Đánh giá kết quả siêu âm Doppler động mạch tử cung ở tuần 20-24 thai kỳ trong dự đoán tiền sản giật tại trung tâm y tế TP Châu Đốc và Bệnh viện ĐK khu vực tỉnh
Tiền sản giật (TSG) là một hội chứng đặc biệt liên quan với thai kỳ, thường xảy ra sau
tuần lễ thứ 20 và biến mất hoàn sau sanh, bao gồm tăng huyết áp kèm với đạm trong
nước tiểu. Tần suất của TSG nói chung chiếm tỉ lệ khoảng 4-5% thai phụ nhưng hậu quả
lại rất nghiêm trọng. Siêu âm Doppler động mạch tử cung (ĐMTC) có thể thực hiện qua
ngã âm đạo hoặc ngã bụng trong ba tháng đầu hoặc ba tháng giữa thai kỳ nhằm đánh
giá nguy cơ TSG. Siêu âm Doppler ĐMTC có rất nhiều chỉ số để đánh giá như: dấu
khuyết đầu tâm trương KĐTT, chỉ số trở kháng RI, chỉ số đập PI, tỉ số tâm thu/tâm
trương S/D.
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá kết quả siêu âm Doppler động mạch tử cung ở tuần 20-24 thai kỳ trong dự đoán tiền sản giật tại trung tâm y tế TP Châu Đốc và Bệnh viện ĐK khu vực tỉnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả siêu âm Doppler động mạch tử cung ở tuần 20-24 thai kỳ trong dự đoán tiền sản giật tại trung tâm y tế TP Châu Đốc và Bệnh viện ĐK khu vực tỉnh
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 54 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SIÊU ÂM DOPPLER ĐỘNG MẠCH TỬ CUNG Ở TUẦN 20-24 THAI KỲ TRONG DỰ ĐOÁN TIỀN SẢN GIẬT TẠI TRUNG TÂM Y TẾ TP CHÂU ĐỐC VÀ BỆNH VIỆN ĐK KHU VỰC TỈNH* Salayman, Huỳnh Mỹ Phúc ** Lê Văn Cường, Phạm Hồng Loan*** Tóm tắt Tiền sản giật (TSG) là một hội chứng đặc biệt liên quan với thai kỳ, thường xảy ra sau tuần lễ thứ 20 và biến mất hoàn sau sanh, bao gồm tăng huyết áp kèm với đạm trong nước tiểu. Tần suất của TSG nói chung chiếm tỉ lệ khoảng 4-5% thai phụ nhưng hậu quả lại rất nghiêm trọng. Siêu âm Doppler động mạch tử cung (ĐMTC) có thể thực hiện qua ngã âm đạo hoặc ngã bụng trong ba tháng đầu hoặc ba tháng giữa thai kỳ nhằm đánh giá nguy cơ TSG. Siêu âm Doppler ĐMTC có rất nhiều chỉ số để đánh giá như: dấu khuyết đầu tâm trương KĐTT, chỉ số trở kháng RI, chỉ số đập PI, tỉ số tâm thu/tâm trương S/D. Mục đích nghiên cứu: Khảo sát tần suất TSG, đặc điểm thai phụ liên quan với TSG ở những thai phụ có tuổi thai 20 – 24 tuần đến khám thai, theo dõi thai và sanh tại Bệnh viện đa khoa TPCĐ và Bệnh viện Đa khoa Khu vực Tỉnh. Khảo sát đặc điểm siêu âm Doppler ĐMTC trên những thai phụ này gồm hình thái phổ Doppler (KĐ TT) và các chỉ số RI, PI, S/D. Xác định độ nhạy, độ chuyên biệt, giá trị tiên đoán dương và giá trị tiên đoán âm của phổ Doppler và các chỉ số siêu âm Doppler ĐMTC trong dự đoán TSG ở những thai phụ nêu trên. Mối tương quan giữa các biến số: tuổi, tiền sử thai phụ, hình thái phổ Doppler, các chỉ số siêu âm Doppler ĐMTC ở những thai phụ có tuổi thai 20 – 24 tuần với bệnh lý TSG. Kết quả nghiên cứu: Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận có mối liên hệ và có nghĩa thống kê giữa các chỉ số RI> 0,58, PI>1,45, S/D>2,4 và KĐTT trong dự đoán TSG. Tần suất TSG trong lô nghiên cứu là 6,6%. Chúng tôi xây dựng được 2 phương trình hồi qui có hệ số chính xác (R2) cao, trong đó Y = -0,257+0,408 KĐTT +0,326 PI là phương trình có hệ số tương quan tốt nhất theo tiêu chí chọn lựa, tuy phải sử dụng 2 biến số siêu âm. SUMMARY Pre-eclampsia is a special syndrome associated with pregnancy that usually occurs after the 20th week and disappears after birth, including hypertension with protein in the urine. The prevalence of pre-eclampsia generally only accounts for about 4-5% of pregnancies but the consequences are very serious. Doppler ultrasonography may be Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 55 performed through vaginal or abdominal intervals during the first trimester or mid- trimester to assess the risk of pre-eclampsia. Doppler ultrasonography has many indicators to evaluate such as early diastolic notches (EDN) signs, resistance index RI, pulsatility index PI, systolic/ diastolic (S/D) ratios ... Research purposes: 1-Survey on pre-eclampsia frequency, characteristics of pregnant women related to pre-eclampsia in pregnant women 20-24 weeks of gestation for antenatal care, antenatal monitoring and birth control in The General Hospital of Châu Đốc and The General Hospital of An Giang province. 2- Survey on characteristics of the Doppler ultrasonography related to pre-eclampsia in these women. 3-Definition of sensitivity, specificity, positive predictive value and negative predictive value of Doppler spectrum and Doppler ultrasonographic indicators in predicting pre- eclampsia in these women. 4-Correlation between variables: age, pre-natal history, Doppler spectrum, and Doppler ultrasound indices in pregnant women with 20 - 24 weeks gestation with pre- eclampsia. *Nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp cơ sở 2018-2019, đạt loại A **Bệnh viện Đa khoa (Trung tâm y tế) TP Châu Đốc ***Bệnh viện Đa khoa Khu vực Tỉnh An Giang Results: Based on the results, we recorded a relationship and statistically significant between RI > 0,58, PI> 1,45, S/ D> 2.4 and early diastolic notches (EDN) signs in predicting pre-eclampsia. The prevalence of pre-eclampsia in the study group was 6,6%. We built 2 regression equations with high coefficient (R2), in which: Y = -0.257 + 0.408 EDN + 0.326 PI is the equation with the best correlation coefficient according to the selection criteria, although 2 ultrasound variables must be used. ĐẶT VẤN ĐỀ Tiền sản giật (TSG) là một hội chứng đặc biệt liên quan với thai kỳ, thường xảy ra sau tuần lễ thứ 20 và biến mất hoàn sau sinh, gồm tăng huyết áp kèm với đạm trong nước tiểu[1]. Tần suất của TSG nói chung chỉ chiếm tỉ lệ khoảng 4-5% thai phụ nhưng hậu quả lại rất nghiêm trọng[22],[39]. Về phía mẹ, TSG có thể gây ra những biến chứng như hội chứng HELLP, sản giật, đông máu, sốc và tử vong (tỉ lệ tử vong mẹ khoảng 17,6% hàng năm tại Mỹ)[38],[39],[40],...Về phía con, TSG là tác nhân lớn gây ra những bất lợi như IUGR, thai suy, chết lưu, tăng nguy cơ bị cao huyết áp, tim mạch, tiểu đường trong Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 56 cuộc sống sau này[1],[6],[8],],[9],[33],[36],[39]. Dự đoán chính xác TSG để theo dõi và điều trị trước sinh nhằm cải thiện bệnh lý sau sinh là rất cần thiết [22],[34],[35],[36]. Nhiều tác giả cho rằng hiện tượng co thắt các tiểu động mạch là nguyên nhân gây nên bệnh cảnh lâm sàng của TSG- sản giật. Đây là kết quả của sự hình thành bánh nhau bất thường, có liên quan với sự xâm lấn tế bào nuôi bất thường vào động mạch xoắn và sự giảm trở kháng mạch máu trong tuần hoàn tử cung- nhau [1][6],[8],[34],[35][36][37], [39],[40]. Tuần hoàn tử cung- nhau có thể được đánh giá qua siêu âm Doppler ĐMTC, đây là kỹ thuật được thế giới đánh giá là có triển vọng để dự đoán mức độ nguy cơ của TSG và IUGR[18],[34]. Tuy nhiên ở trong nước, các nghiên cứu siêu âm Doppler ĐMTC dự đoán nguy cơ TSG chưa nhiều, ngoài nghiên cứu của Ngô Thị Trinh[4] ở những sản phụ trên 36 tuần đã bị TSG (2006), Phạm Thị Mai Anh[5] nghiên cứu thông số S/D ĐMTC ở thai phụ TSG tuổi thai 28 tuần(2009) và Huỳnh Thanh Phương Thảo[2] nghiên cứu chỉ số RI, KĐTT trên siêu âm Doppler ĐMTC ở ba tháng giữa thai kỳ trong dự đoán TSG(2010). Trong khi siêu âm Doppler ĐMTC có nhiều chỉ số để đánh giá như dấu KĐTT, các chỉ số trở kháng (RI), chỉ số đập (PI), tỉ số tâm thu/tâm trương (S/D),Vấn đề đặt ra là các chỉ số siêu âm Doppler ĐMTC có giá trị như thế nào trong dự đoán sớm TSG. Để tìm hiểu sâu hơn, chúng tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá kết quả siêu âm Doppler động mạch tử cung ở tuần 20-24 thai kỳ trong dự đoán tiền sản giật tại Bệnh viện Đa khoa TP Châu Đốc và Bệnh viện Đa khoa Khu vực Tỉnh” với mục tiêu sau: Mục tiêu tổng quát: Đánh giá kết quả các chỉ số siêu âm Doppler ĐMTC ở tuần 20- 24 thai kỳ trong dự đoán TSG. Mục tiêu chuyên biệt: Khảo sát tần suất TSG và đặc điểm thai phụ liên quan với TSG ở những sản phụ có tuổi thai 20 – 24 tuần đến khám, theo dõi thai và sanh tại bệnh viện đa khoa TPCĐ và bệnh viện đa khoa Khu vực Tỉnh. Khảo sát đặc điểm siêu âm Doppler ĐMTC trên những thai phụ này gồm hình thái phổ Doppler và các chỉ số RI, PI, S/D. Xác định độ nhạy, độ chuyên biệt, giá trị tiên đoán dương và giá trị tiên đoán âm của phổ Doppler và các chỉ số siêu âm Doppler ĐMTC trong dự đoán TSG ở những thai phụ này. Mối tương quan giữa các biến số: tuổi, tiền sử sản phụ, hình thái phổ Doppler, các chỉ số siêu âm Doppler ĐMTC ở những thai phụ nêu trên với bệnh lý TSG. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu: 2.1.1. Tiêu chuẩn chọn mẫu: Các thai phụ đến khám tại Khoa Sản phụ khoa 2 Bệnh viện Đa khoa TPCĐ và Bệnh viện Đa khoa KV Tỉnh thỏa các điều kiện: có chu kỳ kinh nguyệt đều, biết rõ ngày Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 57 kinh cuối hoặc có siêu âm ở 3 tháng đầu thai kỳ phù hợp ngày kinh cuối; đơn thai, thai sống; có tuổi thai 20 – 24 tuần được khám, theo dõi thai và sanh tại 2 Bệnh viện, trong thời gian nghiên cứu. Các thai phụ đến khám nếu thỏa điều kiện chọn mẫu sẽ được hẹn để phỏng vấn các yếu tố liên quan, tư vấn đến khám thai theo đúng phác đồ của bệnh viện và hẹn siêu âm Doppler lúc thai 20-24 tuần, tái khám 4 tuần/lần. 2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ: Các sản phụ mang đa thai, thai lưu, mắc các bệnh lý nội khoa mãn tính, ác tính từ trước khi có thai như bệnh tim, đái tháo đường thai nghén,; hoặc bệnh lý được phát hiện trong lúc mang thai như phù thai nhau, thai dị dạng hay thai mắc các dị tật bẩm sinh; đến khám không đúng hẹn hoặc không đồng ý tham gia nghiên cứu. 2.1.3. Cỡ mẫu: Tính theo công thức: n ≥ t 2.δ 2/ d 2 - n là số đối tượng nghiên cứu(1 lớp tuổi thai). - t =1, 96 (độ tin cậy 95%) tra từ bảng phân phối chuẩn. - δ =0, 07 (độ lệch chuẩn) chọn độ lệch chuẩn lớn nhất của các thông số theo tuổi thai. - d =0,014 (độ chính xác). Như vậy: n = (1,96)2 x (0,07)2 / (0,014)2 = 96. Số lớp tuổi thai là 4(lớp tuổi thai là tuần tuổi thai, ở đây nghiên cứu các giai đoạn từ tuần 20- 21, 21- 22, 22- 23, 23-24, nên có 4 lớp tuổi thai), ở mỗi lớp tuổi thai sẽ chọn 96 thai phụ, không trùng lắp ở các lớp tuổi thai. Vậy cỡ mẫu cần có là: 96 x 4 = 384. Dự phòng 10%; do đó N≥ 422 thai phụ. Cở mẫu ban đầu trong nghiên cứu là 441, trong thời gian nghiên cứu có 14 thai phụ bị mất dấu, còn lại 427 thai phụ (96,83%) được đưa vào xử lý. 2.2.Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu cắt ngang tiền cứu, có theo dõi ở những thai phụ có tuổi thai 20 – 24 tuần đến khám thai và sanh tại Bệnh viện Đa khoa TPCĐ và Bệnh viện Đa khoa Khu vực Tỉnh, từ tháng 10 năm 2017 đến tháng 03 năm 2019. - Tiến hành phỏng vấn thai phụ, ghi nhận chỉ số RI, PI, S/D và dấu KĐTT ĐMTC trên siêu âm Doppler. Chỉ số ĐMTC bất thường khi: RI>0,58, PI>1,45, S/D>2,4, KĐTT 1 hoặc 2 bên. Sau đó theo dõi số đo huyết áp và đạm niệu, các dấu hiệu TSG ở các thai phụ đã chọn cho đến lúc sanh. - Các số liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0. - Các tỉ lệ được trình bày dưới dạng phần trăm (%) và kiểm định bằng test chi – square. Sự khác biệt được xem như có ý nghĩa thống kê khi giá trị p < 0,05. Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 58 - Dùng bảng 2X2 để xác định độ nhạy, độ chuyên, giá trị tiên đoán dương và giá trị tiên đoán âm của phổ Doppler, các chỉ số siêu âm Doppler ĐMTC trong dự đoán TSG. - Sử dụng hồi quy tuyến tính đơn biến, đa biến tìm mối tương quan giữa các yếu tố liên quan thai phụ và các chỉ số siêu âm Doppler với TSG. KẾT QUẢ & BÀN LUẬN 3.1 Đặc điểm nhóm nghiên cứu 3.1.1 Đặc điểm thai phụ -Tuổi trung bình của thai phụ tham gia nghiên cứu là 27,58± 6,33(15-48 tuổi); - Nhóm tuổi thai phụ: nhóm tuổi 20 – 34 chiếm tỉ lệ cao nhất (72,6%), nhóm tuổi < 20 chiếm tỉ lệ 13,6% gần tương đương nhóm tuổi ≥35 (13,8%). -Tiền thai: số thai phụ có con rạ chiếm 66,5 %, nhiều gần gấp đôi số thai phụ có con so (33,5%). - Trong nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận 100% thai phụ có tiền sử bình thường và không có thai phụ nào có người thân trong gia đình bị TSG. Theo y văn, đây là những đối tượng có nguy cơ TSG thấp[8], [15],[20]. - Phần lớn thai phụ tham gia nghiên cứu cư ngụ tại TP Châu Đốc (79,9%) và các huyện lân cận(19,9%), ở tỉnh khác rất ít (0,2%). Điều này phù hợp tình hình khám chữa bệnh hiện nay ở hai bệnh viện và thuận lợi cho việc theo dõi các đối tượng nghiên cứu. 3.1.2 Đặc điểm siêu âm Bảng 3.1. Tỉ lệ % chỉ số siêu âm ĐMTC bất thường Chỉ số siêu âm bất thường Số thai phụ(n) Tỉ lệ % RI>0,58 73 17,1 PI>1,45 18 4,2 S/D>2,4 67 15,7 KĐTT(+) 47 11,0 Nghiên cứu của Huỳnh Thanh Phương Thảo [2] thì RI>0,58 chiếm tỉ lệ 7,53%, KĐTT chiếm 5,7%, thấp hơn nghiên cứu chúng tôi. Trong nghiên cứu của Kurdi W và Cs[21] cho thấy có 23% Doppler ĐMTC bất thường, 12,4% có KĐTT 2 bên. Nghiên cứu khác của Albaiges G và Cs [6], PI tăng >1,45 có mặt ở 5,1% và KĐTT 2 bên được ghi nhận trong 4,4% trường hợp. 3.2 Đặc điểm nhóm TSG 3.2.1. Tần suất TSG: Trong lô nghiên cứu có 28 thai phụ được chẩn đoán TSG, chiếm tỉ lệ 6,6%. Kết quả này cao hơn so với ước tính ban đầu của chúng tôi là 4-5% khi tính cỡ mẫu nghiên cứu. Kết quả này cao hơn nghiên cứu của Irion.O[26], Huỳnh Thanh Phương Thảo[2], Bewley[10] lần lượt là 4%, 4,1%, 4,6%. Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 59 Nhiều nghiên cứu công bố tần suất TSG khác nhau như North và Cs [29] ghi nhận tỉ lệ TSG là 3,3% hay Kurdi W và Cs [21] tỉ lệ TSG là 2,2%. Nhưng cũng có nghiên cứu ghi nhận tỉ lệ TSG cao hơn chúng tôi rất nhiều như nghiên cứu của Sibai[38] là 7,5%, Papageorghiou AT [32] là 8-10%. Coleman [14] là 27,5%. Theo Jeltsje S Cnossen [25] tỷ lệ TSG thay đổi từ 0,4% đến 18,7% ở những bệnh nhân có nguy cơ thấp và từ 3,2% đến 44,3% ở những bệnh nhân có nguy cơ cao. Như vậy, tần suất TSG có sự dao động tùy theo dân số nghiên cứu, người Châu Á hay châu Mỹ Latin, châu Âu,... 3.2.2 Đặc điểm thai phụ TSG Bảng 3.2. Mối liên quan giữa tuổi thai phụ, tiền thai với TSG −Trong nhóm thai phụ ≥ 35 tuổi, số bị TSG chiếm 15,25%, gấp 2,48 lần so với nhóm thai phụ tuổi 20 – 34 (5,48%), (p= 0,004, RR:1,42~ 7,71). Trong khi số thai phụ< 20 tuổi bị TSG chỉ chiếm 3,45 %, ít hơn khoảng 0,63 lần so với nhóm thai phụ tuổi 20 – 34. (p=0,30; RR: 0,45~8,38). - Kết quả này phù hợp với nhận định của Leona Poon[22] và cũng phù hợp với các y văn nghiên cứu về yếu tố nguy cơ TSG[13],[15],[38]. −Trong nhóm thai phụ con so thì có 7,69% thai phụ bị TSG, cao hơn gấp 1,3 lần nhóm thai phụ có con rạ(5,99%), (p=0,50, RR: 0,62~2,67). Theo Leona Poon[22], Ngô Thị Trinh[4], TSG thường xảy ra ở những phụ nữ chưa có con cao hơn những phụ nữ đã có con. 3.2.3 Đặc điểm siêu âm ở thai phụ TSG 3.2.3.1 Các chỉ số ĐMTC bất thường liên quan với tuổi thai phụ và TSG Tuổi thai phụ và Tiền thai Số thai phụ (n=427) TSG Không TSG % TSG RR KTC 95% P < 20 tuổi 58 2 56 3,45 0,47 0,11~2,04 0,30 20 – 34 tuổi 310 17 271 5,48 0,56 0,25~1,23 ≥ 35 tuổi 59 9 50 15,25 3,31 1,42~7,71 0,004 Con so 143 11 132 7,69 1,28 0,62~2,67 0,5 Con rạ 284 17 267 5,99 0,98 0,93~1,04 Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 60 Bảng 3.3. Mối liên quan giữa chỉ số RI với tuổi thai phụ, tiền thai và TSG - Theo nghiên cứu, trong 73 thai phụ có RI> 0,58 thì 64,28% thai phụ thuộc nhóm tuổi ≥ 35 có biểu hiện TSG về sau, nguy cơ cao gấp 2 lần so với những thai phụ từ 20- 34 tuổi có RI >0,58, (p0,58 thì có 22,22% trường hợp biểu hiện TSG và ít hơn khoảng 0,67 lần so với những thai phụ từ 20 - 34 tuổi có RI > 0,58, (p<0,001). Bảng 3.4. Mối liên quan giữa chỉ số PI với tuổi thai phụ, tiền thai và TSG - Có 75% thai phụ ≥ 35 tuổi có PI > 1,45 và biểu hiện bị TSG, nguy cơ cao gấp 1,29 lần so với những thai phụ 20 – 34 tuổi có PI > 1,45,(p<0,001). Những thai phụ< ... thai 0,077-0,017 X 0,001 -0,67 0,50 RI 0,003+0,367 X 0,312 13,87 0,00 PI 0,044+0,581 X 0,199 10,27 0,00 S/D 0,003+0,4 X 0,346 14,99 0,00 Khuyết ĐTT 0,008+0,524 X 0,439 18,24 0,00 Kết quả phân tích cho thấy, ngoại trừ các biến số tuổi thai phụ và tiền thai thì mức độ tương quan giữa các biến số còn lại ở mức trung bình đến khá (0,20 – 0,42), các Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 66 mối tương quan này đều có ý nghĩa thống kê (P< 0,001). Trong đó, KĐTT có tương quan cao nhất với TSG (0,42). Vì vậy, chúng tôi quyết định chọn KĐTT và các biến RI, PI, S/D để đưa vào xây dựng PTHQ đa biến. Phân tích đa biến Sau khi khảo sát mối tương quan của các biến số lâm sàng, siêu âm cũng như độ phù hợp của các phương trình hồi quy đơn biến với tập dữ liệu, những biến số có hệ số tương quan với mức độ mạnh (R2≥ 0,25) được chọn lựa để đưa vào xây dựng phương trình hồi quy đa biến theo phương pháp chọn từng bước (Stepwise), bao gồm KĐTT và các biến RI, PI, S/D. Sau khi phân tích đa biến, chúng tôi có được 6 phương trình phản ánh mối tương quan của các chỉ số siêu âm với TSG (bảng 3.11). Bảng 3.11. Phương trình hồi quy tuyến tính đa biến dự đoán TSG PTHQ HSTQ R Hệ số R2 t P Y1 = 0,008+0,524 KĐTT 0,663 0,439 18,24 <0,001 Y2 = -0,012 +0,404KĐTT +0,194RI 0,709 0,503 7,37 <0,001 Y3 = 0,001 +0,461 KĐTT +0,365PI 0,715 0,511 7,89 <0,001 Y4 = -0,013 +0,388 KĐTT +0,231S/D 0,724 0,525 8,74 <0,001 Y5 = -0,012 +0,385KĐTT +0,144RI +0,286PI 0,737 0,543 6,07 <0,001 Y6 = -0,014+0,3736KĐTT -0,004RI -0,26PI+0,177S/D 0,746 0,557 3,706 <0,001 *Phân tích hồi quy tuyến tính theo phương pháp Stepwise Phương trình (1) chỉ có 1 biến số độc lập phản ánh mối tương quan của chỉ số siêu âm với TSG là Khuyết ĐTT với Y = 0,008+0,524 KĐTT. Phương trình (3) là Y = 0,001 +0,461 KĐTT +0,365PI và (4) với Y= 0,013 +0,388 KĐTT +0,231S/D có 2 biến số; các phương trình này đơn giản, độ tin cậy khá cao, dễ sử dụng. Phương trình (6) với Y= -0,014+0,3736KĐTT -0,004RI-0,26PI+0,177S/D là phương trình có hệ số tương quan cao nhất nhưng phải sử dụng cả 4 biến số siêu âm. Phương trình chọn lựa Sau khi các phương trình hồi quy tuyến tính đa biến đã được thành lập, chúng tôi chọn lựa phương trình tốt nhất dựa theo các tiêu chí sau: - Chính xác: thể hiện qua hệ số xác định R2, cho biết độ phù hợp của phương trình với dữ liệu mẫu và có sai lệch trung bình thấp. Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 67 - Đơn giản và phù hợp thực hành lâm sàng: phương trình càng có ít biến số càng tốt, các biến số dễ đo đạc trên lâm sàng cũng như siêu âm. Vì thế qua kết quả nghiên cứu nhận thấy phương trình (3) là: Y = 0,001 +0,461 KĐTT +0,365PI và phương trình (4) với Y= -0,013 +0,388 KĐTT +0,231S/D là các phương trình này đơn giản, độ tin cậy khá cao, dễ sử dụng. Ví dụ: Khi trong tam cá nguyệt thứ hai, siêu âm Doppler ĐMTC cho kết quả có dấu KĐTT và PI >1,45 thì khả năng thai phụ bị TSG là >0,99(99%). Nếu siêu âm Doppler ĐMTC cho kết quả có dấu KĐTT và S/D >2,4 thì khả năng thai phụ bị TSG là >0,93(93%). Theo Jeltsje S. Cnossen và Cs [25] TSG ở thai phụ có nguy cơ thấp được dự đoán tốt nhất bằng chỉ số PI với KĐTT trong tam cá nguyệt thứ hai (> 16 tuần) (LR dương tính 7,5, CI 95% 5,4-10,2; LR âm 0,59 CI 0,47-0,71). Chính vì thế chúng tôi chọn phương trình (3) là phương trình tốt nhất theo tiêu chí chính xác nhất, đơn giản, độ tin cậy khá cao, dễ sử dụng, phù hợp các y văn. KẾT LUẬN Qua kết quả nghiên cứu siêu âm Doppler ĐMTC ở 427 thai phụ 20 – 24 tuần tại Bệnh viện Đa khoa TP Châu Đốc và Bệnh viện Đa khoa Khu vực Tỉnh, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: – Tần suất TSG trong lô nghiên cứu là 6,6%. – Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa chỉ số trở kháng RI > 0,58 trong dự đoán TSG: độ nhạy: 96,4%, độ chuyên biệt : 88,5%, giá trị tiên đoán dương : 37,0 %, giá trị tiên đoán âm : 99,7%. – Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa chỉ số trở đập PI > 1,45 trong dự đoán TSG: độ nhạy: 42,9%, độ chuyên biệt: 98,0%, giá trị tiên đoán dương: 66,7%, giá trị tiên đoán âm: 94,8%. – Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỉ số S/D> 2,4 trong dự đoán TSG: độ nhạy: 96,4%, độ chuyên biệt: 90,0%, giá trị tiên đoán dương: 40,3%, giá trị tiên đoán âm: 99,7%. – Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa dấu hiệu khuyết tiền tâm trương trong dự đoán tiền sản giật: độ nhạy: 89,3%, độ chuyên biệt: 94,5%, giá trị tiên đoán dương: 53,2%, giá trị tiên đoán âm: 99,2% – Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa các chỉ số siêu âm ĐMTC bất thường kết hợp dấu KĐTT trong dự đoán TSG với độ nhạy từ 21,4-96,4%, độ chuyên biệt: 95,2- 99,7%, giá trị tiên đoán dương; 58,7-85,7%, giá trị tiên đoán âm: 94,8-99,7% – Trong nhóm nghiên cứu chỉ số trở kháng ĐMTC bất thường (RI> 0,58) chiếm 17,1%; chỉ số đập ĐMTC bất thường (PI> 1,45) là 3,7%; tỉ số tâm thu/tâm trương ĐMTC bất thường (S/D> 2,4) chiếm 15,7% và dấu KĐTT ĐMTC là 11,0%. Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 68 – Chúng tôi xây dựng được 2 phương trình hồi qui có hệ số chính xác (R2)cao, trong đó Y = -0,257+0,408 KĐTT+0,326 PI là phương trình có hệ số tương quan tốt nhất theo tiêu chí chọn lựa, tuy phải sử dụng 2 biến số siêu âm. KIẾN NGHỊ TSG là tác nhân lớn gây ra những bất lợi cho thai cũng như bất lợi cho người mẹ. Theo Bộ Y tế, TSG đứng thứ 2 trong 7 nguyên nhân trực tiếp gây tử vong mẹ với tỉ lệ là 21,3%. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy rằng siêu âm Doppler ĐMTC có thể dự đoán chính xác TSG. Từ đó chúng tôi kiến nghị ngành y tế khuyến cáo sử dụng siêu âm Doppler ĐMTC thường quy dự đoán nguy cơ TSG- nhất là với các đối tượng nguy cơ cao, tại các tuyến y tế có nhân lực được đào tạo và có trang bị máy siêu âm Doppler màu, nhằm cung cấp các chỉ số Doppler ĐMTC phục vụ cho các nhà thực hành sản khoa trong công tác nghiên cứu, theo dõi, quản lý thai,... tại các cơ sở y tế. Đồng thời, cần có những biện pháp tuyên truyền cảnh báo các hậu quả của TSG cho các thai phụ- nhất là với các đối tượng nguy cơ cao nhằm chủ động tầm soát nguy cơ TSG sớm trong quý I thai kỳ bằng cách phối hợp siêu âm Doppler ĐMTC và các dấu ấn sinh học qua đó giúp các nhà sản khoa có hướng điều trị dự phòng TSG bằng Aspirin trước khi thai 16 tuần./. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT 1. Bộ môn Phụ sản- trường Đại học y dược TP Hồ Chí Minh (2011), Rối loạn cao huyết áp trong thai kỳ, Bài giảng sản phụ khoa tập I, trang 462 – 477 2. Huỳnh Thanh Phương Thảo (2010), Nghiên cứu vai trò của siêu âm Doppler động mạch tử cung ở ba tháng giữa thai kì trong dự đoán tiền sản giật, Bệnh viện Từ Dũ. 3. Lê Thiện Thái (2010), Nghiên cứu ảnh hưởng của bệnh lý tiền sản giật lên thai phụ và thai nhi và đánh giá hiệu quả của phác đồ điều trị, Đai học Y Hà Nội. 4. Ngô Thị Trinh (2006), Vai trò của siêu âm Doppler trong khảo sát thai trên bệnh nhân tiền sản giật, Đại học Y Dược TPHCM, tr. 41- 69. 5. Phạm Thị Mai Anh (2009), Nghiên cứu thông số Doppler động mạch tử cung ở thai phụ tiền sản giật, Đại học Y Hà Nội. TIẾNG ANH 6.Albaiges G, Missfelder-Lobos H, Lees C, et al (2000), “One-stage screening for pregnancy complications by color Doppler assessment of the uterine arteries at 23 weeks’gestation”, Obstet Gynecol, 96, pp. 559-564. 7. Aquilina J, Barnett A, Thompson O, et al (2000), “Comprehensive analysis of uterine artery flow velocity waveforms for the prediction of pre-eclampsia”, Ultrasound Obstet Gynecol, 16(2), pp. 163-170. Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 69 8. Aris Antsaklis et al.”Uterine Artery Doppler in the Prediction of Preeclampsia and Adverse Pregnancy Outcome”. Donald School Journal of Ultrasound in Obstetrics and Gynecology, April-June 9. August P and Lindheimer MD (1995), “Pathophysiology of preeclampsia”, Journal of The American Heart Association, Hypertension 142, pp. 2407- 2426. 10. Bewley S, Cooper D, Campbell S (1991), “Doppler investigation of uteroplacental blood flow resistance in the second trimester: a screening study for preeclampsia and intrauterine growth retardation”, Br J Obstet Gynaecol, 98, pp. 871- 879. 11. Bhattacharya S, Campbell DM, Smith NC (2009), “Pre-eclampsia in the second pregnancy: does previous outcome matter?”, Eur J Obstet Gynecol Reprod Biol, 144(2), pp. 130-134. 12. Bower S, Bewley S, Campbell S (1993), “Improved prediction of pre-eclampsia by two-stage screening of uterine arteries using the early diastolic notch and color Doppler imaging”, Obstet Gynecol, 82, pp. 78-83. 13. Chesley LC, Cooper DW (1986), “Genetics of hypertension in pregnancy: possible single gene control of pre-eclampsia and eclampsia in the descendants of eclamptic women”, Br J Obstet Gynaecol, 93, pp. 898-908. 14. Coleman MAG, McCowan LME, North RA (2000), “Mid-trimester uterine artery Doppler screening as a predictor of adverse pregnancy outcome in high-risk women”, Ultrasound Obstet Gynecol, 15, pp. 7-12. 15. Conde-Agudelo A, Belizan JM (2000), “Risk factors for preeclampsia in a large cohort of Latin American and Caribbean women”, BJOG, 107, Level II(2), pp. 75-83. 16. Cunninggham FG, Gant NF, Leveno KJ, et al (2001), “Hypertensive disorders in pregnancy”, pp. 567-618. 17. Demers S, Bujold E, Arenas E, Castro A, Nicolaides KH(2014),”Prediction of recurrent preeclampsia using first-trimester uterine artery Doppler “, Am J Perinatol. 2014 Feb;31(2):99-104 18.Gomez O, Martinez JM, Figueras F, et al (2005), “Uterine artery Doppler at 11-14 weeks of gestation to screen for hypertensive disorders and associated complications in an unselected population”, Ultrasound Obstet Gynecol, 26, pp. 490-494. 19. Greggory R Devore, Uterine artery measurements, Fetal Diagnostic Centers. 20. Herraiz I, Escribano D, Gómez-Arriaga PI, Herníndez-García JM, Herraiz MA, Galindo A (2012), “Predictive value of sequential models of uterine artery Doppler in pregnancies at high risk for pre-eclampsia”. Ultrasound Obstet Gynecol. 2012 Jul; 21. Kurdi W, Campbell S, Aquilina J, et al (1998), “The role of color Doppler imaging of the uterine arteries at 20 weeks’ gestation in stratifying antenatal care”, Ultrasound Obstet Gynecol, 12, pp. 339- 345. Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 70 22. Leona Poon (2008), “Screening for preeclampsia”, The 8th VietNam -France- Asia- Pacific conference on reproductive at Tu Du Hospital, pp. 42-43. 23. Lijie Li, Yanmei Zheng, Ying Zhu, and Jianchun Li (2016),”Serum biomarkers combined with uterine artery Doppler in prediction of preeclampsia”, Experimental and Therapeutic Medicine. Aug 2016, 12(4):2515-2520 24. Lynne McLeod (2008), “How useful is uterine artery Doppler ultrasonography in predicting pre-eclampsia and intrauterine growth restriction?”, CMAJ, 178 (6), pp. 727- 729. 25. Jeltsje S Cnossen MD, Rachel K Morris MD, Gerben Ter Riet MD PhD, et al (2008), “Use of uterine artery Doppler ultrasonography to predict pre-eclampsia and intrauterine growth restriction: a systematic review and bivariable meta-analysis”, CMAJ, 178 (6), pp. 701-711. 26. Irion O, Masse J, Forest JC, et al (1998), “Prediction of pre- eclampsia, low birthweight for gestation and prematurity by uterine artery blood flow velocity waveforms analysis in low risk nulliparous women”, Br J Obstet Gynaecol, 105, pp. 422- 429. 27. Mojgan Barati, Nahid Shahbazian, Leila Ahmadi, and Sara Masihi(2014), “Diagnostic evaluation of uterine artery Doppler sonography for the prediction of adverse pregnancy outcomes”, J Res Med Sci. 2014 Jun; 19(6): 515–519. 28. Napolitano R1, Rajakulasingam R, Memmo A, Bhide A, Thilaganathan B(2011), “Uterine artery Doppler screening for pre-eclampsia: comparison of the lower, mean and higher first-trimester 29.North RA, Ferrier C, Long D, et al (1994), “Uterine artery Doppler flow velocity waveforms in the second trimester for the prediction of preeclampsia and fetal growth retardation”, Obstet Gynecol, 83, pp. 378-386. 30.Ohkuchi A, Minakami H Sato I, Mori H, et al (2000), “Predicting the risk of pre- eclampsia and a small-for-gestationnal-age infant by quantitative assessment of the diastolic notch in uterine artery flow velocity waveforms in unselected women”, Ultrasound Obstet Gynecol, 16, pp. 171-178. 31. Onwudiwe N, Yu CK, Poon LC, Spiliopoulos I, Nicolaides KH(2008), “Prediction of pre-eclampsia by a combination of maternal history, uterine artery Doppler and mean arterial pressure “, Ultrasound Obstet Gynecol. 2008 Dec;32(7):877-83. 32. Papageorghiou AT, Yu CKH, Bindra R, et al (2001), “Multicentre screening for pre- eclampsia and fetal growth restriction by transvaginal uterine artery Doppler at 23 weeks of gestation”, Ultrasound Obstet Gynecol, 18, pp.441-449. 33. Papageorghiou AT, Yu CK, Erasmus IE, et al (2005), “Assessment of risk for the development of pre-eclampsia by maternal characteristics and uterine artery Doppler”, BJOG, 112(6), pp. 703-709. Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 71 34. Plasencia W, Maiz N, Poon L, et al (2008), “Uterine artery Doppler at 11 + 0 to 13 + 6 weeks and 21 + 0 to 24 + 6 weeks in the prediction of pre-eclampsia”, Ultrasound Obstet Gynecol, 32(2), pp. 138-146. 35. Report of the ACOG Task force on Hypertension in Pregnancy (2013), “Hypertension in Pregnancy ”, Obstet Gynecol, Vol.122, No.5, November 2013. 36. Roberts JM, Taylor RN, and Goldfien A (1991), “Clinical and biochemical evidence of endothelial cell dysfunction in the pregnancy syndrome preeclampsia”, Am J Hypertens, 4, pp. 700-708. 37. Robert JM, Cooper DW (2001), “Pathogenesis and genetics of pre-eclampsia”, Lancet, 357, pp. 53-56. 38. Sibai BM, Ewell M, Levine RJ, et al (1997), “Risk factors associated with preeclampsia in healthy 39. Sibai BM, Hauth J, Caritis S, et al (2000), “Hypertensive disorders in twin versus singleton gestations”, Am J Obstet Gynecol, National Institute of Child Health and Human Development Network of Maternal-Fetal Medicine Units, 182, Level II(3), pp. 938-942. 40. Sibai B, Dekker G, Kupferminc M (2005), “Pre-eclampsia”, Lancet, 365, pp. 785- 799. 41. Steel SA, Pearce JM, McParland P, et al (1990), “Early Doppler ultrasound screening in prediction of hypertensive disorders of pregnancy”, Lancet, 335, pp. 1548- 1551. 42. Thawalwong Ratanasiri, Amornrat Thanachaiviwat, Woraluk Somboonporn, et al (2004), “Prediction of Preeclampsia in a Low-Risk Population Using Diastolic Notch of Uterine Arteries”, J Med Assoc Thai, 87(3), pp. 29-33. 43.Valensise H, Romanini C (1994), “Uterine Doppler in the identification of patients at risk for hypertension and IUGR”, J Perinat Med, 22 (1), pp. 69-72.
File đính kèm:
danh_gia_ket_qua_sieu_am_doppler_dong_mach_tu_cung_o_tuan_20.pdf

