Đánh giá kết quả sớm can thiệp nội mạch điều trị bệnh động mạch chi dưới mạn tính ở Viện Tim mạch Việt Nam

Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của

can thiệp nội mạch trong điều trị bệnh nhân bệnh

động mạch chi dưới có triệu chứng lâm sàng.

Đối tượng và phương pháp: Từ tháng 1.2015

tới tháng 6.2016, chúng tôi thống kê 121 ca can

thiệp tổn thương động mạch chi dưới được tiến

hành tại Viện Tim mạch Việt Nam, đa số là các tổn

thương phức tạp tầng chậu đùi, TASC C (37%) và

TASC D (48%).

 

pdf 8 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá kết quả sớm can thiệp nội mạch điều trị bệnh động mạch chi dưới mạn tính ở Viện Tim mạch Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả sớm can thiệp nội mạch điều trị bệnh động mạch chi dưới mạn tính ở Viện Tim mạch Việt Nam

Đánh giá kết quả sớm can thiệp nội mạch điều trị bệnh động mạch chi dưới mạn tính ở Viện Tim mạch Việt Nam
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016 123
Đánh giá kết quả sớm can thiệp nội mạch điều 
trị bệnh động mạch chi dưới mạn tính ở Viện Tim 
mạch Việt Nam
Đinh Huỳnh Linh*,**, Phạm Mạnh Hùng*,**, Nguyễn Ngọc Quang*,**
Lê Xuân Thận*, Trần Bá Hiếu*, Nguyễn Tuấn Hải*,**, Nguyễn Anh Quân*,**
Nguyễn Thị Mai Hương***, Trần Huyền Trang*, Đinh Thị Thu Hương*,**
Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch Mai* 
Bộ môn Tim mạch, Trường Đại học Y Hà Nội** 
Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E***
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của 
can thiệp nội mạch trong điều trị bệnh nhân bệnh 
động mạch chi dưới có triệu chứng lâm sàng. 
Đối tượng và phương pháp: Từ tháng 1.2015 
tới tháng 6.2016, chúng tôi thống kê 121 ca can 
thiệp tổn thương động mạch chi dưới được tiến 
hành tại Viện Tim mạch Việt Nam, đa số là các tổn 
thương phức tạp tầng chậu đùi, TASC C (37%) và 
TASC D (48%).
Kết quả: Thủ thuật thành công trong 114 trường 
hợp (tỉ lệ thành công 94%). 86% số ca được đặt Stent, 
chỉ có 14% nong bóng đơn thuần. Các biến chứng 
chính của thủ thuật bao gồm nhồi máu cơ tim (1%), 
huyết khối gây tắc lại Stent (1%), suy thận tiến triển 
(1%), chảy máu cần phải truyền máu (6%). 
Kết luận: Can thiệp nội mạch là một biện pháp 
hiệu quả và an toàn để điều trị các tổn thương động 
mạch chi dưới. 
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh động mạch chi dưới mạn tính, thường do xơ 
vữa mạch máu, có xu hướng tăng lên trong những 
năm gần đây. Theo thống kê, năm 2003, tỉ lệ bệnh 
nhân bị bệnh động mạch chi dưới chỉ chiếm 1,7% 
bệnh nhân vào Viện Tim mạch Việt Nam. Năm 
2007, tỉ lệ này đã tăng lên 3,4% [1].
Các biện pháp điều trị bao gồm thay đổi lối 
sống, tập luyện, dùng thuốc, tái tưới máu bằng can 
thiệp qua da hay phẫu thuật bắc cầu mạch chi dưới 
[2]. Trong đó, điều trị tái thông mạch máu bằng 
can thiệp nội mạch đang trở thành hướng tiếp cận 
mới với nhiều ưu điểm như: ít xâm lấn, thời gian 
điều trị ngắn và hồi phục nhanh, hiệu quả lâu dài 
tương đương hoặc tốt hơn phẫu thuật. Đặc biệt, với 
các bệnh nhân cao tuổi, có nhiều bệnh lý nội khoa 
nặng nề kèm theo, can thiệp qua da là giải pháp ưu 
việt để bảo tồn chi bị tổn thương. 
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm mục 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016124
tiêu: Đánh giá kết quả sớm và tính an toàn của kỹ 
thuật can thiệp nội mạch điều trị bệnh động mạch chi 
dưới mạn tính. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu
Từ tháng 1.2015 đến tháng 6.2016, chúng tôi 
tiến hành 121 ca can thiệp tổn thương động mạch 
chi dưới. Lựa chọn bệnh nhân theo tiêu chuẩn 
AHA/ACC 2011 bao gồm: (1) bệnh nhân có triệu 
chứng đau cách hồi, thiếu máu chi khi nghỉ, hoặc 
loét, hoại tử chi dưới, và (2) chỉ số huyết áp cổ 
chân - cánh tay (ABI) khi nghỉ < 0,9, và (3) có bằng 
chứng tổn thương mạch máu trên siêu âm Doppler, 
chụp cắt lớp vi tính, hay chụp mạch cản quang, với 
đặc điểm giải phẫu phù hợp với can thiệp qua da 
[2]. Các bệnh nhân hẹp, tắc động mạch chi dưới 
không do nguyên nhân xơ vữa mạch máu hay huyết 
khối như hội chứng Takayasu, bệnh Buerger, hội 
chứng bẫy mạch khoeo, bị loại khỏi nghiên cứu. 
Quy trình nghiên cứu 
Bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng được đo ABI, 
làm siêu âm Doppler mạch máu, chụp MSCT động 
mạch chi dưới. Tổn thương mạch máu được đánh 
giá theo phân độ TASC II [3]. Nếu tổn thương giải 
phẫu phù hợp với can thiệp qua da sẽ được can thiệp 
nội mạch (nong bóng, đặt Stent). Ở những bệnh 
nhân tổn thương nhiều tầng mạch máu, chúng tôi 
ưu tiên lựa chọn can thiệp tầng chủ chậu, sau đó tới 
tầng đùi khoeo, cuối cùng là tầng dưới gối. Với các 
bệnh nhân phù hợp có thể tiến hành can thiệp tất cả 
các tổn thương trong cùng một thì. 
Thủ thuật được tiến hành tại đơn vị tim mạch 
can thiệp. Thuốc dùng trước thủ thuật bao gồm 
aspirin 300 mg và clopidogrel 300 mg. Người bệnh 
được gây tê tại chỗ. Sau khi mở đường vào mạch 
máu, tiêm heparine liều 70-100 đơn vị/kg cân nặng. 
Chụp động mạch tổn thương theo phương pháp 
DSA, với thuốc cản quang pha cùng nước muối 
sinh lý theo tỉ lệ 1:1. Lái dây dẫn can thiệp qua tổn 
thương, sử dụng kỹ thuật tái thông trong lòng mạch 
hoặc tái thông dưới nội mạc [4]. Nếu can thiệp 
xuôi dòng (antegrade) thất bại, tiến hành can thiệp 
ngược dòng (retrograde) [5]. Sau khi đưa dây dẫn 
qua tổn thương thành công, tiến hành nong bóng 
áp lực cao tạo hình lòng mạch. Tiến hành đặt Stent 
cho mọi trường hợp tổn thương tầng chủ - chậu. 
Với tổn thương tầng đùi khoeo, nếu sau nong bóng 
có bóc tách động mạch gây cản trở dòng chảy, hoặc 
mạch máu vẫn hẹp gây ảnh hưởng huyết động thì 
tiến hành đặt Stent. Với tổn thương tầng dưới gối, 
chỉ tiến hành nong bóng đơn thuần. Kết thúc thủ 
thuật, đóng đường vào mạch máu bằng dụng cụ 
đóng mạch chuyên dụng (AngioSeal của hãng St. 
Jude Medical, hoặc Perclose Proglide của hãng 
Abbott Vascular), hoặc băng ép thường quy.
Định nghĩa thủ thuật thành công là khi có thể 
tái thông mạch đích và khôi phục dòng chảy, bệnh 
nhân không bị các biến chứng cấp tính tại phòng 
Can thiệp (tử vong, tai biến mạch não, nhồi máu 
cơ tim, sốc phản vệ,), và ABI sau can thiệp đạt 
tối thiểu 0,8. 
Sau thủ thuật, người bệnh được dùng thuốc kháng 
tiểu cầu kép (aspirin 100 mg và clopidogrel 75 mg), 
statin và cilostazole. Theo dõi các biến chứng trong 
quá trình nằm viện, bao gồm: tử vong, tai biến mạch 
não, nhồi máu cơ tim, tắc lại Stent hoặc tái hẹp cần 
phải can thiệp lại, suy thận tiến triển, nhiễm khuẩn, 
chảy máu nặng cần phải truyền máu, biến chứng ở 
đường vào mạch máu. 
Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu được phân tích bằng phần mềm SPSS 
20.0. Các biến định lượng được thể hiện dưới dạng 
giá trị trung bình và độ lệch chuẩn. Các biến định 
tính được thể hiện dưới dạng tỉ lệ phần trăm. Kết 
quả phân tích được coi là có ý nghĩa thống kê khi 
giá trị p < 0,05.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016 125
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của đối tượng 
nghiên cứu
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu (n 
= 121)
Giá trị
(% hoặc 
 ± SD)
Tuổi trung bình 69 ± 12 tuổi
Nam giới 103 (85%)
Tiền sử 
Đái tháo đường 46 (38%)
Tăng huyết áp 82 (68%)
Bệnh động mạch vành 35 (29%)
Rối loạn lipid máu 14 (12%)
Hút thuốc lá 60 (50%)
Suy tim 13 (11%)
Suy thận 27 (22%)
Tai biến mạch não cũ 16 (13%)
Tiền sử can thiệp động mạch chi 
dưới
17 (14%)
Tiền sử cắt cụt chi 2 (2%)
Phân độ Rutherford 
Độ 2 (đau cách hồi mức độ vừa) 3 (2,5%)
Độ 3 (đau cách hồi nặng) 4 (3,3%)
Độ 4 (thiếu máu chi khi nghỉ) 68 (56,2%)
Độ 5 (mất mô ít, loét khó liền) 29 (24%)
Độ 6 (mất mô nhiều, hoại tử) 17 (14%)
ABI chi tổn thương trước can thiệp 0,33 ± 0,24
Chức năng tâm thu thất trái (EF) 66 ± 12 %
Các thông số liên quan đến thủ thuật 
Bảng 2. Các thông số liên quan đến thủ thuật 
Đặc điểm của thủ thuật 
(121 ca can thiệp)
Giá trị
Tỉ lệ thành công 114 (94%)
Động mạch can thiệp 
Tầng chủ chậu đơn thuần 39 (32%)
Tầng đùi khoeo đơn thuần 35 (29%)
Tầng dưới gối đơn thuần 4 (3%)
Can thiệp phối hợp chủ chậu + đùi 
khoeo
33 (27%)
Can thiệp phối hợp đùi khoeo + dưới 
gối
1 (1%)
Can thiệp cả 3 tầng mạch máu 9 (8%)
Phân loại tổn thương theo TASC II 
TASC A 3 (3%)
TASC B 15 (12%)
TASC C 45 (37%)
TASC D 58 (48%)
Đặc điểm tổn thương 
Tổn thương lần đầu (de novo) 107 (88%)
Tái hẹp sau đặt nong bóng /Stent 11 (9%)
Huyết khối gây tắc lại Stent 3 (3%)
Đường vào mạch máu 
Động mạch đùi chung 1 bên 82 (68%)
Động mạch cánh tay 2 (2%)
Động mạch đùi chung 2 bên 32 (26%)
X
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016126
Động mạch đùi chung + động mạch 
cánh tay 
2 (2%)
Động mạch đùi chung + động mạch 
khoeo 
2 (2%)
Động mạch đùi chung + động mạch 
đùi nông 
1 (1%)
Mở mạch máu dưới hướng dẫn của siêu âm 2 (2%)
Kỹ thuật lái guidewire qua tổn thương 
(114 ca)
Tái thông trong lòng mạch 83 (73%)
Tái thông dưới nội mạc 31 (27%)
Biện pháp can thiệp (114 ca)
Nong bóng đơn thuần 16 (14%)
Nong bóng + đặt Stent 98 (86%)
ABI chi tổn thương sau can thiệp 0,91 ± 0,13
Thủ thuật tiến hành thành công trong 114 trường 
hợp, tỉ lệ thành công đạt 94%. 
Phần lớn các tổn thương được can thiệp là tầng 
chủ chậu hoặc đùi khoeo. Chỉ có 4 ca tổn thương 
tầng dưới gối (chiếm 3%). Có 9 ca chúng tôi can 
thiệp cả ba tầng mạch máu cùng một thì. 
Trong đa số các trường hợp, chúng tôi tiến hành 
nong bóng sau đó đặt Stent để tái thông lòng mạch. 
16 ca không đặt Stent mà nong bóng đơn thuần bao 
gồm 4 ca tổn thương tầng dưới gối, 5 ca tổn thương 
động mạch khoeo đơn thuần, 6 ca tổn thương động 
mạch đùi nông nhưng sau nong bóng dòng chảy 
tốt, và 1 ca huyết khối gây tắc hoàn toàn động mạch 
đùi chung. 
Kết quả đánh giá sau can thiệp cho thấy có sự cải 
thiện rõ ràng về chỉ số huyết áp cổ chân – cánh tay 
(ABI trung bình 0,91, so với 0,33 trước thủ thuật). 
Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê (p < 0,0001, 
t-test ghép cặp).
Bảng 3. Tính an toàn của thủ thuật 
Biến chứng trong thời gian nằm viện 
Tổng số 
ca (121)
Tử vong 0 (0%)
Tai biến mạch não 0 (0%)
Nhồi máu cơ tim 1 (1%)
Huyết khối gây tắc lại Stent 1 (1%)
Tái hẹp Stent cần phải can thiệp lại 2 (2%)
Cắt cụt chi 1 (1%)
Suy thận tiến triển cần chạy thận nhân tạo 1 (1%)
Nhiễm khuẩn 3 (3%)
Chảy máu trong cơ 4 (3%)
Biến chứng tại đường vào mạch máu 6 (5%)
Chảy máu nặng cần phải truyền máu 7 (6%)
Tính an toàn của thủ thuật 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của đối tượng 
nghiên cứu
Tuổi trung bình của các bệnh nhân được làm 
thủ thuật là 69. Bệnh nhân trẻ nhất là 36 tuổi, bệnh 
nhân già nhất là 95 tuổi, trong đó có 28 bệnh nhân 
từ 80 tuổi trở lên (chiếm 22%). Độ tuổi này tương 
tự kết quả nghiên cứu của các tác giả trong nước 
(Trần Huyền Trang [6], và Đào Danh Vĩnh [7]). 
Nhiều nghiên cứu khác cũng chỉ ra tần suất mắc 
bệnh động mạch ngoại biên tăng dần và tỉ lệ thuận 
với lứa tuổi, ở độ tuổi > 65 thì tần suất mắc bệnh có 
thể lên tới 21% [8]. 
Bệnh nhân của chúng tôi cũng có nhiều yếu 
tố nguy cơ tim mạch kèm theo như tăng huyết áp 
(68%), đái tháo đường (38%), bệnh mạch vành 
(29%), suy thận (22%)... Tuổi cao, cùng với nhiều 
bệnh lý nội khoa nặng nề, làm tăng nguy cơ phẫu 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016 127
thuật ở những bệnh nhân này. Can thiệp nội mạch 
là một giải pháp ít xâm lấn giúp tái thông mạch 
máu và cải thiện triệu chứng lâm sàng. 
Bệnh lý động mạch ngoại biên thường tiến triển 
âm thầm, không rầm rộ trong giai đoạn đầu. Nếu 
không được điều trị kịp thời sẽ dẫn đến các hậu quả 
lâm sàng nặng nề như thiếu máu chi khi nghỉ, loét, 
hoại tử mô, trầm trọng nhất là phải cắt cụt chi. Tuy 
nhiên, dù có tỉ lệ thương tật và tử vong cao, bệnh 
ít được phát hiện đầy đủ tại cộng đồng [9, 10]. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa phần bệnh 
nhân đến viện vào giai đoạn muộn của bệnh, với 
triệu chứng thiếu máu chi trầm trọng, ABI trung 
bình 0,33; Rutherford ≥ 4 chiếm 94%, chỉ có 6% 
Rutherford 2-3. Bệnh tiến triển trong thời gian dài 
dẫn đến hệ quả là đa phần tổn thương là tắc hoàn 
toàn mạn tính trên đoạn dài (TASC C-D). Chỉ có 
15% tổn thương TASC A-B. 
Hiệu quả của thủ thuật
Mặc dù các khuyến cáo hiện hành của AHA/
ACC và TASC đều ưu tiên phẫu thuật bắc cầu 
nối hơn là can thiệp nội mạch đối với những tổn 
thương TASC D [2, 3], trong nghiên cứu của 
chúng tôi đa số các trường hợp can thiệp mạch 
máu là TASC D (chiếm 48%). Số ca TASC C 
cũng chiếm tới 37%. Kết quả bước đầu cho thấy 
can thiệp nội mạch là giải pháp khả thi điều trị 
các tổn thương mạch chi dưới phức tạp (TASC 
C-D), với tỉ lệ thành công của thủ thuật rất cao, 
đạt tới 94%. Triệu chứng lâm sàng của người 
bệnh được cải thiện rõ ràng, chỉ số ABI tăng từ 
0,33 lên 0,91. So với nghiên cứu trước đây của 
Trần Huyền Trang về can thiệp mạch chi dưới ở 
bệnh nhân thiếu máu chi trầm trọng, tỉ lệ thành 
công của chúng tôi cao hơn đáng kể (94% so với 
82%) [6].
Cả 7 ca thất bại đều là tổn thương động mạch 
đùi nông TASC D, trong đó 4 ca tắc hoàn toàn 
từ lỗ vào động mạch đùi nông, 3 ca động mạch 
đùi nông đoạn xa vôi hoá rất nhiều. Gần đây, 
những tiến bộ trong kỹ thuật can thiệp ngược dòng 
(retrograde) đã cải thiện đáng kể tỉ lệ thành công 
các trường hợp can thiệp tắc hoàn toàn mạn tính 
động mạch ngoại biên [11-15]. Can thiệp ngược 
dòng cho phép thủ thuật viên tiếp cận đầu xa tổn 
thương (thường là mềm hơn và dễ đâm xuyên hơn 
đầu gần), cũng như thực hiện một số kỹ thuật phá 
vỡ mảng xơ vữa như CART, SAFARI [14]. Với 
tổn thương tầng chủ chậu, có thể tiến hành can 
thiệp ngược dòng nhờ mở đường vào động mạch 
đùi cùng bên. Chúng tôi không gặp khó khăn gì 
với kỹ thuật này, do thông thường vẫn có thể chọc 
mạch đùi dưới hướng dẫn của màn tăng sáng ngay 
cả khi không bắt được động mạch đùi. Tuy nhiên, 
với tổn thương tầng đùi khoeo, để can thiệp 
ngược dòng cần phải mở được đường vào động 
mạch đùi nông đoạn xa hay động mạch khoeo, 
thường đòi hỏi siêu âm Doppler hỗ trợ. Chúng tôi 
chỉ có 2 ca mở đường vào động mạch khoeo và 1 
ca chọc động mạch đùi nông. Trong thời gian tới, 
sự phối hợp của bác sỹ siêu âm mạch máu cùng 
bác sỹ tim mạch can thiệp sẽ mở ra cơ hội để can 
thiệp ngược dòng trong những trường hợp can 
thiệp xuôi dòng (antegrade) thất bại, nâng cao tỉ 
lệ thành công của thủ thuật can thiệp nội mạch. 
Có hai kỹ thuật chủ yếu để đưa dây dẫn 
(guidewire) qua tổn thương là tái thông trong 
lòng mạch và tái thông dưới nội mạc. Kỹ thuật 
tái thông dưới nội mạc, dù có nhiều ưu điểm 
như tỉ lệ thành công cao, giảm thời gian chiếu 
tia, cũng dễ gây bóc tách động mạch kéo dài, 
hoặc đôi khi không thể đưa dây dẫn quay trở 
lại lòng thật. Chúng tôi ưu tiên sử dụng kỹ 
thông tái thông trong lòng mạch (73%), chỉ lái 
dây dẫn dưới nội mạc khi can thiệp trong lòng 
mạch thất bại. Các nghiên cứu của nhiều tác giả 
trên thế giới cho thấy hai hướng tiếp cận này 
không có sự khác biệt về tỉ lệ thành công, tỉ lệ 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016128
biến chứng, tỉ lệ tái hẹp sau can thiệp [16, 17]. 
Tất cả các tổn thương đều được nong bóng 
áp lực cao. Tỉ lệ đặt Stent sau nong bóng trong 
nghiên cứu của chúng tôi rất cao (86%), so với 
nghiên cứu của Trần Huyền Trang chỉ là 45% [6]. 
Hiện nay, các tác giả trên thế giới đều đồng thuận 
nên đặt Stent trong các trường hợp tổn thương 
lan toả kéo dài, do hiệu quả lâu dài tốt hơn nong 
bóng đơn thuần [18-20], nhất là với các Stent thế 
hệ mới có thiết kế chịu lực xoắn vặn và lực gấp 
duỗi tốt hơn. Chúng tôi chỉ nong bóng đơn thuần 
trong 3 trường hợp: (1) tổn thương tầng dưới 
gối, (2) tổn thương ở vị trí gập của khớp gối hoặc 
khớp háng, và (3) tổn thương khư trú động mạch 
đùi nông, với điều kiện sau nong bóng không có 
bóc tách thành mạch gây cản trở dòng chảy và 
không còn hẹp lòng mạch. 
Tính an toàn của thủ thuật
Có một ca xuất hiện nhồi máu cơ tim không 
ST chênh lên sau can thiệp động mạch chậu. Bệnh 
nhân được chụp động mạch vành với kết quả tổn 
thương nặng ba thân động mạch vành. Do đặc 
điểm giải phẫu mạch vành không phù hợp với can 
thiệp mạch vành qua da, và người bệnh từ chối 
phẫu thuật nên bệnh nhân được điều trị nội khoa. 
Xuất viện sau 2 tuần.
Có một trường hợp phải cắt cụt chi trong thời 
gian nằm viện, đó là trường hợp bệnh nhân tổn 
thương cả động mạch đùi nông lẫn ba nhánh động 
mạch dưới gối, được đặt Stent động mạch đùi nông 
và nong bóng thân chày mác, động mạch chày sau. 
Sau can thiệp 2 ngày động mạch chày sau tái hẹp. 
Do tổn thương động mạch lan toả từ gối cho tới tận 
ống gót không thể tiến hành phẫu thuật làm cầu nối 
nên bệnh nhân được chuyển đi phẫu thuật cắt cụt 
1/3 giữa hai xương cẳng chân. 
Mặc dù bệnh nhân của chúng tôi có tuổi cao, 
22% trường hợp có suy thận. Nhưng chỉ có 1 ca 
cần phải chảy thận sau thủ thuật. Sau 1 tuần, chức 
năng thận của người bệnh đã trở về bình thường.
Biến chứng phổ biến nhất của thủ thuật là chảy 
máu, bao gồm chảy máu tại vị trí chọc mạch và 
chảy máu trong cơ. Chảy máu tại vị trí chọc mạch 
(6 ca, chiếm 5%) chỉ gây khối máu tụ dưới da, và 
đều được xử lý bảo tồn bằng băng ép tăng cường. 
Không gặp biến chứng nặng như chảy máu sau 
phúc mạc hay thông động-tĩnh mạch cần phải xử 
lý ngoại khoa. Nguyên nhân gây chảy máu có thể 
do bệnh nhân tuổi cao, khả năng bất động sau can 
thiệp kém. Chúng tôi khuyến cáo nên dùng dụng 
cụ đóng mạch chuyên dụng (AngioSeal, Proglide) 
cho các bệnh nhân này.
Chảy máu trong cơ có thể do đầu dây dẫn trong 
quá trình can thiệp đã gây thủng mạch máu. Những 
trường hợp này bệnh nhân đều có đau vùng tổn 
thương (đùi, bắp chân) sau can thiệp, chẩn đoán 
xác định bằng siêu âm. Khối máu tụ thường tự mất 
đi sau 3-7 ngày, không có trường hợp nào phải mở 
cân cơ giải ép. 
Không nhiều tác giả ghi nhận tai biến chảy 
máu trong can thiệp động mạch đùi nông. Báo 
cáo của Warren và cộng sự cho thấy hai nguyên 
nhân chủ yếu gây chảy máu là vỡ động mạch đùi 
nông khi bơm bóng áp lực quá cao và dây dẫn 
làm thủng mạch máu [21]. Chúng tôi không gặp 
ca nào vỡ mạch do bơm bóng quá cao. Hy vọng 
trong thời gian tới, khi kinh nghiệm can thiệp 
động mạch chi dưới tăng lên, tỉ lệ biến chứng chảy 
máu sẽ giảm đi. 
KẾT LUẬN
Kết quả theo dõi ban đầu cho thấy can thiệp nội 
mạch là biện pháp hiệu quả và an toàn với các tổn 
thương động mạch chi dưới. Tỉ lệ thành công của 
thủ thuật đạt 94%. Hiệu quả lâu dài của kỹ thuật 
này cần được đánh giá trong các nghiên cứu với thời 
gian theo dõi kéo dài hơn.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016 129
SUMMARY
Objectives: To evaluate the efficacy and safety of endovascular recanalization for patiens with 
sympomatic peripheral artery disease.
Methods: From January 2015 to June 2016, 121 legs in patients with severe claudication and ulceration 
were treated by catheter-based approach. Most of patients had complex lesions (37% TASC C, 48% TASC D).
Results: The acute procedural success was 94%. The acute procedural success was 94%. Stenting were 
performed in 86% of cases, the rest were treated with angioplasty. Major complications included myocardial 
infarction (1%), Stent thrombosis (1%), acute kidney injury (1%), and bleeding requiring transfusion (6%). 
Conclusion: Endovascular therapy is an effective and safe revascularization option in patients with 
peripheral arteryy disease.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Lân Việt, Nghiên cứu mô hình bệnh tật ở bệnh nhân điều trị nội trú tại Viện Tim mạch Việt 
Nam trong thời gian 2003-2007. Tạp chí Tim mạch học Việt Nam, 2010. 52: p. 11-17.
2. Rooke, T.W., et al., 2011 ACCF/AHA focused update of the guideline for the management of 
patients with peripheral artery disease (updating the 2005 guideline): a report of the American College 
of Cardiology Foundation/American Heart Association Task Force on Practice Guidelines: developed 
in collaboration with the Society for Cardiovascular Angiography and Interventions, Society of 
Interventional Radiology, Society for Vascular Medicine, and Society for Vascular Surgery. Catheter 
Cardiovasc Interv, 2012. 79(4): p. 501-31.
3. Norgren, L., et al., Inter-Society Consensus for the Management of Peripheral Arterial Disease (TASC 
II). J Vasc Surg, 2007. 45 Suppl S: p. S5-67.
4. Ko, Y.G., et al., Improved technical success and midterm patency with subintimal angioplasty compared 
to intraluminal angioplasty in long femoropopliteal occlusions. J Endovasc Ther, 2007. 14(3): p. 374-81.
5. Spinosa, D.J., et al., Simultaneous antegrade and retrograde access for subintimal recanalization of 
peripheral arterial occlusion. J Vasc Interv Radiol, 2003. 14(11): p. 1449-54.
6. Trần Huyền Trang, Đánh giá kết quả sớm can thiệp qua da trong điều trị bệnh động mạch chi dưới mạn 
tính giai đoạn thiếu máu chi trầm trọng 2014, Trường Đại Học Y Hà Nội 
7. Đào Danh Vĩnh, Kết quả ban đầu casn thiệp nội mạch điều trị hẹp tắc mạn tính động mạch chậu, Tạp 
chí Điện quang 2013. 14(10).
8. Diehm, C., et al., Mortality and vascular morbidity in older adults with asymptomatic versus symptomatic 
peripheral artery disease. Circulation, 2009. 120(21): p. 2053-61.
9. Hirsch, A.T., et al., Peripheral arterial disease detection, awareness, and treatment in primary care. 
JAMA, 2001. 286(11): p. 1317-24.
10. Diehm, C., et al., High prevalence of peripheral arterial disease and co-morbidity in 6880 primary care 
patients: cross-sectional study. Atherosclerosis, 2004. 172(1): p. 95-105.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 75+76.2016130
11. Zhang, H.P., et al., [Recanalization of superficial femoral artery occlusions with Outback LTD 
catheter]. Zhonghua Wai Ke Za Zhi, 2012. 50(3): p. 226-9.
12. Schmidt, A., et al., Retrograde recanalization technique for use after failed antegrade angioplasty in 
chronic femoral artery occlusions. J Endovasc Ther, 2012. 19(1): p. 23-9.
13. Pappy, R., T.A. Hennebry, and M.S. Abu-Fadel, Retrograde access via the popliteal artery 
to facilitate the re-entry technique for recalcitrant superficial femoral artery chronic total occlusions. 
Catheter Cardiovasc Interv, 2011. 78(4): p. 625-31.
14. Shi, W., et al., Combined antegrade femoral artery and retrograde popliteal artery recanalization for 
chronic occlusions of the superficial femoral artery. J Vasc Interv Radiol, 2014. 25(9): p. 1363-8.
15. Tokuda, T., et al., A sheathless retrograde approach via the popliteal artery is useful and safe for 
treating chronic total occlusions in the superficial femoral artery. J Endovasc Ther, 2014. 21(2): p. 
289-95.
16. Soga, Y., et al., Contemporary outcomes after endovascular treatment for aorto-iliac artery disease. 
Circ J, 2012. 76(11): p. 2697-704.
17. Soga, Y., et al., Initial and 3-year results after subintimal versus intraluminal approach for long 
femoropopliteal occlusion treated with a self-expandable nitinol Stent. J Vasc Surg, 2013. 58(6): p. 
1547-55.
18. Krankenberg, H., et al., Nitinol Stent implantation versus percutaneous transluminal angioplasty 
in superficial femoral artery lesions up to 10 cm in length: the femoral artery Stenting trial (FAST). 
Circulation, 2007. 116(3): p. 285-92.
19. Laird, J.R., et al., Nitinol Stent implantation versus balloon angioplasty for lesions in the superficial 
femoral artery and proximal popliteal artery: twelve-month results from the RESILIENT randomized trial. 
Circ Cardiovasc Interv, 2010. 3(3): p. 267-76.
20. Schillinger, M., et al., Balloon angioplasty versus implantation of nitinol Stents in the superficial 
femoral artery. N Engl J Med, 2006. 354(18): p. 1879-88.
21.Swee, W. et al., Managing Perforations of the Superficial Femoral Artery. Endovascular today, 
2014. 10.

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_ket_qua_som_can_thiep_noi_mach_dieu_tri_benh_dong_m.pdf