Đánh giá kết quả phẫu thuật tách thành động mạch chủ type A tại Bệnh viện Tim Hà Nội

Hồi cứu 43 hồ sơ bệnh nhân tách thành động mạch chủ (ĐMC) type A được phẫu thuật tại Bệnh viện Tim Hà Nội từ 5/2015 đến tháng 8/2017. 43 bệnh nhân vớituối trung bình là 54,7 ± 15, tỉ lệ nam/nữ = 2,6. Có 7 bệnh nhân được chẩn đoán hội chứng Marfan (16,28%). Các kỹ thuật phẫu thuật: thay đoạn ĐMC lên: 18 bệnh nhân (41,86%), phẫu thuật Bentall: 13 bệnh nhân (30,23%), thay quai ĐMC: 10 bệnh nhân (23,26%), can thiệp vào hệ động mạch vành: 2 bệnh nhân (4,65%). Thời gian chạy tuần hoàn ngoài cơ thể trung bình: 178,1 ± 45,8 phút ,thời gian clamp ĐMC trung bình: 126,4 ± 24,9 phút. Tỉ lệ tử vong sớm sau mổ 9,3%. Có 4 bệnh nhân phải mổ lại do chảy máu và 1 mổ lại vì hở van ĐMC

pdf 5 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá kết quả phẫu thuật tách thành động mạch chủ type A tại Bệnh viện Tim Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả phẫu thuật tách thành động mạch chủ type A tại Bệnh viện Tim Hà Nội

Đánh giá kết quả phẫu thuật tách thành động mạch chủ type A tại Bệnh viện Tim Hà Nội
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 21 - THÁNG 5/2018 
 48 
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT TÁCH THÀNH ĐỘNG MẠCH CHỦ TYPE A 
TẠI BỆNH VIỆN TIM HÀ NỘI 
Nguyễn Sinh Hiền*, Hà Đức Linh*
TÓM TẮT 
Hồi cứu 43 hồ sơ bệnh nhân tách thành động 
mạch chủ (ĐMC) type A được phẫu thuật tại 
Bệnh viện Tim Hà Nội từ 5/2015 đến tháng 
8/2017. 43 bệnh nhân vớituối trung bình là 54,7 
± 15, tỉ lệ nam/nữ = 2,6. Có 7 bệnh nhân được 
chẩn đoán hội chứng Marfan (16,28%). Các kỹ 
thuật phẫu thuật: thay đoạn ĐMC lên: 18 bệnh 
nhân (41,86%), phẫu thuật Bentall: 13 bệnh 
nhân (30,23%), thay quai ĐMC: 10 bệnh nhân 
(23,26%), can thiệp vào hệ động mạch vành: 2 
bệnh nhân (4,65%). Thời gian chạy tuần hoàn 
ngoài cơ thể trung bình: 178,1 ± 45,8 phút ,thời 
gian clamp ĐMC trung bình: 126,4 ± 24,9 phút. 
Tỉ lệ tử vong sớm sau mổ 9,3%. Có 4 bệnh 
nhân phải mổ lại do chảy máu và 1 mổ lại vì hở 
van ĐMC. 
Từ khóa:tách thành động mạch chủ 
SUMMARY 
Assessement of results of acute aorta 
dissection type A at Hanoi Heart Hospital. 
A retrospective study with 43 cases of acute 
aorta dissection type Aoperatedfrom 5/2015 to 
8/2017 at Hanoi Heart Hospital. A total of 43 
patients, mean age: 54,7 ± 15, male/female 2,6. 7 
patients (16,28%) of Marfan syndrome. 
Technique of operation: 18 patients of ascending 
aorta replacement (41,86%), 13 patients of 
Bentall procedure (30,23%), 10 patients of arch 
repair (23,26%) and 2 operations on coronary 
system (4,65%). Mean cardiopulmonary bypass 
time 178,1 ± 45,8minutes, mean aortic clamp 
time 126,4 ± 24,9 minutes. The overall 
prevalence of inhospital death was 9,3%. 4 
reoprations for postoperative bleeding and 1 
aortic valve regurgitation 
Key words:acute aorta dissection. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tách thành ĐMC type A cấp tính là bệnh lý 
phức tạp, nặng nề. Việc chẩn đoán chính xác và 
điều trị kịp thời là rất cần thiết để cứu sống người 
bệnh. Nếu không được điều trị, tỉ lệ tử vong trong 
bệnh lý tách thành ĐMC type A cấp tính có thể 
lên tới 50% trong 48h đầu tiên và tăng thêm 1% 
mỗi giờ, tử vong tới hơn 90% sau 1 năm [1][2]. 
Điều trị phẫu thuật là phương pháp hiệu quả 
nhất, làm giảm tỉ lệ tử vong xuống còn khoảng 
10%. Năm 1955, DeBakey thông báo ca phẫu 
thuật đầu tiên điều trị tách thành ĐMC. Từ đó đến 
nay, có nhiều nghiên cứu về bệnh lý này cũng 
như kết quả phẫu thuật từ các trung tâm tim mạch 
trên thế giới. Tại Việt Nam, điều trị phẫu thuật 
bệnh lý tách thành ĐMC type A cấp tính đã thực 
hiện đầu tiên tại Bệnh viện Việt Đức vào những 
năm 2000. Hiện nay, nhiều trung tâm phẫu thuật 
tim lớn trong nước đã triển khai thành công phẫu 
thuật này với kết quả ngày càng khả quan. 
Bệnh viện Tim Hà Nội đã thực hiện phẫu 
thuật này từ nhiều năm nay và hiện nay số lượng 
phẫu thuật ngày càng nhiều. Chúng tôi thực hiện 
nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá kết quả 
sớm phẫu thuật điều trị tách thành ĐMC type A 
cấp tính tại bệnh viện Tim Hà Nội. * 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
Mô tả 43 trường hợp tách thành ĐMC type A 
cấp tính được phẫu thuật tại bệnh viện Tim Hà 
Nội từ tháng 5 năm 2015 đến tháng 8 năm 2017. 
Không đưa vào nghiên cứu những hồ sơ của bệnh 
* Bệnh viện Tim Hà Nội 
Người chịu trách nhiệm khoa học: Ts. Nguyễn Sinh Hiền 
Ngày nhận bài: 01/05/2018 - Ngày Cho Phép Đăng: 20/05/2018 
Phản Biện Khoa học: GS.TS. Bùi Đức Phú 
 PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng 
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT TÁCH THÀNH ĐỘNG MẠCH CHỦ TYPE A TẠI BỆNH VIỆN TIM HÀ NỘI 
 49
nhân phẫu thuật tách thành ĐMC type A mãn 
tính, tách thành ĐMC type B, phồng ĐMC 
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 22. 
III. KẾT QUẢ 
3.1. Đặc điểm bệnh nhân: 
Tuổi: Tuổi trung bình: 54,7 ± 15 (13-78) tuổi; 
Giới: Tỉ lệ nam/nữ = 2,6 
Bảng 3.1: Tiền sử bệnh nhân 
Tiền sử n Tỷ lệ % 
Marfan 7 16,28% 
Tăng huyết áp 32 74,42% 
Đã phẫu thuật tim hở 3 6,98% 
Bảng 3.2: Triệu chứng lâm sàng 
Triệu chứng n Tỷ lệ % 
Đau ngực 42 97,66% 
Tăng huyết áp 30 69,77% 
Tai biến thần kinh 2 4,65% 
Chèn ép tim cấp / Shock 2 4,65% 
Bảng 3.3: Tổn thương giải phẫu 
Tổn thương giải phẫu n Tỷ lệ % 
Tách thành ĐMC* 36 85,71 
máu tụ trong thành 6 14,29 
Hở van ĐMC nặng 11 32,56 
3.2. Điều trị và kết quả sớm sau mổ 
Bảng 3.4: Tuần hoàn ngoài cơ thể 
Tuần hoàn ngoài cơ thể n Tỷ lệ % 
Động mạch nách 22 51,16 
Động mạch đùi 17 39,53 
Vị trí đặt 
canuyl 
động 
mạch Động mạch nách + đùi 4 9,3 
Máu ấm 24 55,81 
Custodiol 19 44,19 
Xuôi dòng 30 69,77 
Dung dịch 
bảo vệ cơ 
tim 
Ngược dòng 25 58,14 
Hạ thân nhiệt 28 65,12 Bảo vệ 
tạng Ngừng tuần hoàn + 
 tưới máu não chọn lọc 
17 40,48 
Bảng 3.5: Các phương pháp phẫu thuật 
Phương pháp phẫu thuật n Tỷ lệ % 
Thay đoạn ĐMC lên 18 41,86 
Bentall 13 30,23 
Thay ĐMC lên + cắm lại ĐMV 2 4,65 
Thay ĐMC lên + 1 phần quai 
ĐMC 
5 11,63 
Thay ĐMC lên + toàn bộ quai 
ĐMC 
4 9,3 
Bentall + thay quai ĐMC 1 2,33 
Thời gian thở máy trung bình: 3,7 ± 3,5 ngày 
Thời gian nằm hồi sức trung bình: 7,5 ± 5,9 ngày 
Thời gian nằm viện trung bình: 19,7 ± 10,2 ngày 
Bảng 3.6: Biến chứng mổ lại và tử vong 
sớm sau mổ 
Mổ lại, biến chứng, 
tử vong n Tỷ lệ % 
Chảy máu 4 9,3% 
Mổ lại Hở van 
ĐMC 1 2,32% 
Viêm phổi 10 23,2% 
Tai biến não 8 29,06% 
Biến 
chứng 
 Suy đa tạng 8 29,06% 
Tai biến não 2 4.64% 
Tử vong 
Suy đa tạng 2 4.64% 
IV. BÀN LUẬN 
4.1. Đặc điểm trước mổ 
Tuổi, giới 
Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng 
tôi là 54,7 ± 15 (tuổi), trong đó nhỏ nhất là 13 
tuổi, lớn nhất là 78 tuổi. Nam giới chiếm 
72,1%.Trong nghiên cứu này, tỉ lệ bệnh nhân trẻ 
tuổi có hội chứng Marfan chiếm 16,28% với độ 
tuổi trung bình là 30,14 tuổi.Hội chứng Marfan là 
rối loạn tổ chức mô liên kết có tính di truyền, phổ biến 
nhất với tần suất 1/10000 trẻ ra đời sống. Biến chứng 
ĐMC (phồng vỡ, tách thành) do giãn gốc ĐMC là 
biến chứng nặng nhất của bệnh, phát triển rất nhanh ở 
độ tuổi thanh thiếu niên và là nguyên nhân gây tử 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 21 - THÁNG 5/2018 
 50 
vong hàng đầu của bệnh nhân Marfan dưới 40 tuổi 
nếu không được phẫu thuật kịp thời. Bệnh nhân 
Marfan chiếm tỉ lệ lớn với độ tuổi trung bình thấp 
đã làm cho độ tuổi trung bình chung của nghiên 
cứu thấp hơn so với các nghiên cứu khác [7][8]. 
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng 
Trong nghiên cứu triệu chứng lâm sàng nổi 
bật và gặp nhiều nhất ở hầu hết bệnh nhân là đau 
ngực (97,66%). Đau ngực trong tách thành ĐMC 
là do mạch máu bị giãn căng đột ngột, với cường 
độ mạnh và liên tục.Tỉ lệ bệnh nhân đến bệnh 
viện trong vòng 24 giờ từ khi đau ngực chiếm 
chưa tới 1/2, nguyên nhân có thể là do quá trình 
chẩn đoán chưa kịp thời và chính xác. Xét 
nghiệm Troponin T hs tăng cao ở 55,5% bệnh 
nhân, sự thay đổi trên điện tim cùng với dấu hiệu 
đau ngực không điển hình làm cho bệnh nhân dễ 
bị chẩn đoán nhầm với một cơn đau thắt ngực 
hoặc cơn nhồi máu cơ tim. 
Tăng huyết áp cũng là 1 triệu chứng hay gặp, 
chiếm 69,77%, tương đương với nghiên cứu của 
Hagan 69,3% [8]. Tăng huyết áp là yếu tố nguy 
cơ cao của tách thành ĐMC type A, đặc biệt là 
tăng huyết áp ác tính. Hầu hết bệnh nhân trong 
nghiên cứu đều không được điều trị kiểm soát tốt 
huyết áp. 
Có 2 bệnh nhân vào viện trong tình trạng shock 
do chèn ép tim cấp. Đây là một trong những nguyên 
nhân chính gây tử vong ở các bệnh nhân tách thành 
ĐMC. Máu ngấm từ thành mạch của ĐMC bị tổn 
thương ra màng ngoài tim gây chèn ép tim, là dấu 
hiệu dọa vỡ ĐMC do đó cần can thiệp càng sớm 
càng tốt.1 trong 2 bệnh nhân này phải làm phẫu 
thuật dẫn lưu dịch màng tim cấp cứu qua đường 
Marfan trước rồi mới mở ngực qua đường giữa 
xương ức. Ngoài ra phần lớn các bệnh nhân đều có 
tràn dịch màng tim tuy nhiên số lượng từ ít đến vừa 
không gây chèn ép tim. 
Chụp cắt lớp vi tính (CLVT) được xem là tiêu 
chuẩn vàng để chẩn đoán xác định bệnh lý tách 
thành ĐMC. Kết quả chụp CLVT cũng là cơ sở 
để phân loại tách thành ĐMC type A theo 
Stanford hoặc theo Svensson. Sự phân chia type 
không thay đổi chỉ định phẫu thuật mà chủ yếu có 
giá trị tiên lương sau mổ và theo dõi xa. Trong 
nghiên cứu, hình ảnh chụp CLVT được phân loại 
theo 2 thể theo Svensson là thể kinh điển (36 trường 
hợp chiếm 85,71%) và thể máu tụ trong thành (6 
trường hợp chiếm 14,29%). Đặc biệt trong số 6 
bệnh nhân thể máu tụ trong thành có 1 bệnh nhân bị 
tách thành ĐMC sau can thiệp (type 5 theo 
Svensson). 
Mức độ hở van ĐMC cũng được đánh giá đầy 
đủ trên siêu âm tim: hở van ĐMC nhiều (4/4 và 
3/4) chiếm 32,56%. Hầu hết các trường hợp hở 
van ĐMC không có tổn thương thực thể tại van. 
Ngoài các bệnh nhân Marfan có cơ chế hở van 
ĐMC là do giãn gốc ĐMC gây giãn vòng van, các 
trường hợp hở van còn lại có cơ chế do sa mép van 
do tổn thương tách thành ĐMC lan vào các xoang 
vành trong khi cấu trúc lá van vẫn bình thường. Vì 
thế có thể sửa chữa các thương tổn này bằng cách 
khâu cố định lại mép van vào thành ĐMC mà 
không cần can thiệp vào gốc ĐMC. 
4.2. Đặc điểm trong mổ 
Tất cả 43 BN trong nghiên cứu đều được phẫu 
thuật với tuần hoàn ngoài cơ thể.Khi tiến hành 
phẫu thuật tách thành ĐMC, vị trí thông thường 
đặt ống ĐM (ở ĐMC lên) gần như không thực 
hiện được, do đó các đường vào ngoại vi là lựa 
chọn bắt buộc. Có 2 vị trí ĐM được sử dụng là 
ĐM đùi và ĐM nách. ĐM đùi có ưu điểm là kích 
thước lớn đảm bảo tốt lưu lượng khi chạy tuần 
hoàn ngoài cơ thể, là đường bảo vệ tạng tầng 
bụng khi cần phẫu thuật vào vùng quai ĐMC, vị 
trí nông do đó kỹ thuật đặt rất nhanh chóng và dễ 
dàng (hữu ích trong những trường hợp cấp cứu 
cần chạy tuần hoàn ngoài cơ thể ngay),tuy nhiên 
đặt ống ĐM vào ĐM đùi có nguy cơ làm tình 
trạng tổn thương mạch nặng hơn và có thể gây 
nên thiếu máu tạng do tưới máu ngược dòng vào 
lòng giả hoặc bong các mảng xơ vữa hoặc máu 
cục lên não trong trường hợp lỗ vào nằm ở sau 
ĐM dưới đòn trái, ĐMC xuống hoặc ĐMC bụng. 
Trong khi đó ĐM nách được ưu tiên lựa chọn hơn 
do các ưu điểm: thường tổn thương không lan đến 
vị trí ĐM nách, hướng bơm máu xuôi dòng tránh 
tình trạng tách thành tiến triển trong phẫu thuật, 
thuận lợi cho việc ngừng tuần hoàn và tưới máu 
não chọn lọc Trong phẫu thuật tách thành 
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT TÁCH THÀNH ĐỘNG MẠCH CHỦ TYPE A TẠI BỆNH VIỆN TIM HÀ NỘI 
 51
ĐMC type A cấp tính, lựa chọn ĐM nách để bơm 
máu xuôi dòng, kèm theo hạ thân nhiệt vừa, 
ngừng tuần hoàn và tưới máu não xuôi dòng chọn 
lọc là phương án sinh lý nhất, ít gây tổn thương 
và rối loạn đông máu sau mổ. Trong trường hợp 
ngừng tuần hoàn có thể lựa chọn tưới máu não 
xuôi dòng hoặc ngược dòng, chọn lọc 1 bên hoặc 
2 bên[4]. Theo tác giả Miralem Pasic, đặt canuyl 
ở ĐM nách làm giảm tỉ lệ tử vong so với ĐM đùi 
(5% so với 20%), giảm tỉ lệ biến chứng thần kinh 
sau mổ (5% so với 8%)[4]. Trong nghiên cứu, tỉ 
lệ đặt canuyl ĐM nách có 17 trường hợp, chiếm 
39,53%. Tỉ lệ đặt canuyl ĐM nách cao hơn ở giai 
đoạn sau của nghiên cứu. Tuy nhiên ĐM đùi cũng 
là lựa chọn cho những bệnh nhân nặng, tình trạng 
huyết động không ổn định do ưu điểm là đơn giản 
và dể thao tác. Trong nghiên cứu tỉ lệ đặt canuyl 
ĐM đùi là 51,16%, nhiều hơn ở giai đoạn đầu của 
nghiên cứu. Ngoài ra có thể kết hợp đặt canuyl ở 
2 vị trí ĐM nách và ĐM đùi, trong nghiên cứu 
chiếm 9,3%. Lợi thế của đặt canuyl ĐM ở 2 vị trí 
là không phải ngừng tuần hoàn, không cần hạ 
nhiệt độ sâu để tránh các rối loạn đông máu mà 
vẫn can thiệp được vào vùng quai ĐMC. 
Dung dịch liệt tim được bơm xuôi dòng ở 30 
trường hợp (69,77%) và ngược dòng ở 25 trường 
hợp (58,14%), trong đó kết hợp cả 2 phương pháp 
xuôi và ngược dòng ở 12 trường hợp (27,9%). Lý 
do chúng tôi sử dụng phương pháp liệt tim ngược 
dòng và kết hợp (thường lần đầu tiên là liệt tim 
xuôi dòng, các lần sau là liệt tim ngược dòng) vì 
phần gốc ĐMC chứa 2 lỗ ĐMV trong bệnh lý 
tách thành ĐMC type Athường bị tổn thương 
hoặc dễ tổn thương do đó chúng tôi không muốn 
tác động nhiều lần vào lỗ ĐMV[5]. 
Ngừng tuần hoàn kèm theo hạ nhiệt độ là 
phương pháp thường được sử dụng trong phẫu 
thuật. Việc phối hợp giữa ngừng tuần hoàn để bảo 
vệ các tạng, đặc biệt là não, và hạ thân nhiệt 
nhưng ko gây ra các rối loạn đông máu nặng sao 
cho hợp lý là rất cần thiết. Hạ thân nhiệt càng sâu 
thì các tạng càng được bảo vệ tốt, tuy nhiên sẽ 
kéo dài thời gian nâng và hạ nhiệt độ trong lúc 
mổ, đồng thời cũng gây ra các rối loạn đông máu, 
làm tăng thời gian phẫu thuật và tỉ lệ biến chứng 
sau mổ[6]. Trong nghiên cứu có 28 trường hợp có 
hạ thân nhiệt (chiếm 65,12%) ở mức độ từ nhẹ 
đến vừa (từ 29ºC đến 32ºC). 
Ngừng tuần hoàn kèm theo tưới máu não chọn 
lọc không cần thiết phải thực hiện trên tất cả các 
bệnh nhân. Mục đích khi ngừng tuần hoàn là để 
đánh giá thương tổn ĐMC ở đoạn quai: lỗ vào, 
tách thành lan vào các nhánh ĐM nuôi não, ĐM 
dưới đòn, đoạn đầu ĐM chủ xuống. Ngừng tuần 
hoàn khi có chỉ định thay quai ĐMC, một phần 
quai ĐMC hoặc thay đoạn ĐMC lên với miệng 
nối xa theo kỹ thuật “open technique”. Ngừng 
tuần hoàn luôn kèm theo với tưới máu não chọn 
lọc 1 bên hoặc 2 bên để bảo vệ não, và hạ nhiệt 
độ để bảo vệ các tạng phía dưới. Trong nghiên 
cứu có 17 trường hợp phải ngừng tuần hoàn, tất 
cả đều được tưới máu não chọn lọc xuôi dòng 2 
bên (40,48%). Không có sự liên quan giữa việc 
ngừng tuần hoàn, tưới máu não chọn lọc với các 
tai biến não trong quá trình hồi sức sau 
mổ[6].Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng 
phương pháp bảo vệ não xuôi dòng 2 bên khi 
phẫu thuật vào vùng quai ĐMC (thay quai hoặc 
một phần quai ĐMC) hoặc kỹ thuật mở (open 
technique) khi làm miệng nối đầu xa. 
Về cách thức làm miệng nối, sau khi đã cắt 
hết đoạn mạch bệnh lý đến tổ chức lành, chúng 
tôi sử dụng kỹ thuật bánh kẹp (sandwich) với 2 
dải đệm (bằng mạch nhân tạo) bọc mặt trong và 
ngoài ĐMC để gia cố miệng nối trước khi khâu 
với đoạn mạch nhân tạo. Với những miệng nối 
nhỏ (gốc ĐM vành), thay vì sử dụng dải đệm 
bằng mạch nhân tạo, chúng tôi sử dụng dải màng 
tim của bệnh nhân để gia cố miệng nối. 
4.3. Kết quả sớm sau mổ 
Biến chứng sớm sau mổ 
Biến chứng hay gặp nhất trong nghiên cứu 
của chúng tôi là viêm phổi (23,26%), tai biến 
mạch não và suy đa tạng chiếm tỷ lệ ngang nhau 
(18,6%). Chảy máu phải mổ lại có 4 trường hợp 
(9,3%) do chảy nhiều máu không cầm hoặc rối 
loạn đông máu nặng, ngoài ra cũng có nhiều 
trường hợp chảy máu sau mổ nhưng đều có thể 
điều trị nội khoa được. Trong nghiên cứu của tác 
giả Nguyễn Hữu Ước cũng cho biết chảy máu là 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 21 - THÁNG 5/2018 
 52 
biến chứng hay gặp nhất sau mổ tách thành 
ĐMC[1]. Tỷ lệ chảy máu mổ lại trong nghiên cứu 
của Nguyễn Thái An là 12,5%[3]. Tuy nhiên, 
trong nghiên cứu của chúng tôi không có BN nào 
tử vong do chảy máu. Có 1 bệnh nhân phải mổ lại 
do hở van ĐMC. Bệnh nhân được phẫu thuật sửa 
van ĐMC, thay đoạn ĐMC lên tuy nhiên sau mổ 
còn hở van ĐMC nhiều được mổ lại sửa van 
ĐMC sau 2 tuần. 
Tỷ lệ tai biến mạch máu não (TBMMN) gặp 
18,6%, chủ yếu là thể nhồi máu. 2/8bệnh nhân tử 
vong do tai biến mạch máu não, 1 BN nhồi máu 
tiểu não mức độ ít, sau quá trình điều trị chỉ còn 
loạn thần nhẹ, 5 BN nhồi máu nảo rải rác 2 bán 
cầu cũng không để lại di chứng khi ra viện. Tỷ lệ 
tai biến mạch não trong nghiên cứu của chúng tôi 
còn cao so với các tác giả trong và ngoài nước. 
Tác giả Nguyễn Thái An cho biết tỷ lệ biến 
chứng thần kinh vĩnh viễn trong nghiên cứu của 
mình là 4,2%. 
Tử vong sớm sau mổ 
Không có BN nào tử vong trên bàn mổ do chảy 
máu hay suy tim cấp sau ngừng máy tim phổi nhân 
tạo.Trong nghiên cứu, có 4 bệnh nhân tử vong tại 
viện (nặng xin về) với tỉ lệ là 9,3%. Trong đó có 
2 bệnh nhân tử vong do tai biến não, 2 bệnh nhân 
tử vong do suy đa tạng không hồi phục. Tỉ lệ này 
thấp hơn so với nghiên cứu của Hagan (26%) và 
với Nguyễn Thái An (11,1%). 4 trường hợp tử 
vongđều được phẫu thuật thay quai ĐMC (toàn bộ 
hoặc một phần)do đó rất dễ tổn thương các ĐM nuôi 
não và thời gian phẫu thuật kéo dài gây nên suy đa 
phủ tạng. Trong nghiên cứu của Nguyễn Hữu Ước, 
tử vong chiếm 20,8% với nguyên nhân chính là suy 
tim cấp sau mổ và suy đa tạng [1]. 
Qua theo dõi xa sau 2 năm có 4 bệnh nhân tử 
vong, 1 bệnh nhân tử vong sau 1 năm do tách 
thành ĐMC type B tiến triển, 1 bệnh nhân tử 
vong sau 2 tháng ở bệnh viện khác do u đại 
tràng. 2 bệnh nhân tử vong tại nhà không rõ 
nguyên nhân. 
V. KẾT LUẬN 
Phẫu thuật điều trị bệnh lý tách thành động 
mạch chủtype Alà phẫu thuật nặng với tỷ lệ 
biến chứng và tử vong cao. Bệnh viện Tim Hà 
nội mới triển khai nhiều những phẫu thuật này 
trong vòng 3 năm trở lại đây. Tuy nhiên kết 
quả phẫu thuật rất khả quan với tỷ lệ tử vong 
9,3%. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Vũ Ngọc Tú, Nguyễn Hữu Ước (2013). 
Đánh giá kết quả phẫu thuật lóc động mạch 
chủ type A tại Bệnh viện Việt Đức. Tạp chí 
phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực Việt 
Nam, 4, 59-65. 
2. Nguyễn Công Hựu, Đoàn Quốc Hưng, 
Dương Đức Hùng và cộng sự (2010). Kết 
quả phẫu thuật bệnh lý động mạch chủ ngực 
tại Bệnh viện Việt Đức. Hội nghị quốc tế 
Việt - Đức - những tiến bộ trong phẫu thuật 
và can thiệp tim mạch, 24-31. 
3. Nguyễn Thái An và Phạm Thọ Tuấn Anh 
(2010). Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật 
phình và bóc tách động mạch chủ lên và 
quai. Tạp chí Y học Việt nam, 375, 77-82. 
4. Miralem P., S. J, B. M và cộng sự (2003). 
Canulation of the right axillary artery for 
surgery of acute type A aortic dissection. Eur 
J Cardiothorac Surg, 24, 231-236. 
5. Allen H. J. BS, Hanafy H. J (1995). 
Retrograde cardiople-gia does not adequately 
perfuse the right ventricle. Thorac 
Cardiovasc Surg, 109(1116-1124), 
6. Svensson L. G. (2008). Perfusion strategies 
for brain protection: rationale for a selective 
approach. Aortic Arch Surgery: Principles, 
Strategies and Outcomes, Blackwell 
Publishing Ltd, 177-186. 
7. Eric M Siegal (2006). Acute aortic 
dissection. Journal of hospital medicine 
94-105. 
8. Hagan PG, Nienaber CA, Isselbacher EM et 
al. (2000)The International Registry of Acute 
Aortic Dissection (IRAD): new insights into 
an old disease. JAMA 283:879-903. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_ket_qua_phau_thuat_tach_thanh_dong_mach_chu_type_a.pdf