO METHODOLOGY AT THE GENERAL HOSPITAL OF CHAU DOC REGION Pham Hong Loan, Truong Ngọc Tu Trinh, Pham Huyen Loan, Nguyen Tan Huy ABSTRACT Background: The preterm birth rate/ low weight accounts for 19% of the neonatal morbidity model, good care of preterm birth rate/ low weight has always been the goal of medicine to deliver possible babies. Healthy, smart substances in which taking care of babies by Kangaroo method is the simplest and most effective solution for preterm birth rate/ low weight. Objective: Evaluate the results of taking care of preterm infants by Kangaroo method and finding a number of factors related to care of preterm infants. Subjects and Methodology: Cross-sectional studies with analysis on 48 preterm infants weighing from 1500 grams to 2500 grams, no birth defects, no mechanical ventilation. Results: 68,8% of children with jaundice, 64,4% of children with mild respiratory failure, and 50% of children with sepsis when applying Kangaroo care. Most of the people who practice child care have the participation of Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 36 the mother, accounting for 93.8%. 91.7% of children received care from 5-14 days. When mothers were used to care, the changes in pulse, temperature, and breathing rate are not significant and gradually stabilized, the baby's weight has decreased in the first 3 days, then gradually increased from 2110 ± 273 grams to 2214 ± 280 grams. 100% of mothers were satisfied with taking care of their babies with kangaroo method. Conclusion: Taking care of children by kangaroo method was a simple and effective solution to help children improve physically. Keywords: preterm birth, kangaroo. I. ĐẶT VẤN ĐỀ: Theo báo cáo của Bộ Y tế, năm 2016, tỉ lệ trẻ sinh non/nhẹ cân chiếm 19% trong mô hình bệnh tật của trẻ sơ sinh; tỉ lệ tử vong sơ sinh chiếm 59% số tử vong trẻ dưới 5 tuổi và 70,4% tử vong ở trẻ dưới 1 tuổi. Nguyên nhân gây nên tử vong ở trẻ sơ sinh là do sinh non/nhẹ cân, ngạt, chấn thương trong khi sinh, dị tật và các bệnh nhiễm khuẩn, trong đó nguyên nhân do sinh non/nhẹ cân chiếm tới 25%. Điều đáng quan tâm là những nguyên nhân này có thể phòng tránh được bằng các can thiệp đơn giản như: chăm sóc/quản lý thai nghén; dự phòng sinh non bằng liệu pháp corticoid; chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo và các liệu pháp chăm sóc, cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho trẻ sinh non/nhẹ cân[1],[5]. Tại Việt Nam theo Tổng cục thống kê, tỉ lệ sơ sinh nhẹ cân vẫn còn ở mức cao và chưa có dấu hiệu giảm, 5,1% năm 2011 tăng lên 5,7% năm 2014 [7]. Hiện nay, với sự tiến bộ của y học chúng ta có thể nuôi sống những trẻ có trọng lượng và tuổi thai khá nhỏ, để thực hiện được điều đó đã tốn rất nhiều công sức, nhân lực, tài chính, đồng thời tỉ lệ mắc bệnh của những trẻ đó khi lớn lên còn khá cao. Do vậy, chăm sóc tốt các trẻ sinh non luôn là mục đích của y học nhằm cho ra đời những trẻ có thể chất khoẻ mạnh, thông minh. Và có thể cho rằng chăm sóc trẻ sinh non hiện nay là một thách thức, không chỉ ở Việt Nam mà cả ở các nước trên thế giới, vì nó ảnh hưởng đến chất lượng dân số. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài: Đánh giá kết quả và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng bằng phương pháp Kangaroo tại Bệnh viện đa khoa khu vực Châu Đốc năm 2019-2020 với hai mục tiêu: 1. Đánh giá kết quả chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng bằng phương pháp Kangaroo tại Bệnh viện đa khoa khu vực Châu Đốc năm 2019-2020. 2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng tại Bệnh viện đa khoa khu vực Châu Đốc năm 2019-2020 II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. ĐỐI TƯỢNG Đối tượng nghiên cứu: 48 trẻ sinh ra non tháng tại bệnh viện đa khoa khu vực Châu Đốc từ tháng 3 năm 2019 đến tháng 5 năm 2020. Tiêu chuẩn chọn bệnh: Trẻ sinh ra non tháng từ 28 tuần đến dưới 37 tuần thai, có cân nặng từ 1500 gram đến 2500 gram không phụ thuộc máy thở. Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 37 Tiêu chuẩn loại trừ: dị tật bẩm sinh nặng: tim bẩm sinh, dị tật đường tiêu hóa... 2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả có phân tích, tiền cứu. - Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: 48 BN Chọn mẫu thuận tiện thỏa tiêu chuẩn ghi nhận vào phiếu thu thập đã được thiết kế sẵn trong thời gian nghiên cứu. - Nội dung nghiên cứu * Đánh giá kết quả chăm sóc trẻ sinh non bằng phương pháp Kangaroo: Tình trạng chung của trẻ: - Suy hô hấp của trẻ: dựa vào bảng điểm Silverman. Có hoặc không [11]. - Tình trạng nhiễm trùng huyết, vàng da: Có hoặc không. - Hạ đường huyết: khi mức đường huyết < 2,2 mmmol/L. - Hạ canxi huyết: khi canxi ion hóa dưới 1,1 mmol/L. - Hemoglobin: hemoglobin (Hb) giảm khi Hb < 13,5mg/dL. - Bilirubin: được gọi là tăng khi bilirubin gián tiếp > 7 mg/dL.[7] Đối tượng thực hành chăm sóc Kangaroo: - Chỉ có mẹ; chỉ có cha; cả mẹ và cha; cha mẹ và người thân khác. Kết quả thực hành chăm sóc Kanragoo: - Nhịp thở, nhịp tim, nhiệt độ trẻ: được xác định mỗi ngày. - Chế độ ăn của trẻ: Sữa mẹ hoàn toàn, sữa công thức, kết hợp 2 loại sữa. - Thời gian thực hành chăm sóc Kangaroo mỗi ngày. - Cân nặng trẻ: Cân nặng lúc sinh, cân nặng lúc kết thúc chăm sóc Kangaroo. - Mức độ hài lòng của bà mẹ: không hài lòng, hài lòng và rất hài lòng. * Các yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ sinh non bằng phương pháp Kangaroo. - Liên quan giữa cân nặng của trẻ và tình trạng trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo - Liên quan giữa các bệnh lý của trẻ và tình trạng trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo - Liên quan giữa tuổi thai của trẻ và tình trạng trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo - Liên quan giữa cân nặng trẻ lúc bắt đầu thực hành Kangaroo và thời gian thực hành Kangaroo ▫ Bước 1: Xác định những trẻ sơ sinh thỏa điều kiện chọn mẫu. ▫ Bước 2: Đánh giá tình trạng trẻ, bệnh lý đi kèm để loại trừ các trường hợp dị tật nặng, hoặc nhỏ hơn 1500 gram hoặc còn chưa khỏe hoặc trên 2500 gram. ▫ Bước 3: Tư vấn hướng dẫn và chỉ định thực hiện Kangaroo. Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 38 ▫ Bước 4: Theo dõi quá trình đáp ứng điều trị của một số bệnh đi kèm cho trẻ. ▫ Bước 5: Đánh giá kết quả chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ theo các tiêu chí. - Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Đặc điểm chung Bảng 1. Giới tính trẻ khi thực hành Kangaroo Giới tính trẻ Tần số (n) Tỉ lệ (%) Nam 22 45,8 Nữ 26 54,2 Tổng 48 100 Nhận xét: Nhóm trẻ được đưa vào thực hành Kangaroo có tỉ lệ nữ cao hơn nam 1,18 lần. Bảng 2. Đặc điểm lâm sàng trẻ sinh non Tình trạng trẻ sau sinh n % Nhiễm trùng huyết 25 52 Vàng da 33 68,8 Suy hô hấp 31 64,6 Thiếu máu 4 8,3 Nhận xét: Phần lớn các trường hợp sinh non tại bệnh viện phải chuyển đơn nguyên sơ sinh, chiếm tỉ lệ 83,3%. Tỉ lệ trẻ bị suy hô hấp, vàng da sau sinh non chiếm tỉ lệ khá cao lần lượt là 64,6% và 68,8%. Nhiễm trùng huyết sau sinh chiếm 52%. Bảng 3. Đặc điểm cận lâm sàng trẻ sau sinh non và sau thời gian chăm sóc Kangaroo Cận lâm sàng trẻ sau sinh Vào viện Ra viện Đường huyết 64,0 ± 21,1mg/dL 88,2 ± 13,8mg/dL Bilirubin 8,26 ±5,78mg/dL 7,89 ±5,57mg/dL Hemoglobin 15,87 ± 3,77g/dL 15,19 ±3,07g/dL Canxi huyết 2,04 ± 0,14mmol/L 2,17 ± 0,12mmol/L Nhận xét: Các cận lâm sàng của trẻ khi vào viện và khi ra viện có sự tiến triển tốt khi áp dụng chăm sóc Kagaroo. Đường huyết từ 64,0mg/dL lên 88,2mg/dL, Canxi huyết từ 2,04mmol/L lên 2,17 mmol/L. Bilirubin gián tiếp từ 8,26mg/dL giảm xuống 7,89mg/dL, Hemoglobin máu thay đổi rất ít từ 15,87g/dL đến khi ra viện vẫn còn 15,19g/dL. Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 39 Bảng 4. Đặc điểm người thực hành chăm sóc Kanragoo Đặc điểm người thực hành Kangaroo Chỉ mẹ Chỉ cha Cả cha và mẹ Cha mẹ và cả người khác n % n % n % n % 7 14,6 3 6,2 30 62,5 8 16,7 Nhận xét: Phần lớn người thực hành chăm sóc trẻ đều có sự tham gia của mẹ chiếm 93,8%, trong đó có rất ít trường hợp bà mẹ phải chăm sóc con một mình mà không có thêm sự hỗ trợ từ người thân khác (14,6%). 3.2. Kết quả chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo Thời gian thực hành Kangaroo Nhận xét: 91,7% các trẻ được chăm sóc từ 5-14 ngày. Có 43,7% trẻ được chăm sóc trên 10 ngày. Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 40 Bảng 5. Thân nhiệt và nhịp tim trẻ trong thực hành Kangaroo Thân nhiệt và nhịp tim trẻ trong thực hành Kangaroo Ổn định thân nhiệt Ổn định nhịp tim Có n (%) Không n (%) Có n (%) Không n (%) Ngày đầu 40 (83,3) 8 (16,7) 47 (97,9) 1 (2,1) Sau 3 ngày 39 (81,3) 9 (18,7) 47(97,9) 1 (2,1) Sau 6 ngày 36 (90) 4 (10) 39 (97,5) 1 (2,5) Sau 9 ngày 11 (78,6) 3 (21,4) 13 (92,9) 1 (7,1) Sau 12 ngày 10 (83,3) 2 (16,7) 11 (91,7) 1 (8,3) Khi ra viện 41 (100) 0 (0) 41 (100) 0 (0) Nhận xét: Trong suốt quá trình thực hành Kangaroo, các trẻ đều có thân nhiệt ổn định ở mức cao dao động từ 78,6 đến 90%. Nhịp tim trẻ trong toàn thời gian thực hành Kangaroo luôn ổn định và duy trì từ 91,7% trở lên. Bảng 6. Hô hấp của trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo Tình trạng hô hấp của trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo Cơn ngưng thở Ổn định hô hấp Có n (%) Không n (%) Có n (%) Không n (%) Ngày đầu 26 (54,2) 22 (45,8) 45 (93,8) 3 (6,2) Sau 3 ngày 7 (14,6) 41 (85,4) 41 (85,4) 7 (14,6) Sau 6 ngày 3 (7,5) 37 (92,5) 35 (87,5) 5 (12,5) Sau 9 ngày 0 (0) 14 (100) 12 (85,7) 2 (14,3) Sau 12 ngày 0 (0) 12 (100) 12 (100) 0 (0) Khi ra viện 0 (0) 41 (100) 41 (100) 0 (0) Nhận xét: Số cơn ngưng thở giảm dần rất nhanh khi áp dụng chăm sóc trẻ theo phương pháp Kangaroo, từ những ngày đầu số trẻ có cơn ngưng thở lên đến 54,2%, sau đó giảm rất nhanh và không còn cơn ngưng thở sau 9 ngày thực hành Kangaroo. Trẻ được thực hành Kangaroo thì hô hấp luôn được ổn định với tỉ lệ rất cao từ 85,4% trở lên. Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 41 Bảng 7. Chế độ ăn của trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo Chế độ ăn của trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo Tỉ lệ trẻ bú mẹ hoàn toàn n (%) Tỉ lệ bé bú sữa mẹ + Sữa công thức n (%) Tỉ lệ trẻ bú sữa công thức n (%) Ngày đầu 6 (12,5) 12 (25) 30 (62,5) Sau 3 ngày 17 (35,4) 24 (50) 7 (14,6) Sau 6 ngày 27 (67,5) 12 (30) 1 (2,5) Sau 9 ngày 13 (92,9) 1 (7,1) 0 Sau 12 ngày 11 (91,7) 1 (8,3) 0 Khi ra viện 41 (100) 0 (0) 0 Nhận xét: Tỉ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn 3 ngày đầu thấp và tăng dần đến ngày ra viện từ 12,5% lên đến 100%. Trong ngày đầu tiên các bé được cho uống sữa công thức sau đó giảm dần rất nhanh đến ngày thứ 9 thì hoàn toàn không còn dùng sữa công thức. Sữa mẹ và sữa công thức phối hợp là lựa chọn của nhiều sản phụ, 3 ngày đầu trẻ uống sữa công thức chiếm đến 50% sau đó giảm dần đến ngày 12 chỉ có 8,3% còn phối hợp 2 loại sữa.. Bảng 8. Cân nặng trẻ khi thực hành Kangaroo Cân nặng (gram) Trước khi thực hành Khi kết thúc 2110 ± 273 2214 ± 280 Nhận xét: Trẻ có tăng cân rõ rệt từ 2110 gram lên 2214 gram sau thực hành. Bảng 9. Mức độ hài lòng của sản phụ và gia đình Mức hài lòng Rất hài lòng Hài lòng Không hài lòng n % n % n % 21 43,8 27 56,2 0 0 Nhận xét: Không có trường hợp nào người tham gia chăm sóc Kangaroo cho trẻ thấy không hài lòng. Có đến 43,8% các sản phụ và gia đình rất hài lòng khi thực hiện Kangaroo cho trẻ sau sinh non tháng. Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 42 3.3. Một số yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng – nhẹ cân bằng phương pháp Kangaroo Bảng 10. Liên quan giữa cân nặng của trẻ và tình trạng trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo Cân nặng trẻ Chuyển NICU Không chuyển NICU OR (CI 95%) p 1500 gram đến ≤ 2000gram 6 (28,6%) 15 (71,4%) 0,096 (0,011- 0,877) 0,038 > 2000 gram đến ≤ 2500gram 1 (3,7%) 26 (96,3%) Nhận xét: Chỉ có 3,7% trẻ >2000gram khi thực hành Kangaroo phải chuyển NICU để điều trị tiếp, trong khi nhóm ≤ 2000gram có đến 28,6% trẻ phải chuyển NICU với tỉ số chênh OR=0,096, Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p=0.038. Bảng 11. Liên quan giữa tuổi thai của trẻ và tình trạng trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo Tuổi thai khi sinh Chuyển NICU Không chuyển NICU OR (CI 95%) p 28 đến < 34 tuần 5 (27,8%) 13 (72,2%) 0,186 (0,032-1,087) 0,062 34 đến < 37 tuần 2 (6,67%) 28 (93,3%) Nhận xét: Có đến 27,8% trẻ sinh ra ở nhóm tuổi thai từ 28 đến dưới 34 tuần khi thực hành Kangaroo phải chuyển NICU để điều trị tiếp, trong khi nhóm trẻ sinh ra có tuổi thai từ 34 tuần đến dưới 37 tuần chỉ có 6,67% trẻ phải chuyển NICU với tỉ số chênh OR=0,186, Tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thông kê với mức tin cậy p=0.062. Bảng 12. Liên quan giữa các bệnh lý của trẻ và tình trạng trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo Bệnh lý của trẻ Chuyển NICU n (%) Không chuyển NICU n (%) p Không bệnh 0 (0) 5 (100) 0,107 Trẻ có 1 bện ... 0 (0) 7 (100) Trẻ có 2 bệnh lý 1 (6,7) 14 (93,3) Trẻ có từ 3 bệnh lý trở lên 6 (28,6) 15 (71,4) Tổng 7 (14,6) 41 (85,4) Nhận xét: Số bệnh lý của trẻ càng nhiều thì khi thực hành chăm sóc Kangaroo các trẻ phài chuyển NICU càng tăng, nếu có 2 bệnh lý thì tỉ lệ chuyển NICU là 6,7% trong khi có từ 3 bệnh phối hợp trở lên thì tỉ lệ này lên đến 28,6%. Tuy nhiên sự khác Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 43 biệt này chưa có ý nghĩa thống kê vối p=0.107, có thể do số lượng ca trong nghiên cứu còn thấp. Bảng 13. Liên quan giữa cân nặng trẻ lúc bắt đầu thực hành Kangaroo và thời gian thực hành Kangaroo Cân nặng trẻ khi bắt đầu thực hành Thời gian thực hành ≤ 9 ngày Thời gian thực hành > 9 ngày OR (CI 95%) P 1500 gram đến ≤ 2000gram 13 (61,9%) 8 (38,1%) 2,15 (0,61-7,63) 0.234 > 2000 gram đến ≤ 2500gram 21 (77,78%) 6 (22,2%) Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy những trẻ có cân nặng <2000gram thời gian thực hành Kangaroo > 9 ngày chiếm 38,1%, trong khi nhóm trẻ cân nặng trên 2000gram chỉ 22,2% có thời gian thực hành > 9 ngày với tỉ số chênh OR=2,15, Tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thông kê với mức tin cậy p=0.234. IV. BÀN LUẬN 4.1. Đặc điểm người chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo Bảng 14. Đặc điểm người thực hành Kangaroo Tác giả Năm Người thực hành Mẹ Cha và mẹ Cha mẹ và ông bà Châu Duy Khánh 2016 58,3 18,3 22,5 Nguyễn Hồng Như Phượng 2017 0,5 58,2 23,6 Chúng tôi 2019 14,6 62,5 16,7 Theo nghiên cứu của Nguyễn Hồng Như Phượng thì người tham gia thực hành Kangaroo cho trẻ chủ yếu là mẹ và cha (58,2%) [4] và nghiên cứu Châu Duy Khánh mẹ là người chăm sóc chủ yếu chiếm 58,3%, kế đó mẹ và người khác 22,5% [3]. Nghiên cứu của chúng tôi một lần nữa cũng khẳng định mẹ là người trung tâm trong chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo với tỉ lệ 93,8%. Như vậy cho thấy mẹ được sự giúp đỡ hết mình của cha, người thân trong chăm sóc trẻ, thời gian ấp Kangaroo là nhiều giờ và nhiều ngày cho đến khi trẻ tăng cân tốt, các bệnh lý lâm sàng lui đi và trẻ được xuất viện sớm. 4.2. Kết quả chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng - nhẹ cân bằng phương pháp Kangaroo Thời gian thực hành Kangaroo Theo kết quả nghiên cứu của Châu Duy Khánh [3] cho thấy có đến 67,5% trẻ được thực hành Kangaroo, không có trường hợp nào thực hành dưới 4 ngày, Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 91,7% trẻ chăm sóc dưới 14 ngày, chỉ có 6,2% trẻ Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 44 được chăm sóc trên 14 ngày. Kết quả này có thể do đối tượng đưa vào nghiên cứu của chúng tôi có tuổi thai và cân nặng trung bình cao hơn tác giả Châu Duy Khánh, Trung bình tuổi thai và cân nặng trẻ khi đưa vào thực hành Kangaroo của chúng tôi từ 28 tuần đến dưới 37 tuần, có cân nặng 2110 ± 273 gram so với của tác giả Châu Duy Khánh là từ 26 tuần đến dưới 37 tuần, có cân nặng 1703 ± 343 gram. Nhiệt độ trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Châu Duy Khánh, nhiệt độ trẻ trong lúc thực hành Kangaroo luôn ổn định trong khoảng nhiệt độ bình thường (36,5 - 37,5 độ C) chiếm tỉ lệ rất cao (96,7%), một số ít có thân nhiệt tăng và không có trẻ nào bị hạ thân nhiệt cho thấy hiệu quả của phương pháp trong việc ổn định thân nhiệt của trẻ là tối ưu. Phương pháp Kangaroo rất tốt cho việc truyền hơi ấm của mẹ cho con qua tiếp xúc da kề da. Thân nhiệt ổn định là dấu hiệu quan trọng để nhận biết bé có đáp ứng tốt với phương pháp này. Cũng như dấu hiệu đầu tiên cho biết bé dần dần cải thiện triệu chứng lâm sàng từ lúc nhập viện [3]. Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận nhiệt độ trẻ chỉ có thay đổi nhiều trong ngày đầu tiên chăm sóc, những ngày còn lại đến khi ra viện trẻ có nhiệt độ ổn định. Nhịp tim trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hồng Như Phượng thì 100% các trẻ thực hành Kangaroo có nhịp tim ổn định, chỉ dao động từ 120-160 lần/phút [4]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận nhịp tim của trẻ dao động rất ít và ổn định dần khi đến ngày xuất viện, có đến 91,7% nằm trong giới hạn sinh lý bình thường của trẻ. Nhịp thở trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo Kết quả nghiên cứu chúng tôi cho thấy sự thay đổi nhịp thở ở trẻ đều đặn về ngưỡng ổn định cho trẻ là 40-60 lần/phút. Kết quả trên cũng tương đồng với tác giả Nguyễn Hồng Như Phương, tác giả cũng ghi nhận 98% nhịp thở nằm trong giới hạn bình thường 40-60 lần/phút, chỉ có 1,2% nhịp thở tăng trên 60 lần/phút do ủ ấm quá mức và 02 bé viêm phổi do có người chăm sóc bị cảm ho [4]. Khi nói về cơn ngưng thở trong quá trình chăm sóc trẻ sinh non, tác giả Châu Duy Khánh nhận định có đến 25% các trẻ sinh non xuất hiện cơn ngưng thở, trẻ có tuổi thai càng nhỏ càng có nhiều cơn ngưng thở. Kết quả nghiên cứu chúng tôi cũng ghi nhận tương tự, những ngày đầu khi thực hành Kangaroo cho thấy trẻ có nhiều cơn ngưng thở nhưng ổn định rất nhanh trong những ngày thực hành tiếp theo. Chế độ ăn của trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo Trong nghiên cứu của chúng tôi trẻ được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 3 ngày đầu tỉ lệ thấp chỉ chiếm khoảng 35,4% sau đó tỉ lệ này tăng dần và đến trước khi xuất viện tỉ lệ trẻ được nuôi con bằng sữa mẹ lên đến 91,7%. Sữa công thức được sử dụng cho trẻ 3 ngày đầu sau đó giảm dần đến sau 9 ngày thì không còn trẻ nào phải sử dụng sữa công thức. Nghiên cứu chúng tôi cũng tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Hồng Như Phượng, tỉ lệ trẻ được nuôi bằng sữa mẹ hoàn toàn của tác giả lên đến 96,7%. Việc nuôi con bằng sữa mẹ nghiên cứu chúng tôi cao hơn nhiều so với nghiên cứu Châu Duy Khánh: sữa mẹ 75,8%, sữa hỗn hợp 4,2%, sữa công thức 20% [3]. Sự khác biệt có thể do sự hiểu biết của các bà mẹ về lợi ích nuôi con bằng sữa mẹ Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 45 được gia tăng và bà mẹ là người thực hành Kangaroo chính cho trẻ. Hội thảo quốc tế đầu tiên về phương pháp Kangaroo được tổ chức ở Trieste (năm 1966) đã thống nhất một số thuật ngữ, định nghĩa, cụ thể là phương pháp Kangaroo dùng để chỉ chăm sóc trẻ sơ sinh một cách toàn diện bao gồm tiếp xúc da kề da, nuôi con bằng sữa mẹ và xuất viện sớm[4]. Cho nên nuôi con bằng sữa mẹ là một phần trong chăm sóc Kangaroo. Tình trạng tăng cân của trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo Kết quả nghiên cứu chúng tôi cho thấy trẻ có cân nặng tăng rõ rệt khi thực hành Kangaroo, trước khi thực hành có 43,8% trẻ có cân nặng ≤ 2000gram, sau thực hành tỉ lệ trẻ có cân nặng ≤ 2000gram chỉ còn 22,9%. Khi bắt đầu thực hành Kangaroo, trẻ có biểu hiện sụt cân sinh lý sau đó tăng cân trở lại và tăng đều đến khi đủ điều kiện xuất viện. Theo tác giả Châu Duy Khánh thì tiêu chuẩn xuất viện khi trẻ ≥ 1800 gram[3], còn chúng tôi chọn tiêu chí xuất viện là khi cân nặng tăng đều trong 3 ngày, mỗi ngày tăng ít nhất 15-20gram không còn biểu hiện các rối loạn khác. Số giờ thực hành Kangaroo mỗi ngày Theo nghiên cứu Châu Duy Khánh thời gian thực hành Kangaroo dao động tăng dần từ thấp nhất 8 giờ/ngày đến cao điểm nhất 18 giờ/ ngày, thời gian ủ ấm trung bình 11,25 giờ [3], còn theo nghiên cứu của Nguyễn Hồng Như Phượng thì số giờ thực hiện Kangaroo trong ngày nhiều nhất 23 giờ (chỉ tách bé khi bé đi vệ sinh, lau bé, mẹ đi vệ sinh cá nhân, ăn uống), ít nhất 08 giờ đa phần các bé có cân nặng > 2000 gr tuổi thai > 36 tuần [4]. Kết quả nghiên cứu chúng tôi tương tự các tác giả trên, thời gian thực hành Kangaroo mỗi ngày mỗi tăng thấp nhất là 7 giờ/ngày và cao điểm nhất 1 ngày thực hành đến 21 giờ. Trung bình 12,6 giờ/ngày mỗi ngày tăng lên đến trung bình 15,4 giờ/ngày có thể thời gian càng về sau thì càng nhiều người biết và hiểu được tầm quan trọng của phương pháp này, chúng tôi triển khai đồng loạt, ngoài ra phòng chúng tôi trang bị máy điều hòa chỉnh nhiệt độ thích hợp tránh đổ mồ hôi của người ấp làm cho phương pháp có hiệu quả hơn. Bảng 15. Cân nặng trung bình của trẻ trước và sau thời gian thực hành Kangaroo Tác giả Trước khi thực hành Kết thúc thực hành Châu Duy Khánh 1784 ± 305 (gram) 2101 ± 279 (gram) Chúng tôi 2110 ± 273 (gram) 2214 ± 280 (gram) Nghiên cứu của chúng tôi trẻ có cân nặng trung bình khi thực hành Kangaroo cao hơn nghiên cứu của Châu Duy Khánh là do nghiên cứu của tác giả có tuổi thai trung bình 30,97±2,58 tuần thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi (34,9±2,8 tuần) . Mức độ hài lòng của bà mẹ và người thân khi thực hành Kangaroo. Nghiên cứu của Đặng Thị Hà cho thấy có đến 72,6% bà mẹ có thái độ đồng ý với việc Kangaroo là phương pháp ủ ấm đơn giản và dễ thực hiện. Ti lệ 64,2% bà mẹ đồng ý rằng Kangaroo là phương pháp ủ ấm an toàn và hiệu quả cho trẻ [2]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi một lần nữa cũng khẳng định sự hài lòng của bà mẹ khi áp Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 46 dụng phương pháp trên với tỉ lệ 100%, trong đó có đến 43,8% bà mẹ rất hài lòng khi áp dụng chăm sóc trẻ bằng phương pháp Kangaroo. 4.3. Một số yếu tố liên quan đến chăm sóc trẻ sơ sinh non tháng – nhẹ cân bằng phương pháp Kangaroo Liên quan giữa cân nặng trẻ với tình trạng trẻ trong thời gian thực hành Kangaroo Theo nghiên cứu của tác giả Huỳnh Thị Thanh Thúy [6] thì trẻ càng nhẹ cân thì tỉ lệ phải can thiệp hỗ trợ để điều trị cho trẻ càng nhiều với các kỹ thuật như đặt Catheter tĩnh mạch rốn, thở áp lực dương liên tục, thở máy và bơm Surfactant tại đơn vị can thiệp NICU. Kết quả nghiên cứu chúng tôi ghi nhận chỉ có 3,7% trẻ >2000gram khi thực hành Kangaroo phải chuyển NICU để điều trị tiếp với các can thiệp hỗ trợ tích cực, trong khi nhóm ≤ 2000gram có đến 28,6% trẻ phải chuyển NICU, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p=0.038 điều này chứng tỏ trẻ càng nhẹ cân thì tỉ lệ phải chuyển đến đơn vị chăm sóc đặt biệt càng cao. Liên quan giữa tuổi thai khi sinh và tình trạng trẻ khi thực hành Kangaroo Kết quả nghiên cứu chúng tôi có đến 27,8% trẻ sinh ra ở nhóm tuổi thai từ 28 đến dưới 34 tuần khi thực hành Kangaroo phải chuyển NICU để điều trị tiếp, trong khi nhóm trẻ sinh ra có tuổi thai từ 34 tuần đến dưới 37 tuần chỉ có 6,67% trẻ phải chuyển NICU, tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thông kê với p=0.062, có thể do số mẫu chúng tôi đưa vào thực hành Kangaroo chưa đủ lớn nên sự khác biệt này vẫn chưa đủ mạnh để khẳng định tuổi thai >34 tuần thì chăm sóc Kangaroo sẽ hiệu quả hơn nhiều so với nhóm <34 tuần và tình trạng diễn biến nặng phải đưa vào đơn vị chăm sóc đặc biệt cũng sẽ giảm đáng kể. Liên quan giữa các bệnh lý của trẻ và tình trạng trẻ trong thời gian thực hành Theo tác giả Lê Nguyễn Nhật Trung [5] thì các bệnh lý của trẻ xuất hiện trong thời gian sau sinh non tháng thường gặp là suy hô hấp sơ sinh, bệnh màng trong, nhiễm trùng huyết, viêm ruột hoại tử, xuất huyết não làm tăng tỉ lệ can thiệp các thủ thuật điều trị tại NICU trong đó thủ thuật thường gặp nhất là thở áp lực dương liên tục chiếm tỉ lệ cao nhất (90,7%) kế đến là thở máy và truyền các thành phần của chế phẩm máu. Nghiên cứu chúng tôi cho thấy số bệnh lý của trẻ càng nhiều thì khi thực hành chăm sóc Kangaroo các trẻ phải chuyển NICU càng tăng, nếu có 2 bệnh lý thì tỉ lệ chuyển NICU là 6,7% trong khi có từ 3 bệnh phối hợp trở lên thì tỉ lệ này lên đến 28,6%. Tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thống kê vối p=0.107, có thể do số lượng ca trong nghiên cứu còn thấp. Liên quan giữa cân nặng trẻ với thời gian thực hành Kangaroo Theo nghiên cứu của Châu Duy Khánh cho thấy trẻ có cân nặng dưới 2000gram được thực hành Kangaroo với thời gian dài hơn những đứa trẻ có cân nặng từ 2000gram trở lên, vì những trẻ có cân nặng càng thấp thì nguy cơ hạ thân nhiệt càng cao cũng như sức đề kháng càng kém và nguy cơ mắc các bệnh lý sơ sinh (tiêu hóa, hô hấp, tim mạch) càng lớn, trẻ càng nhỏ càng non yếu càng chậm phục hồi sức khỏe vì vậy cần thời gian dài chăm sóc Kangaroo để bé từ từ đáp ứng với phương pháp. Vì vậy thời gian thực hành Kangaroo cũng dài hơn những trẻ có cân nặng lớn hơn [3]. Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 47 Kết quả nghiên cứu cho thấy những trẻ có cân nặng <2000gram thời gian thực hành Kangaroo > 9 ngày chiếm 38,1%, trong khi nhóm trẻ cân nặng trên 2000gram chỉ 22,2% có thời gian thực hành > 9 ngày với tỉ số chênh OR=2,15, Tuy nhiên sự khác biệt này chưa có ý nghĩa thông kê với mức tin cậy p=0.234. Có thể cho nhóm nghiên cứu chúng tôi chỉ chọn các trẻ từ 1500-2500gram để đưa vào tiêu chuẩn chọn nên chưa thấy được sự khác biệt này hoặc do số lượng mẫu chưa đủ lớn để khẳng định thời gian chăm sóc những trẻ có cân nặng càng thấp sẽ kéo dài hơn những trẻ có cân nặng lớn hơn có ý nghĩa thống kê. V. KẾT LUẬN Chăm sóc trẻ sinh non bằng phương pháp Kangaroo là giải pháp đơn giản hiệu quả giúp cho trẻ hoàn thiện thể chất. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y Tế (2016), Quyết định số 4218/QĐ-BYT, ngày 29 tháng 07 năm 2016, Hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản. 2. Đặng Thị Hà (2013), Kiến thức, thái độ và thực hành cuả bà mẹ về ủ ấm cho trẻ sơ sinh tại khoa sơ sinh bệnh viện Nhi Đồng Thành Phố Cần Thơ, Y học TP. Hồ Chí Minh, Tập 17, Phụ bản số 4, trang 98-104. 3. Châu Duy Khánh (2016), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ non tháng, nhẹ cân bằng phương pháp Kangaroo tại khoa sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng Cần Thơ năm 2015-2016, Luận văn bác sĩ Y khoa, Trường đại học Y Dược Cần Thơ. 4. Nguyễn Hồng Như Phượng (2017), Đánh giá kết quả chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ non tháng, nhẹ cân bằng phương pháp Kangaroo tại khoa sơ sinh Bệnh viện Phụ Sản Thành phố Cần Thơ, Kỷ yếu hội nghị khoa học Bệnh viện Phụ Sản Thành phố Cần Thơ 2017. 5. Lê Nguyễn Nhật Trung (2015), Kết quả điều trị trẻ sơ sinh non 26-34 tuần tuổi thai tại bệnh viện Nhi Đồng 2 TPHCM, Tạp chí Y Học Thực Hành, số 1, trang 20-29. 6. Huỳnh Thị Thanh Thuý (2014), Tình hình trẻ sơ sinh nhẹ cân tại bệnh viện Nhi Tỉnh Quảng Nam, Kỷ yếu bệnh viện Nhi Tỉnh Quảng Nam. 7. Tổng cục thống kê và Unicef (2015), Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ Việt Nam, Báo cáo MICS việt nam 2014. 8. Trương Quang Vinh (2016), Bài 44: Đặc điểm trẻ sơ sinh đủ tháng, thiếu tháng và già tháng, Giáo trình Sản Khoa, Trường đại học Y Dược Huế, tr 444-454. 9. Conde-Agudelo A (2016), Kangaroo mother care to reduce morbidity and mortality in low birthweight infants. Cochrane Database of Systematic Reviews 2016, Issue 8 10. Ruth Feldman(2003), Skin-to-skin contact (Kangaroo Care) accelerates autonomic and neurobehavioural maturation in preterm infants, Developmental Medicine & Child Neurology 2003, 45: 274–281. 11. Silverman, W. and Anderson (1956), D.H: Pediatrics 17, American Academy of Pediatrics, pp 1-10.
File đính kèm:
danh_gia_ket_qua_va_tim_hieu_mot_so_yeu_to_lien_quan_den_cha.pdf

