Đánh giá kết quả phẫu thuật sửa toàn bộ bệnh đảo gốc đại động mạch (TGA) tại Bệnh viện Tim Hà Nội
Từ 10/2014- 10/2017, 25 bệnh nhân TGA
đã phẫu thuật sửa toàn bộ tại bệnh viện Tim Hà
Nội. Tuổi nhập viện trung bình 25,8 ± 28,5
ngày tuổi .Cân nặng trung bình: 3,83 ± 1,09 kg.
Tỷ lệ sống ra viện là 92% (23 trường hợp); tử
vong là 8% ( 2 trường hợp). Kết quả phẫu thuật
sớm sửa toàn bộ đảo gốc đại động mạch là khả
quan với tỷ lệ thành công là 92%
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá kết quả phẫu thuật sửa toàn bộ bệnh đảo gốc đại động mạch (TGA) tại Bệnh viện Tim Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả phẫu thuật sửa toàn bộ bệnh đảo gốc đại động mạch (TGA) tại Bệnh viện Tim Hà Nội

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT SỬA TOÀN BỘ BỆNH ĐẢO GỐC ĐẠI ĐỘNG MẠCH (TGA) TẠI BV TIM HÀ NỘI 55 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT SỬA TOÀN BỘ BỆNH ĐẢO GỐC ĐẠI ĐỘNG MẠCH (TGA) TẠI BỆNH VIỆN TIM HÀ NỘI Nguyễn Sinh Hiền*, Vũ Thị Lan*, Đinh Xuân Huy*, Nguyễn Đăng Hùng*, Trần Thanh Hoa* TÓM TẮT Từ 10/2014- 10/2017, 25 bệnh nhân TGA đã phẫu thuật sửa toàn bộ tại bệnh viện Tim Hà Nội. Tuổi nhập viện trung bình 25,8 ± 28,5 ngày tuổi .Cân nặng trung bình: 3,83 ± 1,09 kg. Tỷ lệ sống ra viện là 92% (23 trường hợp); tử vong là 8% ( 2 trường hợp). Kết quả phẫu thuật sớm sửa toàn bộ đảo gốc đại động mạch là khả quan với tỷ lệ thành công là 92%. SUMMARY Assessment of Results of surgical treatment for transposition of the great arteries at Hanoi Heart Hospital. We enrolled 25 cases of TGA, operated to repaire completely from october of 2014 to october of 2017 at Ha Noi heart hospital. The mean age is 25,8 ± 28,5 days, the average weight is 3,83 ± 1,09 kg. Survival and discharged rate 92% (23 cases), hospital mortality 8% (02 cases). 2 deaths happened in ICU, no mortality on the processing operating. Results of early completely repaire surgery is feasible with the success rate is 92%. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Chuyển vị đại động mạch là bệnh lý tim bẩm sinh phức tạp, chiếm 5-7% bệnh tim bẩm sinh [6], [7], [8]. Trong báo cáo này chúng tôi chỉ đề cập đến chuyển vị đại động mạch thể toàn bộ (Complete transposition of the great arteries): là sự bất tương hợp giữa tâm thất và các đại động mạch (động mạch chủ bắt nguồn từ thất phải và động mạch phổi bắt nguồn từ thất trái) và có sự tương hợp giữa tâm nhĩ với tâm thất [6]. Động mạch chủ nằm trước động mạch phổi và có thể chếch về phải (D- transposition) hoặc trái (L-transposition) hoặc nằm song song. Do sự tương hợp giữa tâm nhĩ với tâm thất, bệnh nhân đảo gốc động mạch có hai hệ thống tuần hoàn song song thay vì nối tiếp, vì vậy suy hô hấp, tím xảy ra cấp tính ngay sau khi sinh. Trẻ sống được phụ thuộc vào sự trộn máu giữa 2 vòng tuần hoàn với các tổn thương kèm theo: Còn ống động mạch, lỗ bầu dục hoặc thông liên thất. Nếu không được điều trị, 30% trẻ tử vong trong tuần đầu, 90% tử vong trong năm đầu sau sinh [6], [10].* Trong những năm gần đây những thay đổi về thời điểm phẫu thuật, kỹ thuật mổ và chăm sóc trước mổ đã làm kết quả phẫu thuật chuyển gốc động mạch khả quan hơn. Những trung tâm có kinh nghiệm và có sự chuẩn bị tốt cho phẫu thuật chuyển gốc động mạch cho thấy tỉ lệ tử vong sớm sau phẫu thuật là dưới 5% đối với bệnh chuyển vị đại động mạch đơn thuần và bệnh chuyển vị đại động mạch kèm thông liên thất. Đây là những tiến bộ vượt bậc nếu so sánh tỉ lệ tử vong trước đó là 15%. Theo dõi sau mổ 5 năm và 10 năm cho thấy tỉ lệ sống cao đạt tới 90% kể cả các nhóm có nguy cơ cao [11]. Ở Việt nam, chỉ có một số trung tâm tim mạch có khả năng can thiệp và phẫu thuật sửa chữa bệnh chuyển vị đại động mạch. Các bệnh nhân được chẩn đoán và can thiệp điều trị muộn nên tỉ lệ tử vong còn cao. Hiện nay, chưa có * Bệnh viện Tim Hà Nội Người chịu trách nhiệm khoa học: TS. Nguyễn Sinh Hiền Ngày nhận bài: 15/07/2018 - Ngày Cho Phép Đăng: 20/07/2018 Phản Biện Khoa học: PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng GS.TS. Lê Ngọc Thành PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 24 - THÁNG 8/2018 56 nhiều công trình nghiên cứu đánh giá kết quả phẫu thuật sửa chữa toàn bộ chuyển vị đại động mạch tại Việt nam. Tại Bệnh viện Tim Hà Nội đã phẫu thuật cho bệnh lý này từ 10 năm nay nhưng chưa có một báo cáo nào về đề tài này. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài với mục tiêu là đánh giá kết quả ngắn hạn phẫu thuật sửa toàn bộ bệnh chuyển vị đại động mạch tại Bệnh viện tim Hà Nội. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 2.1. Đối tượng nghiên cứu: gồm 25 bệnh nhân chuyển gốc đại động mạch được phẫu thuật sửa toàn bộ tại Bệnh viện Tim Hà Nội từ 10/2014 đến tháng 10/2017. 2.2. Phương pháp nghiên cứu: mổ tả cắt ngang, hồi cứu. Các dữ liệu lấy tại bệnh án lưu trữ trong kho hồ sơ Bệnh viện Tim Hà Nội. Các thông tin bao gồm dịch tễ, triệu chứng lâm sàng, triệu chứng cận lâm sàng trước, trong và sau mổ. Nhập số liệu trên Epidata, phân tích thống kê dựa trên phần mềm Stata 12. p < 0.05 được coi là có ý nghĩa thống kê. III. KẾT QUẢ 3.1. Đặc điểm bệnh nhân trước phẫu thuật: Bảng 1: Đặc điểm tuổi và cân nặng Đặc điểm Chung n (%) TGA-IVS n (%) TGA-VSD n (%) p Tuổi nhập viện trung bình (ngày) 25,8 ± 28,5 (n=25) 21,5 ± 13,18 (n=10) 29,1 ± 36,4 (n=15) 0,71 Tuổi phẫu thuật trung bình (ngày) 52,3 ± 82,05 (n=25) 70,9 ± 112,93 (n=10) 35,3 ± 36,33 (n=15) 0,20 Cân nặng (kg) Trung bình ± SD (Tối thiểu- tối đa) 3,83 ± 1,09 (2,8 – 6,5) 3,43 ± 0.57 (2,8-4,8) 4,1 ± 1,3 (3 – 6,5) 0,2 TGA-IVS: Chuyển vị đại động mạch với vách liên thất nguyên vẹn TGA-VSD : Chuyển vị đại động mạch kèm thông liên thất Nhận xét: Tuổi nhập viện trung bình, tuổi phẫu thuật trung bình và cân nặng trung bình ở 2 nhóm chuyển vị đại động mạch với vách liên thất nguyên vẹn và nhóm chuyển vị đại động mạch kèm thông liên thất không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Bảng 3.2 : Thủ thuật trước mổ Thủ thuật Chung n(%) TGA - IVS n(%) TGA - VSD n(%) P Thủ thuật Rashkind 18(72%) 10(100%) 8(53%) 0,035 Training thất trái 4(16%) 3(30%) 1(7%) 0,267 Rashkind : Thủ thuật phá vách liên nhĩ Training thất trái: Banding động mạch phổi + cầu nối chủ phổi. Nhận xét: Thủ thuật Rashkind được thực hiện nhiều hơn ở nhóm chuyển vị đại động mạch có vách liên thất nguyên vẹn, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT SỬA TOÀN BỘ BỆNH ĐẢO GỐC ĐẠI ĐỘNG MẠCH (TGA) TẠI BV TIM HÀ NỘI 57 3.2. Trong phẫu thuật Bảng 3.3: Phương pháp phẫu thuật Phương pháp phẫu thuật N % Switch 23 92% Rastelli 1 4% Senning 1 4% Nhận xét: Phương pháp phẫu thuật chủ yếu là Switch chiếm 92%. Bảng 3.4: Các thông số trong phẫu thuật Chỉ số TGA -IVS TGA - VSD P Thời gian chạy máy tuần hoàn ngoài cơ thể ( CEC) (phút) 160,5 ± 21,8 ( n=10) 169 ± 41,2(n=15) 0.98 Thời gian cặp động mạch chủ (phút) 104,1 ± 14,9 (n=10) 120,8 ± 34,5 (n=15) 0.29 Hở xương ức 10 (100%)(n=10) 5(33,34%) (n=15) 0.91 CEC: Tuần hoàn ngoài cơ thể Nhận xét: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian chạy máy tuần hoàn ngoài cơ thể, thời gian cặp động mạch chủ, để hở xương ức ở 2 nhóm nghiên cứu. Biến chứng và tử vong sau phẫu thuật Bảng 3.5: Các thông số sau phẫu thuật Các thông số sau phẫu thuật TGA-IVS TGA-VSD P Suy tim sau mổ 7 (70%)(n=10) 7 (46,67%)(n=15) 0,414 Chảy máu sau mổ 1(10%)(n=10) 1(6,7%)(n=15) 1 Rối loạn nhịp 5(50%)(n=10) 6(40%)(n=15) 0,69 Thời gian hở xương ức (ngày) 2,9 ± 1,6 (n=10) 2,6 ± 1,3 (n=15) 0,92 Thời gian thở máy (giờ) 128 ± 73 (n=10) 132,2 ± 120,1(n=15) 0,74 Thời gian nằm hồi sức Trung bình ± SD 16,2±11,9 (n=10) 12,4 ±7,4(n=15) 0,23 Nhiễm trùng xương ức 0(0%)(n=10) 0(0%) 1 Nhiễm trùng vết mổ 1 (10%)(n=10) 2(13,4%)(n=15) 1 Nhiễm trùng máu 1 (10%)(n=10) 0(0%)(n=15) 0,8 Hở van động mạch chủ (1/4) 3 (30%) 3 (20%) Tử vong 2 (20%)(n=10) 0(0%)(n=15) 1 PFO: lỗ bầu dục 2 trường hợp tử vong: 1 do suy tim tử vong ngày thứ 2 sau phẫu thuật, 1 do nhiễm nấm máu Candida tử vong tuần thứ 2 sau phẫu thuật PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 24 - THÁNG 8/2018 58 IV. BÀN LUẬN 4.1. Tuổi nhập viện và tuổi phẫu thuật Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, tuổi nhập viện trung bình của bệnh nhân đảo gốc đại động mạch là 28,5 ± 25.8 ngày, số liệu này cao hơn nghiên cứu của Kim J.W tại Hàn Quốc ( với tuổi nhập viện trung bình là 6 ngày) và nghiên cứu của Sarris G.E với tuổi nhập viện trung bình là 10 ngày [3],[4]. Nguyên nhân bệnh nhân nhập viện muộn là do không được tầm soát bệnh trong thời kì mang thai đã làm chậm kết quả chẩn đoán ban đầu, ngoài ra, việc chyển tuyến của các tuyến y tế cơ sở cũng còn chậm. Tuổi phẫu thuật trung bình của các bệnh nhi trong mẫu nghiên cứu cũng rất cao: 52,3 ± 82,05 ngày (11- 158 ngày tuổi) Như vậy, thời điểm phẫu thuật muộn hơn nhiều so với các nghiên cứu khác trên thế giới [2],[3],[4]. Thông thường, chúng tôi phẫu thuật sửa toàn bộ cho các bệnh nhân chuyển gốc đại động mạch liền vách liên thất trước 2 tuần tuổi, những trường hợp có thông liên thất thì muộn hơn, có trường hợp sau sinh 5 tháng tuổi. 4.2. Cân nặng Trong nghiên cứu này, cân nặng trung bình là 3,83 ± 1,09 kg. Nhóm đảo gốc động mạch có vách liên thất nguyên vẹn là 3,43 ± 0,57kg ; nhóm đảo gốc động mạch có thông liên thất là 4,1 ± 1,3kg. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Cân nặng bệnh nhân trong nghiên cứu này cao hơn so với nghiên cứu của Fricke T.A: 3.5 kg [2]. Điều này là hợp lý do nhiều bệnh nhân của chúng tôi nhập viện và phẫu thuật muộn. 4.3. Thủ thuật trước phẫu thuật Nhiều bệnh nhân nhập viện trong tình trạng tím nặng, chúng tôi đã tiến hành mở vách liên nhĩ (thủ thuật Rashkind ) cho tất cả các trường hợp chuyển gốc động mạch liền vách liên thất và 53% bệnh nhân có thông liên thất nhưng lỗ nhỏ. Thủ thuật này thường được tiến hành tại phòng hồi sức dưới sự hướng dẫn của siêu âm. Những trường hợp bệnh nhân đến muộn, khi buồng thất trái nhỏ, vách liên thất lệch sang trái, thành sau thất trái mỏng <3 mm, chúng tôi phẫu thuật tạm thời để “luyện tập” thất trái (training thất trái) gồm banding động mạch phổi và làm cầu blalock cho 4 bệnh nhân, trong đó có 3 bệnh nhân của nhóm TGA-IVS chiếm tỷ lệ 30%, và 1 bệnh nhân của nhóm TGA-VSD có lỗ thông liên thất nhỏ. Sau phẫu thuật tạm thời 1-2 tuần, chúng tôi siêu âm đánh giá lại. Khi thành sau thất trái dày ≥3 mm, bệnh nhân được phẫu thuật chuyển lại vị trí các đại động mạch. 4.4.Các phương pháp phẫu thuật: Hầu hết các bệnh nhân được làm phẫu thuật chuyển vị lại các đại động mạch (switch). Một bệnh nhân kèm hẹp van động mạch phổi được làm phẫu thuật Rastelli. Một bệnh nhân đảo gốc đại động mạch liền vách liên thất nhưng phẫu thuật muộn (5 tháng ) nên được làm phẫu thuật Senning. Trong 23 bệnh nhân phẫu thuật chuyển vị lại các đại động mạch có 2 trường hợp có bất thường động mạch vành với 1 lỗ động mạch vành duy nhất và đoạn đầu động mạch vành đi trong thành động mạch chủ. 4.5. Đặc điểm chạy máy CEC và cặp động mạch chủ trong phẫu thuật chuyển gốc động mạch Thời gian tuần hoàn ngoài cơ thể của nhóm TGA – IVS là 160,5 ± 21,8 phút, nhóm TGA – VSD là 169 ± 41,2, sự khác biệt không có ý nghjiax thống kê với p> 0.05. Tương tự, thời gian cặp động mạch chủ của nhóm TGA – IVS là 104,1 ± 14,9 phút, của nhóm TGA – VSD là 120,8 ± 34,5, sự khác biệt là không có ý nghĩa với p> 0.05. Trong nghiên cứu của chúng tôi thời gian tuần hoàn ngoài cơ thể và thời gian cặp động mạch chủ cao hơn so với các báo cáo khác trên thế giới. Nguyên nhân là do số lượng ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT SỬA TOÀN BỘ BỆNH ĐẢO GỐC ĐẠI ĐỘNG MẠCH (TGA) TẠI BV TIM HÀ NỘI 59 bệnh nhân của chúng tôi không nhiều, mặt khác, thời kỳ đầu chúng tôi sử dung dịch liệt tim ấm mất khá nhiều thời gian, gần đây với việc sử dụng dung dịch liệt tim custodiol một lần duy nhất cho một cuộc mổ, chúng tôi đã rút ngắn được đáng kể thời gian chạy máy,thời gian cặp động mạch chủ cũng như thời gian mổ nói chung. Trong nghiên cứu của Fricke thời gian chạy tuần hoàn ngoài cơ thể là 164,9 phút và thời gian cặp ĐMC là 88,4 phút. [2]. 4.6. Hở xương ức sau phẫu thuật Việc để hở xương ức sau mổ là cần thiết trong nhiều trường hợp sau mổ đảo gốc động mạch. Ở lứa tuổi sơ sinh, tim, phổi, các tổ chức phần mềm có xu hướng phù nề sau một thời gian chạy tim phổi máy kéo dài. Việc để hở xương ức giúp cho huyết động sau mổ của bệnh nhân được ổn định hơn [9]. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 15 ca (60%) bệnh nhân để hở xương ức sau mổ và đóng xương ức sau khoảng 3 ngày khi huyết động ổn định . Kết quả này cũng tương tự với nghiên cứu của Wojtalik M. [9]. 4.7. Kết quả phẫu thuật Tỉ lệ bệnh nhân không hở van động mạch chủ chiếm 19/25 (76%) và có 6/25(24%) bệnh nhân hở van động mạch chủ nhẹ. Nghiên cứu của Fricke có tỉ lệ hở van động mạch chủ nhẹ sau mổ là 25,6% và có 1,1% hở van động mạch chủ trung bình [2]. Nghiên cứu của Hong S.J tỉ lệ hở van động mạch chủ nhẹ là 21,4% và không có bệnh nhân hở chủ trung bình hay nặng [1]. Trong nghiên cứu này, biến chứng sau mổ hay gặp là suy tim và rối loạn nhịp. Suy tim gặp ở 7 trường hợp TGA-IVS (70%) và 7 trường hợp TGA-VSD (46,67%). Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0.05. 1 bệnh nhân thuộc nhóm TGA-IVS suy tim không hồi phục diễn biến tử vong, các bệnh nhân khác đều hồi phục sau hậu phẫu. Biến chứng rối loạn nhịp của nhóm TGA-IVS có 5 bệnh nhân chiếm 50%, nhóm TGA-VSD có 6 bệnh nhân chiếm 40% bao gồm ngoại tâm thu, cơn nhịp nhanh trên thất .Tuy nhiên tất cả đều được điều trị ổn định. Trong nghiên cứu này không có bệnh nhân block nhĩ thất sau phẫu thuật. 2 bệnh nhân (8%) trong nghiên cứu của chúng tôi tử vong sau phẫu thuật . Cả 2 trưởng hợp tử vong đều thuộc nhóm TGA- IVS, 1 trường hợp suy tim mất bù , tử vong ngày thứ 2 sau mổ, và 1 trường hợp tử vong do nhiễm khuẩn máu bởi nấm candida, tử vong ngày thứ 16 sau mổ. Như vậy, tỉ lệ sống sót sau phẫu thuật chiếm 92% (23/25). Kết quả của chúng tôi tương tự của các nghiên cứu khác trên trên thế giới có tỷ lệ tử vong sớm từ 2,9% đến 11,4% [3],[1],[5]. Dưới đây là tỉ lệ sống sót sau phẫu thuật chuyển gốc động mạch theo thống kê của một số tác giả. Bảng 4.1 : Tỉ lệ sống sót sau phẫu thuật chuyển gốc động mạch Các tác giả Tỷ lệ sống sót (%) Giai đoạn nghiên cứu Foran và cộng sự 92,7 1990-1996 Serraf và cộng sự 92,2 1984-1992 Lalezari và cộng sự 88,6 1997-2007 Hong và cộng sự 96 2000-2010 Kim và cộng sự 94,8 2005-2012 Chúng tôi 92% 2014-2017 PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 24 - THÁNG 8/2018 60 V.KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 25 bệnh nhân đảo gốc động mạch được phẫu thuật triệt để tại Bệnh viện Tim Hà Nội trong thời gian từ tháng 10/2014 đến tháng 10/2017, chúng tôi nhận thấy: kết quả điều trị phẫu thuật là khả quan với tỷ lệ sống sau mổ là 92%; việc phẫu thuật tạm thời tập luyện thất trái trong một số trường hợp là cần thiết để chuẩn bị cho phẫu thuật triệt dể; cần tăng cường tầm soát bệnh tim bẩm sinh trong thời kì mang thai; khi phát hiện tổn thương chuyển gốc đại động mạch cần chuyển bệnh nhân đến trung tâm phẫu thuật tim nhi càng sớm càng tốt sẽ giúp làm tăng cơ hopoij sống sót cho bệnh nhân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Hong S.J., Choi H.J., Kim Y.H., et al. (2012). Clinical features and surgical outcomes of complete transposition of the great arteries. Korean J Pediatr, 55(10), 377-382. 2.Fricke T.A., d'Udekem Y., Richardson M., et al. (2012). Outcomes of the arterial switch operation for transposition of the great arteries: 25 years of experience. Ann Thorac Surg, 94(1), 139-145. 3.Sarris G.E., Chatzis A.C., Giannopoulos N.M., et al. (2006). The arterial switch operation in Europe for transposition of the great arteries: a multi-institutional study from the European Congenital Heart Surgeons Association. J Thorac Cardiovasc Surg, 132(3), 633-639. 4.Kim J.W., Gwak M., Shin W.J., et al. (2015). Preoperative factors as a predictor for early postoperative outcomes after repair of congenital transposition of the great arteries. Pediatr Cardiol, 36(3), 537-542. 5.Karamlou T., Jacobs M.L., Pasquali S., et al. (2014). Surgeon and center volume influence on outcomes after arterial switch operation: analysis of the STS Congenital Heart Surgery Database. Ann Thorac Surg, 98(3), 904-911. 6.Kirklin JW, Barrett-Boyes BG (1993), “Complete transposition of the great arteries”, Cardiac surgery,. 2nd ed. White Plains, New York: 1383-467. 7.Macartney FJ, Shinebourne EA, Anderson RH. Connexions, relations, discordance, and distortions. Br Heart J. 1976;38:323–6. 8.Shahzad G Raja, Arjamand Shauq (2005), “Outcomes after Arterial Switch Operation for Simple Transposition”, Asian Cardiovasc Thorac Ann;13:190–8. 9.Wojtalik M, MD, Girish Sharma (2003), “Arterial Switch Operation in Neonates With Complex Congenital Heart Defects”, Asian Cardiovasc Thorac Ann 2003;11:14–7. 10.Phạm Nguyễn Vinh(2003), “ Hoán vị đại động mạch”, Siêu âm tim và bệnh lý tim mạch, tr109-119 11. Lalezari S., Bruggemans E.F., Blom N.A., et al. (2011). Thirty-year experience with the arterial switch operation. Ann Thorac Surg, 92(3), 973-979.
File đính kèm:
danh_gia_ket_qua_phau_thuat_sua_toan_bo_benh_dao_goc_dai_don.pdf