Đánh giá kết quả thay khớp gối toàn phần sử dụng đường mổ dưới cơ rộng trong

Phẫu thuật thay khớp gối toàn phần bằng đường mô dưới cơ rộng trong đã được áp dụng tại Bệnh viện Đại

học Y Hà Nội và Bệnh viện Xanh pôn, tuy nhiên còn thiếu nghiên cứu đánh giá hiệu quả. Vì vậy chúng tôi thực hiện

nghiên cứu với mục tiêu đánh giá kết quả thay khớp gối toàn phần sử dụng đường ổ dưới cơ rộng trong. Nghiên

cứu thực hiện trên 30 khớp gối của các bệnh nhân có thoái hóa khớp gối độ III trở lên theo phân loại KellgrenLawrence, đã từng điều trị nội khoa không kết quả, và có chỉ số BMI < 23.="" các="" kết="" quả="" cho="" thấy="" bệnh="" nhân="">

theo dõi trung bình 6,53 ± 4,16 tháng. Sau phẫu thuật, mức độ đau và biên độ vận động khớp gối cải thiện rõ rệt.

Cụ thể, biên độ gấp tăng 22,9 ± 17,1 độ, và biên độ duỗi giảm được 14 ± 10,0 độ. Điểm số KS sau mổ đạt 93%

và trung bình tăng 34,5 ± 8,5 điểm. Trung bình mỗi bệnh nhân cũng tăng 29,5 ± 12,1 điểm KFS sau phẫu thuật.

Các kết quả này cho thấy hiệu quả rất tốt của phẫu thuật về tác dụng giảm đau và cải thiện khả năng vận động.

pdf 9 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá kết quả thay khớp gối toàn phần sử dụng đường mổ dưới cơ rộng trong", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả thay khớp gối toàn phần sử dụng đường mổ dưới cơ rộng trong

Đánh giá kết quả thay khớp gối toàn phần sử dụng đường mổ dưới cơ rộng trong
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
73TCNCYH 122 (6) - 2019
Tác giả liên hệ: Vũ Mạnh Cường,
Bệnh viện TW Thái Nguyên
Email: [email protected] 
Ngày nhận: 04/07/2019
Ngày được chấp nhận: 12/08/2019
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THAY KHỚP GỐI TOÀN PHẦN 
SỬ DỤNG ĐƯỜNG MỔ DƯỚI CƠ RỘNG TRONG
Vũ Mạnh Cường1, Trần Trung Dũng2,3
1Bệnh viện TW Thái Nguyên
2Bộ môn Ngoại, Trường Đại học Y Hà Nội
3Bệnh viện Xanh Pôn
Phẫu thuật thay khớp gối toàn phần bằng đường mô dưới cơ rộng trong đã được áp dụng tại Bệnh viện Đại 
học Y Hà Nội và Bệnh viện Xanh pôn, tuy nhiên còn thiếu nghiên cứu đánh giá hiệu quả. Vì vậy chúng tôi thực hiện 
nghiên cứu với mục tiêu đánh giá kết quả thay khớp gối toàn phần sử dụng đường ổ dưới cơ rộng trong. Nghiên 
cứu thực hiện trên 30 khớp gối của các bệnh nhân có thoái hóa khớp gối độ III trở lên theo phân loại Kellgren-
Lawrence, đã từng điều trị nội khoa không kết quả, và có chỉ số BMI < 23. Các kết quả cho thấy bệnh nhân được 
theo dõi trung bình 6,53 ± 4,16 tháng. Sau phẫu thuật, mức độ đau và biên độ vận động khớp gối cải thiện rõ rệt. 
Cụ thể, biên độ gấp tăng 22,9 ± 17,1 độ, và biên độ duỗi giảm được 14 ± 10,0 độ. Điểm số KS sau mổ đạt 93% 
và trung bình tăng 34,5 ± 8,5 điểm. Trung bình mỗi bệnh nhân cũng tăng 29,5 ± 12,1 điểm KFS sau phẫu thuật. 
Các kết quả này cho thấy hiệu quả rất tốt của phẫu thuật về tác dụng giảm đau và cải thiện khả năng vận động.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thoái hóa khớp gối là tổn thương của toàn 
bộ khớp, bao gồm tổn thương sụn là chủ yếu, 
kèm theo tổn thương dưới sụn, dây chằng các 
cơ cạnh khớp và màng hoạt dịch [1; 2]. Trên 
thế giới phẫu thuật thay khớp gối toàn phần đã 
được tiến hành từ những năm 1970 và đã đem 
lại chất lượng cuộc sống tốt cho những bệnh 
nhân thoái hóa khớp gối. Ngày nay sự phát triển 
của khoa học kỹ thuật cho ra đời nhiều thế hệ 
khớp mới có những ưu điểm vượt trội, cùng với 
sự tiến bộ về vô khuẩn, gây mê hồi sức và đặc 
biệt là sự tiến bộ về phẫu thuật đã qui chuẩn về 
chỉ định mổ, kỹ thuật mổ...làm cho phẫu thuật 
thay khớp gối ngày càng phổ biến và đạt được 
nhiều thành công [3, 4]. Ở Việt Nam phẫu thuật 
thay khớp gối được tiến hành hơn 10 năm nay 
và chỉ tập trung ở các trung tâm lớn như: Bệnh 
viện Chấn thương Chỉnh hình thành phố Hồ 
Chí Minh, Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện Xanh 
pôn, Bệnh viện 108, Bệnh viện Đại học y Hà 
Nội, Bệnh viện Bạch MaiKhi thay khớp gối đa 
số các phẫu thuật viên lựa chọn đường mổ dọc 
gân cơ tứ đầu đùi, để đa dạng hơn các đường 
mổ khi phẫu thuật khớp gối thì việc nghiên cứu 
lựa chọn thêm các đường mổ mới được đặt 
ra. Hofman2 năm 1991 đã phổ biến đường mổ 
dưới cơ rộng trong là một phương pháp thay 
thế phù hợp khi đường mổ dọc gân cơ tứ đầu 
đùi không thực hiện được.
Tại Bệnh viện Đại học Y và Bệnh viện Xanh 
Pôn Hà Nội phẫu thuật thay khớp gối đã tiến 
hành trong nhiều năm qua. Trong quá trình thực 
hiện, nhiều đường mổ vào khớp phù hợp với 
Từ khóa: Đánh giá kết quả, thay khớp gối toàn phần, đường mổ dưới cơ rộng trong, thoái hóa khớp 
gối.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
74 TCNCYH 122 (6) - 2019
những đối tượng khác nhau đã được áp dụng. 
Đường mổ dưới cơ rộng trong là một trong số 
những đường mổ đã được thực hiện khá thành 
công, tuy nhiên tới nay vẫn chưa có nghiên 
cứu được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả 
điều trị của phương pháp này. Do đó, chúng tôi 
thực hiện nghiên cứu với mục tiêu đánh giá kết 
quả phẫu thuật thay khớp gối toàn phần bằng 
đường mổ dưới cơ rộng trong.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng 
Bệnh nhân được phẫu thuật thay khớp gối 
do bênh lý thoái hóa thỏa mãn các tiêu chuẩn: 
thoái hóa đô III, IV theo phân loại Kellgren-
Lawrence, đã từng điều trị nội khoa không kết 
quả, có chỉ số BMI < 23 và có đủ hồ sơ bệnh án.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại khoa Chấn 
thương chỉnh hình- Bệnh viện Xanh Pôn và 
khoa Chấn thương chỉnh hình - Bệnh viện Đại 
học Y Hà Nội trong khoảng thời gian từ 06/2018 
đến tháng 06/2019.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu
Nội dung nghiên cứu:
- Chẩn đoán: Dựa trên triệu chứng lâm sàng 
các động tác khớp gối, độ vững, biến dạng 
khớp, mức độ đau và hình ảnh X-quang 
gối tìm các hình ảnh hẹp khe khớp, biến dạng 
khớp, gai xương
- Phẫu thuật:
+ Vô cảm: Gây tê tủy sống
+ Phương pháp: thay khớp gối toàn phần 
với đường mổ dưới cơ rộng trong. 
- Đánh giá kết quả sớm sau mổ: lâm sàng, 
X-quang
- Đánh giá kết quả theo dõi: đánh giá độ đau, 
điểm KS (Knee socre), KFS (Knee Functional 
score) trước và sau mổ.
Phương pháp chọn mẫu
Áp dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện. 
Tất cả những người bệnh đạt tiêu chuẩn lựa 
chọn đều được đề xuất tham gia vào nghiên 
cứu. Có tất cả 30 khớp gối của người bệnh 
khác nhau đã được đưa vào nghiên cứu.
Quy trình nghiên cứu
Người bệnh được chẩn đoán thoái hóa khớp 
gối độ III, IV theo phân loại Kellgren-Lawrence 
thoả mãn các tiêu chuẩn lựa chọn được đưa 
vào nghiên cứu. Bệnh nhân được khám, chẩn 
đoán hình ảnh và chỉ định phẫu thuật thay khớp 
gối toàn phần với đường mổ dưới cơ rộng 
trong. Các dữ liệu lâm sàng và cận lâm sàng từ 
trước và ngay sau mổ được thu thập tại bệnh 
viện bởi đội ngũ bác sĩ. Hiệu quả điều trị được 
theo dõi sau mổ với đánh giá độ đau, điểm KS 
và điểm KFS.
3. Xử lý và phân tích số liệu
Sau khi rà soát, thống kê được những 
trường hợp đủ tiêu chuẩn lựa chọn, các thông 
tin được làm sạch và nhập vào máy tính theo 
biểu mẫu thu thập thông tin bằng phần mềm 
Epidata 3.1. Số liệu được phân tích mô tả sử 
dụng tần suất và tỉ lệ % với phần mềm Stata 
14.0.
4. Đạo đức nghiên cứu
Việc sử dụng số liệu được sự đồng ý của 
Bệnh viên Xanh-pôn, bệnh viện Đại học Y Hà 
Nội và chỉ được dùng cho mục đích nghiên 
cứu. Các thông tin thu thập được được giữ bảo 
mật và không gây bất cứ ảnh hưởng nào tới 
người bệnh. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
75TCNCYH 122 (6) - 2019
III. KẾT QUẢ
Nghiên cứu thực hiện trên 30 bệnh nhân được phẫu thuật thay khớp gối, trong đó 24/30 bệnh 
nhân được thực hiện tại Bệnh viện Xanh-Pôn, 6/30 người còn lại được điều trị tại Bệnh viện Đại học 
Y Hà Nội. Tuổi trung bình của bệnh nhân là 63,5 ± 11,1 tuổi và có tới 83,3% số đối tượng là nữ giới.
1. Thời gian theo dõi sau mổ
Bảng 1. Thời gian theo dõi sau mổ
 Thời gian Số lượng Tỷ lệ %
< 6 tháng 12 40,0
≥ 6 tháng 18 60,0
X ± SD Min - Max
Thời gian (tháng) 6,53 ± 4,16 1 - 12
Hầu hết bệnh nhân được theo dõi từ 6 tháng trở lên. Trung bình mỗi bệnh nhân được theo dõi 
6,53 ± 4,16 tháng, tối thiểu là 1 tháng và tối đa là 12 tháng.
2. Mức độ đau
Bảng 2. Mức độ đau VAS
 Mức độ đau VAS Số lượng Tỷ lệ %
Không đau 26 86,66
Đau ít 2 6,67
Đau nhẹ 2 6,67
Đau vừa 0 0
Đau nhiều 0 0
Tổng 30 100
Sau mổ, hầu hết bệnh nhân hết đau, tỷ lệ trả lời không còn đau chiếm 86,66%. Vẫn còn 2/30 bệnh 
nhân đau ít và 2/30 bệnh nhân còn đau nhẹ (chiếm 6,67%)
3. Biên độ vận động
Bảng 3. So sánh biên độ gấp gối trước và sau mổ
Biên độ gấp gối
Trước mổ Sau mổ
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
< 90 độ 4 13,33 0 0
90 – 110 độ 18 60,00 5 16,67
> 110 độ 8 26,67 25 83,33
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
76 TCNCYH 122 (6) - 2019
Biên độ gấp gối
Trước mổ Sau mổ
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Tổng số 30 100 30 100
Biên độ gấp
X ± SD (min – max)
98,90 ± 26,36
(30 – 130)
121,83 ± 12,35
(90 – 130)
P (t - test) 0,00
Biên độ gấp tăng (độ)
 ± SD (min – max)
22,93 ± 17,06
(0 - 65)
Tỷ lệ bệnh nhân có biên độ gấp gối trên 110 độ trước mổ là 26,67%, tăng lên 83,33% sau mổ. 
Biên đô gấp gối trung bình trước mổ là 98,9 ± 26,4. Sau mổ, trung bình mỗi bệnh nhân có biên độ 
gấp gối tăng 22,93 ± 17,06 độ. 
Bảng 4. So sánh biên độ duỗi gối trước và sau mổ
Biên độ duỗi gối
Trước mổ Sau mổ
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Bình thường 7 23,33 28 93,33
Hạn chế ≤ 10 độ 8 26,67 2 5,67
Hạn chế > 10 độ 15 50,00 0 0
Tổng số 30 100 30 30
Biên độ duỗi
X ± SD (min – max)
14,67 ± 10,74
(0 – 30)
0,67 ± 2,54
(0 – 10)
P (t - test) 0,00
Biên độ duỗi giảm (độ)
X ± SD (min – max)
14,00 ± 10,03
(0 – 30)
Sau mổ, tỷ lệ có biên độ duỗi gối bình thường tăng từ 23,33% lên 93,33%. Đồng thời, tỷ lệ duỗi 
hạn chế giảm. Trung bình mỗi bệnh nhân có biên độ duỗi gối giảm 14,00 ± 10,03 độ.
4. Đánh giá kết quả bằng điểm KS
Bảng 5. Điểm KS trước mổ
Mức độ KS
Trước mổ Sau mổ
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Rất tốt 0 0 9 93,33
Tốt 0 0 21 5,67
X 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
77TCNCYH 122 (6) - 2019
Mức độ KS
Trước mổ Sau mổ
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Trung bình 1 3,3 0 0
Kém 29 96,67 0 0
Điểm KS
( X ± SD) (min – max)
41,20 ± 7,12
(30 – 63)
75,67 ± 5,09
(70 – 85)
p (t - test) 0,00
Điểm KS tăng
X ± SD (min – max)
34,46 ± 8,50
(7 – 55)
Trước mổ không có bệnh nhân nào có điểm KS ở mức tốt và rất tốt. Sau mổ không còn bệnh 
nhân nào có điểm KS mức trung bình và kém. Tỷ lệ điểm KS sau mổ rất tốt là 93,33%. Sau mổ, trung 
bình mỗi bệnh nhân có điểm số KS tăng 34,46 ± 8,50 . 
5. Đánh giá kết quả bằng điểm KFS
Bảng 6. Điểm KFS trước mổ
Mức độ KFS
Trước mổ Sau mổ
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Rất tốt 0 0 12 40,0
Tốt 0 0 16 53,33
Trung bình 5 16,67 2 6,67
Kém 25 83,33 0 0
Điểm KFS 
( X ± SD) (min – max)
46,53 ± 12,86
(20 – 80)
76,03 ± 4,98
(60 – 85)
p (t - test) 0,00
Điểm KFS tăng
X ± SD (min – max)
29,50 ± 12,07
(0 – 50)
Tỷ lệ bệnh nhân có điểm KFS sau mổ đạt tốt và rất tốt lần lượt là 53,33% và 40%. Tỷ lệ điểm KFS 
ở mức trung bình và kém giảm rõ rệt sau mổ. Trung bình mỗi bệnh nhân có điểm số KFS tăng 29,5 
± 12,07. Sự khác biệt về điểm số KFS trước và sau mổ có ý nghĩa thống kê.
IV. BÀN LUẬN
Đa số bệnh nhân được theo dõi từ 6 tháng 
trở lên, chiếm 60%. Tỷ lệ dưới 6 tháng là 40%. 
Trung bình mỗi bệnh nhân được theo dõi 6,53 
± 4,16 tháng, tối thiểu là 1 tháng và tối đa là 12 
tháng. Thời gian theo dõi này ngắn hơn trong 
nghiên cứu của Phan Trung Quyết với trung 
bình theo dõi 7,6 tháng (4 - 15 tháng) [5]. Trên 
thực tế, với khoảng thời gian này là chưa đủ dài 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
78 TCNCYH 122 (6) - 2019
để đánh giá toàn diện hiệu quả của phẫu thuật 
này. Tuy nhiên, do chúng tôi mới thực hiện thay 
khớp gối toàn phần sử dụng đường mổ này nên 
chưa có nhiều thời gian để đánh giá xa. Do vậy 
những kết quả của chúng tôi thu được mới chỉ 
là nhận định ban đầu. Chúng tôi sẽ tiếp tục theo 
dõi để có những đánh giá toàn diện hơn. 
Chúng tôi sử dụng thang điểm VAS để đánh 
giá mức độ đau sau mổ. Theo đó, bệnh nhân 
trả lời mức độ đau từ 0 đến 10 điểm, với 0 điểm 
là hoàn toàn không đau và 10 điểm là đau nhiều 
nhất. Sau đó, các mức độ đau lại đươc phân 
loại thành: Không đau: 0 điểm; Đau ít, cảm giác 
khó chịu: 1 - 2 điểm; Đau nhẹ: 3 - 4 điểm; Đau 
vừa: 5 - 6 điểm và Đau nhiều: 7 - 10 điểm. Kết 
quả nghiên cứu cho thấy: Sau mổ, hầu hết bệnh 
nhân hết đau, tỷ lệ trả lời không còn đau chiếm 
86,66%. Vẫn còn 2/30 bệnh nhân đau ít và 2/30 
bệnh nhân còn đau nhẹ (chiếm 6,67%). Có thể 
thấy, trước mổ 100% số bệnh nhân có đau liên 
tục (cả khi không đi lại). Đau trong thoái hóa 
khớp gối có thể do các nguyên nhân viêm màng 
hoạt dịch, kéo căng đầu mút thần kinh màng 
xương do gai xương, co kéo dây chằng, phù nề 
bao khớp hay là do co thắt cơ. Quá trình phẫu 
thuật đã được cắt lọc hoạt mạc viêm, loại bỏ 
các gai xương, cân bằng phần mềm v.vnghĩa 
là đã cố gắng loại bỏ các nguyên nhân gây đau 
cho bênh nhân. Đau là chỉ định chính của phẫu 
thuật và giảm đau là mục tiêu quan trọng của 
điều trị. Một nghiên cứu khác cũng báo cáo vẫn 
có nhiều bệnh nhân phản ánh tình trạng đau 
tại thời điểm sau phẫu thuật thay khớp gối một 
ngày, đây là hậu quả của việc hết tác dụng của 
thuốc gây tê/ gây mê [6]. Kết quả giảm đau sau 
mổ cũng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: 
thiết kế khớp gối, tình trạng phần mềm quanh 
khớp, mức độ xâm lấn phá hủy phần mềm 
trong khi mổ, khả năng lỏng khớp hoặc cứng 
khớp, vị trí bánh chè bất thường, biến chứng 
gãy xương, nhiễm trùng[7; 8].
Tầm vận động của khớp phụ thuộc vào thiết 
kế của khớp, kỹ thuật mổ, phục hồi chức năng 
sau mổ và bệnh tật của bệnh nhân. Rõ ràng, 
thiết kế khớp không thể quyết định hết mà nó 
còn phụ thuộc vào kỹ thuật mổ và phục hồi chức 
năng sau mổ, bệnh tật của người bệnh. Kinh 
nghiêm của phẫu thuật viên cũng ảnh hưởng 
không nhỏ đến kết quả phẫu thuật. Với những 
phẫu thuật viên có kinh nghiệm về cắt xương 
cũng như cân bằng phần mềm sẽ can thiệp ít 
hơn vào gối, bệnh nhân sẽ vững gối hơn đồng 
thời ít đau sau mổ nên tập phục hồi chức năng 
sẽ tốt hơn. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy, biên độ vẫn 
động cải thiện đáng kể cả vận động duỗi và gấp 
sau mổ so với trước đó. Trước mổ có 13,333% 
số bệnh nhân có biên độ gấp gối dưới 90 độ, 
sau mổ không còn bệnh nhân nào có biên độ 
thuộc nhóm này. Tỷ lệ biên độ gấp gối trước 
mổ trong nhóm 90 – 110 độ là 60%, giảm còn 
chỉ 15,67% sau phẫu thuật. Tỷ lệ bệnh nhân 
có biên độ gấp gối trên 110 độ trước mổ là 
26,67%, tăng lên 83,33% sau mổ. Biên đô 
gấp gối trung bình trước mổ là 98,90 ± 26,36. 
Biên độ gấp gối trung bình sau mổ là 121,83 ± 
12,35 độ. Sau mổ, trung bình mỗi bệnh nhân 
có biên độ gấp gối tăng 22,93 ± 17,06 độ. Bệnh 
nhân tăng nhiều nhất tới 65 độ. Sự khác biệt 
về biên độ gấp gối trước và sau mổ có ý nghĩa 
thống kê. Sau mổ, tỷ lệ có biên độ duỗi gối bình 
thường tăng từ 23,33% lên 93,33%. Đồng thời, 
tỷ lệ duỗi hạn chế giảm. Sau mổ, trung bình mỗi 
bệnh nhân có biên độ duỗi gối giảm 14,00 ± 
10,03 độ, bệnh nhân giảm nhiều nhất tới 30 độ. 
Sự khác biệt về biên độ duỗi gối trước và sau 
mổ có ý nghĩa thống kê.
Có thể thấy rằng, tầm vận động khớp gối 
sau phẫu thuật thay khớp gối toàn phần ở bệnh 
nhân thoái hóa khớp gối trong nghiên cứu của 
chúng tôi đạt rất tốt. Kết quả này cũng được thể 
hiện trong nghiều nghiên cứu trước đó. Theo 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
79TCNCYH 122 (6) - 2019
Nilen A Shah và cộng sự, biên độ vận động 
khớp gối sau phẫu thuật được cải thiện đáng 
kể. Trước phẫu thuật trung bình đạt 72 độ (40 
– 90 độ); trung bình mỗi bệnh nhân cải thiện 
38 độ sau phẫu thuật [9]. Debette và cộng sự 
(2014) đã thực hiện nghiên cứu hồi cứu 239 
bệnh nhân bị hạn chế gấp đầu gối ( < 90) được 
phẫu thuật thay khớp gối toàn phần. Trước 
phẫu thuật, trung bình mỗi bệnh nhân có biên 
độ gấp gối là 83 độ. Sau phẫu thuật, kết quả 
cho thấy ROM được cải thiện đáng kể, trung 
bình đạt 39 độ [10]. Những kết quả này có thể 
chứng minh hiệu quả tích cực của biện pháp 
thay khớp gối toàn phần trong điều trị hạn chế 
vận động ở bệnh nhân có thương tổn khớp gối, 
đặc biệt là những bệnh nhân thoái hóa khớp 
gối. Với mức độ cải thiện biên độ vận động 
khớp gối sau mổ như trên, hầu hết bệnh nhân 
đều thấy thuận lợi trong sinh hoạt và hài lòng 
với kết quả thu được. Phẫu thuật thay khớp gối 
toàn phần ngoài việc sửa chữa biến dạng thì 
cải thiện chức năng gấp duỗi gối, thể hiện hiệu 
quả tuyệt vời của phẫu thuật so với trước mổ 
[11].
KS được xác định dựa trên độ đau, độ gấp 
cứng, độ chậm duỗi, mức độ gấp, mức độ vẹo 
trong – ngoài, mức độ mất vững theo hướng 
trước sau và mức độ mất vững hướng trong 
– ngoài. Điểm KS tối đa là 100 điểm và có thể 
được phân loại thành các mức rất tốt (80 – 100 
điểm), tốt (70 – 79 điểm), khá (60 – 69 điểm) 
và xấu (dưới 60 điểm). Kết quả nghiên cứu 
cho thấy, trước mổ không có bệnh nhân nào có 
điểm KS ở mức tốt và rất tốt. Sau mổ không còn 
bệnh nhân nào có điểm KS mức trung bình và 
kém. Tỷ lệ điểm KS sau mổ rất tốt là 93,33%. 
Sau mổ, trung bình mỗi bệnh nhân có điểm số 
KS tăng 34,46 ± 8,50 điểm. Bệnh nhân tăng ít 
nhất là 7 điểm và tối đa 55 điểm. Sự khác biệt về 
điểm số KS trước và sau mổ có ý nghĩa thống 
kê. Rõ ràng, điểm KS là tổng thể của các yếu tố 
đau, mức độ gấp, mức độ vẹo, và mức độ mất 
vững. Do đó, kết quả điểm KS cung câp đánh 
giá tổng quát đối với khả năng cải thiện chức 
năng khớp gối ở bệnh nhân sau phẫu thuật. 
Các kết quả này phù hợp với những số liệu đã 
thể hiện ở trên về hiệu quả cái thiện mức độ 
đau cũng như biên độ vận động rõ rệt của khớp 
gối sau mổ. Kết quả nghiên cứu phù hợp thậm 
chí là tốt hơn so với kết quả được báo cáo trong 
những nghiên cứu trước đó. Theo Bùi Hồng 
Thiên Khanh và cộng sự đánh giá kết quả thay 
khớp gối toàn phần trên 49 khớp ở 45 bệnh 
nhân từ 2007 – 2008, điểm trung bình KS sau 
mổ là 85,22 ± 19,27, cao hơn đáng kể so với 
điểm trung bình KS trước mổ là 43,32 ± 14,54 
(p < 0,05). Kết quả theo thang điểm KS sau mổ 
là rất tốt đạt 74,41%; tốt 16,28%, khá 6,98%, 
xấu 2,33% [12]. Năm 2011, tác giả Lê Quang 
Trí báo cáo kết quả ban đầu thay khớp gối toàn 
phần tại bênh viện Quân Dân Miền Đông cũng 
cho thấy điểm số KS tăng từ 43,76 ± 6,43 trước 
mổ, đạt 78,65 ± 18,93 sau mổ. Phân bố theo 
mức độ sau mổ có tỷ lệ rất tốt 68,2%; tốt 27,3%; 
trung bình 4,5%; không có trường hợp nào xấu 
[13]. Nghiên cứu của Võ Thành Toàn và cộng 
sự tại bệnh viện Thống Nhất cũng cho thấy 
điểm KS cải thiện đáng kể sau mổ. Nếu trước 
mổ, điểm KS hầu hết ở mức kém (96,9%) thì 
sau mổ, hầu hết bệnh nhân có điểm KS ở mức 
rất tốt (87,5%) [14]. 
Bên cạnh KS, nghiên cứu cũng sử dụng 
thang điểm KFS để đánh giá hiệu quả phẫu 
thuật thay khớp gối toàn bộ. Thang điểm này 
tập trung đánh giá chức năng đi bộ và leo cầu 
thang ở bệnh nhân. Bệnh nhân đạt tối đa 100 
điểm nếu có năng lực đi bộ và leo cầu thang 
bình thường không cần sử dụng hỗ trợ. Dựa 
trên điểm KFS, kết quả cũng được chia thành 
các mức rất tốt, tốt, khá và xấu. Kết quả nghiên 
cứu cho thấy trước mổ không có bệnh nhân 
nào có điểm KFS ở mức tốt và rất tốt, tỷ lệ này 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
80 TCNCYH 122 (6) - 2019
sau mổ đạt 53,33% và 40%. Tỷ lệ điểm KFS 
ở mức trung bình và kém giảm rõ rệt sau mổ. 
Điểm KFS trung bình trước mổ là 46,53 ± 
12,86 , và sau mổ là 76,03 ± 4,98. Điều này 
tương đương với sau mổ, trung bình mỗi bệnh 
nhân có điểm số KFS tăng 29,50 ± 12,07. Kết 
quả này cũng tương tự như nhiều báo cáo 
trước đó. Năm 2008, Trương Trí Hữu đã thực 
hiện nghiên cứu thay khớp gối toàn phần của 
38 bệnh nhân. Thời gian theo dõi trung bình 30 
tháng, thang điểm KSF được so sánh trước và 
sau mổ. Điểm trung bình KSF trước mổ 42,97 
và sau mổ tăng đạt 78,89 điểm [15]. Nghiên cứu 
của Phan Trung Quyết cũng cho thấy điểm KFS 
trung bình trước mổ là 31,94 ± 16,678 và tăng 
đạt 79,19 ± 8,74 sau mổ (khác biệt có ý nghĩa 
thống kê với p < 0,01). Số điểm KFS được cải 
thiện trung bình là 47,25 ± 14,39 điểm [5]. Sự 
cải thiện rõ rệt về điểm KFS cũng được thể hiện 
trong báo cáo của Bùi Hồng Thiên Khanh và 
cộng sự với điểm số này tăng từ 41,46 ± 16,37 
trước mổ lên thành 76,53 ± 20,11 sau đó [12]; 
trong báo cáo của Lê Quang Trí với điểm số 
KFS ở 2 thời điểm trước và sau mổ lần lượt là 
43.76 ± 6.43 và 78.65 ± 18.93 điểm [13]. 
Có thể thấy rằng, kết quả phẫu thuật thay 
khớp gối toàn phần sử dụng đường mổ cơ 
rộng trong mang lại hiệu quả rất đáng khích 
lệ. Những kết quả này có thể thấy được một 
phần do đóng góp của việc lựa chọn đường mổ 
hợp lý. Với đường mổ dưới cơ rộng trong, phẫu 
thuật viên có thể không làm ảnh hưởng và tổn 
thương tới các cơ rộng ngoài, cơ tứ đầu đùi; do 
vậy, ít gây ảnh hưởng tới hoạt động duỗi – gấp 
của gối. Mặt khác, gối nhân tạo được thay vào 
giúp sửa chữa nguyên nhân gây hạn hế vận 
động, làm khôi phục khả năng vận động cũng 
như tác dụng giảm đau đối với các bệnh nhân 
thoái hóa khớp gối.
V. KẾT LUẬN
Phẫu thuật thay khớp gối toàn phần với 
đường mổ dưới cơ rộng trong mang lại hiệu 
quả rất tốt cả về tác dụng giảm đau (86,66% 
số bệnh nhân không đau sau mổ) và cải thiện 
chức năng vận động đối với bệnh nhân thoái 
hóa khớp giai đoạn muộn. Biên độ gấp gối tăng 
(22,93 ± 17,06 độ) và biên độ duỗi gối giảm 
(14,00 ± 10,03) đáng kể sau phẫu thuật so với 
trước đó (p < 0,05). Điểm KS và KFS tăng đáng 
kể sau mổ (p < 0,05).
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin cám ơn khoa Chấn thương 
chỉnh hình - Bệnh viện Xanh Pôn và khoa Chấn 
thương chỉnh hình - Bệnh viện Đại học Y Hà 
Nội đã tạo điều kiện thuận lợi để chúng tôi thực 
hiện nghiên cứu này. Chúng tôi cam kết không 
xung đột lợi ích từ kết quả nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Chí Lăng (2005), Điều trị thoái 
hoá khớp gối bằng cắt xương sửa trục xương 
chày, Kỷ yếu Hội nghị thường niên lần thứ XII 
Hội chấn thương chỉnh hình thành phố Hồ Chí 
Minh, 104 - 109.
2. Nguyễn Thị Ngọc Lan (2012), Bệnh 
học cơ xương khớp, NXB Giáo dục.
3. Đoàn Việt Quân (2014), Nghiên cứu 
điều trị thoái hóa khớp gối bằng phẫu thuật thay 
khớp gối toàn phần tại Bệnh viện Việt Đức, Bộ 
môn ngoại, Trường đại học y Hà Nội.
4. Trần Trung Dũng (2012), Nhận xét kết 
quả phẫu thuật thay khớp gối toàn bộ cho bệnh 
nhân thoái hóa khớp gối tại Bệnh viện đại học y 
Hà Nội, Tạp chí y học thực hành, 3/2013.
5. Nguyễn Trung Quyết (2018), Đánh 
giá kết quả điều trị thoái hóa khớp gối bằng 
phẫu thuật thay khớp gối toàn phần với đường 
mổ qua cơ rộng trong tại bệnh viện Bạch Mai, 
Đại học Y Hà Nôi, Hà Nội.
6. James R.B., James R.M., Michael R. 
W. et al (2018), Medial subvastus versus the 
medial parapatellar approach for total knee 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
81TCNCYH 122 (6) - 2019
Summary
EVALUATING RESULT AFTER TOTAL KNEE REPLACEMENT 
WITH INCISION UNDER BROAD MUSCLE
Total knee replacement (TKR) surgery with incision under the vastus medialis has been 
performed at Hanoi Medical University Hospital and Xanh-Pon Hospital, but there was lack of 
effective evaluation studies. Therefore, we conducted the study with the aim of evaluating the results 
of total knee replacement using incision under the vastus medialis. We evaluated 30 TKR patients 
with osteoarthritis of grade III or higher according to the Kellgren-Lawrence classification, who had 
undergone inpatient medical treatment, and had BMI < 23. The results showed that patients were 
followed by an average of 6.53 ± 4.16 months. After surgery, the level of pain and amplitude of knee 
joint movement improved significantly. Specifically, the amplitude of folding increased by 22.9 ± 17.1, 
and the amplitude of stretching was reduced to 14 ± 10.0. Post-operative KS scores reached 93% and 
an average increase of 34.5 ± 8.5 points. On average, each patient also increased 29.5 ± 12.1 KFS 
points after surgery. These results show a very good surgical effect on pain relief and improved mobility.
Keywords: Evaluation of results, total knee replacement, vastus medialis 
replacement, EFORT Open Reviews, 3(3), 78 
- 84.
7. Ma L. P., Qi Y. M. and Zhao D. X. 
(2017), Comparison of local infiltration analgesia 
and sciatic nerve block for pain control after 
total knee arthroplasty: a systematic review and 
meta - analysis, J Orthop Surg Res, 12(1), 85.
8. Nicola R., Chiara A., Federica R.et al 
(2016), Total knee arthroplasty and infection: 
how surgeons can reduce the risks, EFORT 
open reviews, 1(9), 339 - 344.
9. Nilen A.S., Hitendra G.P., Vinod 
O.V. et al (2016), Total knee arthroplasty 
using subvastus approach in stiff knee: A 
retrospective analysis of 110 cases, Indian 
journal of orthopaedics, 50(2), 166 - 171.
10. Caroline D., Sébastien L., Elvire 
S. et al (2014), Total knee arthroplasty of 
the stiff knee: three hundred and four cases, 
International orthopaedics, 38(2), 285 - 289.
11. Kiều Quốc Hiền (2017), Đánh giá kết 
quả thay khớp gối toàn phần điều trị thoái hóa 
khớp tại bệnh viện E, Trường Đại học y Hà Nội, 
Hà Nội.
12. Bùi Hồng Thiên Khanh, Lê Tường 
Viẽn, Dương Đình Triết và các cộng sự. 
(2012), Kết quả ban đầu thay khớp gối toàn 
phần tại bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố 
Hồ Chí Minh, Y học thực hành, 838(8/2012), 
29 - 31.
13. Lê Quang Trí (2011), Đánh giá kết quả 
ban đầu thay khớp gối toàn phần tại bệnh viện 
Quân dân Miền Đông, Nghiên cứu Y học TP. Hồ 
Chí Minh, 15(Phụ bản 4).
14. Donald S.G., Daniel H.W., Bassam 
A.M (2010), Total knee arthroplasty: technique 
and results, BCMJ, 52(9), 477 - 454.
15. Trương Chí Hữu (2008), Kết quả ban 
đầu thay khớp gối toàn phần tại bệnh viện chấn 
thương chỉnh hình thành phố Hồ Chí Minh, Kỷ 
yếu hội nghị chấn thương chỉnh hình thành phố 
Hồ Chí Minh lần thứ XV 16 - 21.

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_ket_qua_thay_khop_goi_toan_phan_su_dung_duong_mo_du.pdf