Đánh giá kết quả trung hạn tái tạo van động mạch chủ bằng màng tim tự thân theo phương pháp Ozaki: Thông báo ca lâm sàng
Mục tiêu: Thông báo kết quả sau 4 năm phẫu thuật bệnh nhân đầu tiên tại Việt Nam được tái tạo van động mạch chủ bằng màng ngoài tim tự thân theo phương pháp Ozaki.
Ca lâm sàng: Bệnh nhân nam 35 tuổi hở van động mạch chủ nặng, van động mạch chủ 2 lá van được phẫu thuật tái tạo van bằng màng ngoài tim tự thân, xử lý ngâm trong dung dịch Glutaraldehyd 0,6%. Kết quả kiểm tra ngay sau mổ van không hở, các cánh van hoạt động tốt, chênh áp qua van tối đa 1,7mmHg. Khám lại sau 4 năm: Lâm sàng: mọi hoạt động trở lại bình thường, chơi thể thao, không phải dùng thuốc. Siêu âm tim: các lá van mềm mại hoạt động tốt, không hở, không bị canxi hoá, chênh áp tối đa qua van 1,5mmHg.
Kết luận: Theo dõi trung hạn tái tạo van động mạch chủ bằng màng ngoài tim tự thân cho kết quả tốt. Phương pháp có nhiều ưu điểm hứa hẹn thay thế cho phẫu thuật thay van nhân tạo truyền thống, đem lại nhiều lợi ích hơn cho người bệnh, đặc biệt việc không phải dùng thuốc chống đông sau mổ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả trung hạn tái tạo van động mạch chủ bằng màng tim tự thân theo phương pháp Ozaki: Thông báo ca lâm sàng
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 55 Đánh giá kết quả trung hạn tái tạo van động mạch chủ bằng màng tim tự thân theo phương pháp Ozaki: Thông báo ca lâm sàng Nguyễn Công Hựu, Đỗ Anh Tiến, Lê Tiến Dũng, Nguyễn Trần Thủy, Phan Thảo Nguyên Nguyễn Trung Hiếu, Nguyễn Đỗ Hùng, Nguyễn Thái Long, Ngô Thành Hưng Phạm Thị Minh Huệ, Ngô Thị Hải Linh, Lê Ngọc Thành Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E - Hà Nội TÓM TẮT Mục tiêu: Thông báo kết quả sau 4 năm phẫu thuật bệnh nhân đầu tiên tại Việt Nam được tái tạo van động mạch chủ bằng màng ngoài tim tự thân theo phương pháp Ozaki. Ca lâm sàng: Bệnh nhân nam 35 tuổi hở van động mạch chủ nặng, van động mạch chủ 2 lá van được phẫu thuật tái tạo van bằng màng ngoài tim tự thân, xử lý ngâm trong dung dịch Glutaraldehyd 0,6%. Kết quả kiểm tra ngay sau mổ van không hở, các cánh van hoạt động tốt, chênh áp qua van tối đa 1,7mmHg. Khám lại sau 4 năm: Lâm sàng: mọi hoạt động trở lại bình thường, chơi thể thao, không phải dùng thuốc. Siêu âm tim: các lá van mềm mại hoạt động tốt, không hở, không bị canxi hoá, chênh áp tối đa qua van 1,5mmHg. Kết luận: Theo dõi trung hạn tái tạo van động mạch chủ bằng màng ngoài tim tự thân cho kết quả tốt. Phương pháp có nhiều ưu điểm hứa hẹn thay thế cho phẫu thuật thay van nhân tạo truyền thống, đem lại nhiều lợi ích hơn cho người bệnh, đặc biệt việc không phải dùng thuốc chống đông sau mổ. ĐẶT VẤN ĐỀ Phẫu thuật thay van động mạch chủ là phẫu thuật tim hở phổ biến. Mặc dù có nhiều cải tiến của các loại van nhân tạo, ảnh hưởng lên dòng chảy qua van do vòng van bị thu hẹp, cố định mất tính co giãn, hậu quả của việc phải dùng thuốc chống đông máu kéo dài trong trường hợp thay van cơ học, thoái hoá sớm ở van sinh học vẫn là những hạn chế lớn chưa khắc phục được. Các ảnh hưởng này sẽ nặng nề hơn trong những trường hợp vòng van nhỏ, trẻ em chưa đến tuổi trưởng thành. Năm 2011, Shigeyuki Ozaki (phẫu thuật viên Nhật Bản) đã công bố phương pháp sử dụng màng tim tự thân tạo 3 cánh van riêng biệt thay thế cho van động mạch chủ bệnh lý[1]. Phương pháp được chỉ định cho tất cả các loại thương tổn van động mạch chủ, khắc phục được phần lớn các nhược điểm của van nhân tạo: không phải dùng thuốc chống đông sau mổ, đảm bảo được tính co giãn và không làm thu hẹp vòng van, kết quả theo dõi trung hạn cho thấy không có trường hợp nào lá van tái tạo bị thoái hoá, tỷ lệ các biến chứng rất thấp so với van nhân tạo. Chúng tôi thông báo kết quả theo dõi sau 4 năm ca lâm sàng đầu tiên ở Việt Nam được bác sỹ Shigeyuki Ozaki thực hiện tại Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E - Hà Nội năm 2013. CA LÂM SÀNG Bệnh nhân nam 35 tuổi, dân tộc Mường, tiền sử khoẻ mạnh, vào viện vì khó thở. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.201856 Khám lâm sàng: Bệnh nhân tỉnh táo, cao 160cm, nặng 59 kg, NYHA II, tim đều 85 lần/phút, thổi tâm trương 3/6 ổ van động mạch chủ. Các xét nghiệm máu trong giới hạn bình thường. Siêu âm tim: Van động mạch chủ 2 lá van, van thanh mảnh, hở van động mạch chủ mức độ nặng, chiều dài dòng hở 68mm, đường kính dòng hở / đường ra thất trái: 10mm/27mm; Dd 66 mm, EF 55%; các van khác bình thường, động mạch chủ lên 22,5 mm. Chỉ định phẫu thuật: Hội chẩn, trao đổi cùng bệnh nhân và gia đình lựa chọn phương pháp tái tạo van động mạch chủ bằng màng tim tự thân, do bác sỹ Shigeyuki Ozaki trực tiếp phẫu thuật. Ca mổ được thực hiện ngày 22/7/2013. Quy trình phẫu thuật: Bệnh nhân được gây mê toàn thân, cưa mở toàn bộ xương ức. Lấy màng tim bằng dao siêu âm, kích thước khoảng 7x8 cm. Xử lý màng tim: lấy bỏ tối đa tổ chức mỡ, cố định màng tim vào bản nhựa trong bộ dụng cụ Ozaki (Ozaki kit). Màng tim được ngâm trong dung dịch Glutaraldehyde 0,6% trong 6 phút, sau đó được lắc rửa 3 lần riêng biệt, mỗi lần 6 phút bằng dung dịch NaCl 0,9%. Phẫu tích tổ chức quanh gốc động mạch chủ, bộc lộ động mạch vành phải, đánh dấu bằng bút phẫu thuật vị trí mở động mạch chủ trên vị trí xuất phát động mạch vành phải 1,5cm. Thiết lập tuần hoàn ngoài cơ thể: ống động mạch đặt vào động mạch chủ lên gần nguyên uỷ thân động mạch cánh tay đầu, 1 ống tĩnh mạch mạch 2 tầng đặt vào nhĩ phải. Cặp động mạch chủ lên, mở ngang động mạch chủ tại vị trí đánh dấu, truyền dịch liệt tim Custodiol xuôi dòng trực tiếp vào 2 lỗ vành làm ngừng tim. Cắt bỏ 3 lá van động mạch chủ. Dùng dụng cụ đo trong bộ dụng cụ Ozaki để xác định kích cỡ lá van tái tạo dựa theo khoảng cách giữa các vị trí tiếp giáp các lá van (Hình 1). Vẽ định dạng, cắt tạo các lá van với kích cỡ tương ứng theo bộ khung có sẵn (Hình 2,3). Khâu các lá van vào vòng van tương ứng, chỉ Prolen4/0, khâu vắt, tăng cường vị trí tiếp giáp bằng chỉ Prolen 4/0 có miếng đệm ngoài. Thứ tự lần lượt từ lá vành phải, vành trái, không vành. Kiểm tra đường khâu, diện áp các lá van được tái tạo (Hình 4). Khâu đóng động mạch chủ lên, thả cặp động mạch chủ cho tim đập lại. Siêu âm thực quản kiểm tra van tim tái tạo trước khi ngừng tuần hoàn ngoài cơ thể. Hình 1. Bộ dụng cụ Ozaki NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 57 Hình 3. Cắt tạo các lá van Hình 4. Kiểm tra van sau khâu Hình 2. Vẽ định dạng lá van NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.201858 Trong đó: D: đường kính vòng van, H: chiều cao lá van, C: chu vi, L: chiều dài. Kết qủa sau 8 tháng có 1 bệnh nhân phải mổ lại do rách lá van vị trí tiếp giáp, 2 bệnh nhân bị viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn phải mổ lại vào tháng thứ 5 và 31. Năm 1998 cũng chính nhóm nghiên cứu thông báo kết quả trong thời gian theo dõi trung bình 8 năm, so sánh việc sử dụng màng tim tự thân và màng tim bò xử lý công nghiệp, cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa ở nhóm sử dụng màng tim tự thân: tỷ lệ sống còn và không bị thoái hoá van lần lượt là 82,2%+- 9,6% và 76,2%+- 10,7% ở các bệnh nhân dùng màng tim bò, so với 91,05% +- 3,96% và 96,8% +- 2,25% ở các bệnh nhân dùng màng tim tự thân [3]. Kết quả sau này cũng như việc tiếp tục thực hiện kỹ thuật nữa hay không chúng tôi không tìm được tư liệu công bố tiếp theo của nhóm nghiên cứu. Năm 2011, tác giả Shigeyuki Ozaki, trung tâm y khoa trường đại học Toho - Tokyo công bố công trình đầu tiên phương pháp Ozaki tái tạo 3 cánh van động mạch chủ riêng rẽ bằng màng tim tự thân. Trong thời gian từ 2007 đến 2009, nhóm tác giả đã phẫu thuật cho 88 bệnh nhân van động mạch chủ, trong đó 65 bệnh nhân hẹp van, 23 ca hở van; 21 Kết quả phẫu thuật: Thời gian mổ 5 giờ, tuần hoàn ngoài cơ thể 160 phút, cặp động mạch chủ 111 phút, chạy máy hỗ trợ 25 phút, thở máy 5 giờ, nằm hồi sức 52 giờ, rút dẫn lưu ngày thứ 3 sau mổ, tổng số dịch dẫn lưu 500ml, nằm viện 13 ngày. Siêu âm tim sau mổ 1 tuần: 3 cánh van tái tạo hoạt động tốt, không hở van, chênh áp tối đa 1,7mmHg, đường kính thất trái cuối tâm trương 60, EF 50%. Khám lại sau 48 tháng: mọi hoạt động trở lại bình thường, không khó thở gắng sức, chơi thể thao được, không phải dùng thuốc. Siêu âm tim: các cánh van thanh mảnh, đóng mở tốt, không có biểu hiện can xi hoá, không hở hẹp, chênh áp qua van tối đa 1,5mmHg, đường kính thất trái cuối tâm trương 50 mm, EF 57%. BÀN LUẬN Màng ngoài tim tự thân được sử dụng phổ biến trong sửa van tim. Đối với bệnh van động mạch chủ, phẫu thuật thay van vẫn là chủ yếu, sửa van ít hơn so với van hai lá do đặc điểm giải phẫu ảnh hưởng đến kết quả sớm cũng như lâu dài. Mặc dù có nhiều tiến bộ, phẫu thuật thay van vẫn chưa khắc phục được nhược điểm phải dùng thuốc chống đông đối van cơ học, thoái hoá van sớm ở van sinh học. Hơn nữa trong những trường hợp vòng van nhỏ, trẻ nhỏ thay van nhân tạo gặp nhiều khó khăn trong việc đạt được dòng chảy tối ưu qua van. Vấn đề tái tạo toàn bộ các lá van động mạch chủ bằng màng tim đã được đề cập đến từ những năm 1990s nhưng việc phổ biến còn khá dè dặt vì nhiều lý do. Năm 1995, nhóm nghiên cứu của Duran tại Ả Rập Xê Út đã công bố kết quả phẫu thuật sử dụng màng ngoài tim tự thân được xử lý bằng dung Glutaraldehyde tái tạo van động mạch chủ cho 49 bệnh nhân[2]. Kỹ thuật của nhóm nghiên cứu Duran: Đường tiếp cận cưa mở toàn bộ xương ức và cách thức thiết lập tuần hoàn ngoài cơ thể giống như thay van nhân tạo. Màng ngoài tim phía trước được lấy với kích thước: dài hơn 1cm so với 3 lần đường kính vòng van động mạch chủ, rộng hơn so với chu vi vòng van (xác định bởi siêu âm thực quản). Ngâm miếng màng ngoài tim trong dung dịch Glutaraldehyde 0,5% trong 10 phút, sau đó được lắc rửa 3 lần riêng biệt bằng dung dịch ringer lactate trong 10 phút. Hình dạng và kích cỡ các lá van được cắt liền trên cùng dải màng tim sau khi đo vẽ dựa vào 3 khuôn đo plastic theo kích cỡ tương ứng với đường kính vòng van động mạch chủ đo trên siêu âm thực quản[2]: L = 3D + 0.6 1.24D 0.7D 0.2D 1/2 C C = 1/3L C = 1/3L C = 1/3L H = D NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.2018 59 bệnh nhân van động mạch chủ 2 lá van, 1 bệnh nhân van động mạch chủ 4 lá van. Kết quả thành công 100% về mặt kỹ thuật, không có tử vong bệnh viện. Siêu âm 1 tuần sau mổ: chênh áp tối đa qua van 19,0 +- 9,1mmHg; sau 1 năm 12,9+- 5,8 mmHg, chỉ có 2 bệnh nhân hở van mức độ nhẹ. Sau 3 năm theo dõi không có trường hợp nào phải mổ lại [1]. Các đặc điểm chính của kỹ thuật Ozaki: Màng ngoài tim tự thân được ngâm trong dung dịch Glutaraldehyde 0,6%, thời gian 6 phút; lắc rửa 3 lần riêng biệt, mỗi lần 6 phút, bằng dung dịch huyết thanh mặn 0,9%. Các lá van được tạo riêng rẽ với các kích cỡ khác nhau tương ứng với từng xoang Valsalva. Bộ dụng cụ để cắt tạo lá van từ màng tim (Ozaki kit - được sản xuất sẵn) gồm nhiều thành phần riêng biệt, trong đó quan trọng nhất là bộ đo khoảng cách giữa vị trí tiếp giáp các lá van (commissure) các cỡ và khung vẽ gồm nhiều định dạng lá van. Với mỗi cỡ của bộ đo khoảng cách sẽ tương ứng với một định dạng lá van được đánh số của khung vẽ. Lá van được cắt tạo theo định dạng trên khung vẽ. Các lá van này được khâu rời vào vòng van ở từng xoang Valsalva tương ứng theo cỡ của bộ đo. Điểm lưu ý kỹ thuật này luôn tạo van động chủ mới có 3 cánh van. Như vậy với bệnh nhân có van động mạch chủ không phải 3 lá van, phẫu thuật viên phải vẽ tạo 3 vị trí tiếp giáp. Năm 2014, chỉ sau lần công bố đầu tiên 3 năm, tác giả đã cho xuất bản công trình nghiên cứu thứ 2 trên một số lượng lớn bệnh nhân với kết quả rất ấn tượng: 404 bệnh nhân trong khoảng thời gian 2007 - 2011. Theo dõi sau mổ trung bình 23,7 +-13,1 tháng, chỉ có 2 bệnh nhân phải mổ lại do viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn: 1 bệnh nhân sau mổ 10 tháng (bệnh nhân có máy tạo nhịp), 1 trường hợp suy thận mạn trước mổ phải lọc máu chu kỳ. Các trường hợp còn lại van hoạt động tốt, không hẹp, không hở hoặc hở rất nhẹ, chênh áp tối đa qua van 13,8+-3,7mmHg. Tác giả không dùng chống đông cho van tim từ ngay sau mổ, ngoại trừ các lý do khác, không xảy ra các biến chứng tắc mạch trong thời gian theo dõi [4]. Ưu điểm của phương pháp Ozaki: bệnh nhân không phải dùng thuốc chống đông từ ngay sau mổ, có thể thực hiện cho tất cả các kiểu thương tổn bệnh lý cũng như đặc điểm giải phẫu của van động mạch chủ, bảo tồn sự co giãn và không làm thu hẹp vòng van, diện áp các lá van lớn. Chính vì vậy nếu thực hiện đúng kỹ thuật mức độ chênh áp qua van rất thấp và ít hở van. Phương pháp đặc biệt có ưu điểm ở các trường hợp vòng van nhỏ, trẻ nhỏ, phụ nữ trong thai kỳ. Phương pháp Ozaki lần đầu tiên được giới thiệu và thực hiện ở Việt Nam vào tháng 7 năm 2013 tại Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E - Hà Nội, bởi chính tác giả Shigeyuki Ozaki và nhóm phẫu thuật đến từ trường đại học Toho. Ông đã trực tiếp giảng dạy về phương pháp và thực hiện ca mổ tái tạo van cho bệnh nhân trên. Toàn bộ vật liệu, dụng cụ mổ được nhóm phẫu thuật mang từ Nhật Bản sang. Với sự giúp đỡ của ông, kỹ thuật được chuyển giao thành công cho các phẫu thuật viên trong nước. Từ tháng 7/2017 đến thời điểm hiện tại tháng 11/2017, chỉ sau gần 4 tháng, kỹ thuật đã được thực hiện độc lập, thành công cho12 bệnh nhân bởi nhóm phẫu thuật của Trung tâm tim mạch bệnh viện E. Trong số đó: 8 bệnh nhân van động mạch chủ đơn thuần, 2 bệnh nhân bệnh đa van tim kết hợp thay van hai lá nhân tạo, 2 bệnh nhân thông liên thất biến chứng hở van động mạch chủ do sa van được vá lỗ thông và tái tạo chỉ 1 cánh van. Siêu âm ngay sau mổ: các van tim được tái tạo đều hoạt động tốt, không hở hoặc hở rất nhẹ, chênh áp tối đa qua van ở mức 20mmHg. Kết qủa này mở ra một triển vọng mới cho các bệnh nhân phải phẫu thuật van động mạch chủ trong nước. Theo số liệu mới nhất cho đến nay đã có khoảng 1500 bệnh nhân được tái tạo van động mạch chủ theo phương pháp này trên khắp thế giới, hơn 40 NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 81.201860 ABSTRACT Objective: To report the results after 4 years of aortic valve reconstructionwith autologous pericardium – Ozaki’s procedure in the first patient in Vietnam. Case study: A 35-year-old male patient suffered from severe aortic regurgitation due to bicuspid aortic valve, underwent tricuspid aortic valve reconstruction using glutaraldehyde 0.6%-treated autologous pericardium. Immidiate post-operative echocardiography revealed no aortic regurgitation, all cusps worked well, maxium gradient through new aortic valve was 1.7 mmHg. 4 years after surgery: Clinical: return to normal activities, be able to play sport, not on anticoagulation. Echocardiography: smoothly working valve, no regurgitation, no calcification, maximum pressure gradient 1.5 mmHg. Conclusion: Mid-term follow-up of aortic valve reconstruction using autologous pericardium showed good results. This method posses many advantages compared to conventional aortic valve replacement surgery, brings more benefits to the patients, especially patients can cease from anticoagulant medications. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ozaki S, Kawase I, Yamashita H, Uchida S, Nozawa Y, Matsuyama T, et al. Aortic valve reconstruction using self-developed aortic valve plasty system in aortic valve disease. Interact Cardiovasc Thorac Surg 2011; 12: 550 – 553. 2. Duran CM, Gallo R, Kumar N. Aortic valve replacement with autologous pericardium: surgical technique. J Card Surg. 1995 Jan;10(1):1-9. 3. Duran CM, Gometza B, Shahid M, Al-Halees Z. Treated bovine and autologous pericardium for aortic valve reconstruction. Ann Thorac Surg. 1998 Dec;66(6 Suppl):S166-9. 4. Ozaki S, Kawase I, Yamashita H et al. A total of 404 cases of aortic valve reconstruction with glutaraldehyde -treated autologous pericardium. Journal of Thoracic and Cardiovascular Surgery, 147(1), 301–306. 5. AVNeo (Aortic Valve Neo-cuspidization). https://avneo.net 6. Rosseykin E.V, Bazylev V.V, Batrakov P.A et al. Immediate results of aortic valve reconstruction by using autologous pericardium (Ozaki procedure). Patologiya krovoobrashcheniya i kardiokhirurgiya = Circulation Pathology and Cardiac Surgery. 2016;20(2):44-48. (In Russ.). 7. Yamashita H, Ozaki S, Iwasaki K, Kawase I et al. Tensile strength of human pericardium treated with glutaraldehyde. Ann Thorac Cardiovasc Surg. 2012;18(5):434-7. Epub 2012 Apr 27. trung tâm tại Nhật Bản và hơn 20 trung tâm tại Mỹ và Châu Âu đã triển khai thường quy kỹ thuật[5]. Mới đây trong năm 2016, một nhóm tác giả tại liên bang Nga đã công bố kết quả phẫu thuật Ozaki cho 20 bệnh nhân van động mạch chủ trong khoảng thời gian tháng 1/2014 đến tháng 2/2016 [6]. Điều này cho thấy phương pháp đã chứng minh được tính ưu việt và được chấp nhận tại các quốc gia phát triển với những tiêu chuẩn hết sức khắt khe. Về kết quả lâu dài hơn nữa cần có các đánh giá tiếp theo. Tuy nhiên trong một nghiên cứu về sức bền cơ học cho thấy màng ngoài tim tự thân được xử lý bằng dung dịch Glutaraldehyde có độ bền cao gấp 4 lần so với các loại van tim khác [7].
File đính kèm:
danh_gia_ket_qua_trung_han_tai_tao_van_dong_mach_chu_bang_ma.pdf

