Đánh giá kết quả phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch ngầm có sử dụng laser công suất thấp

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Phẫu thuật nhổ răng khôn lệch ngầm là thủ thuật phổ biến nhất trong nha khoa với độ khó

phụ thuộc vào vị trí răng mọc lệch. Liệu pháp laser sau phẫu thuật có thể giúp kích thích tái tạo tế bào và

mô, qua đó giúp giảm triệu chứng đau hậu phẫu. Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm khảo sát đặc điểm

lâm sàng và X quang của răng khôn hàm dưới lệch ngầm, đánh giá kết quả của phẫu thuật nhổ răng khôn

hàm dưới lệch ngầm có sử dụng laser công suất thấp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Dữ liệu lâm

sàng và X quang được thu thập từ 90 bệnh nhân (tuổi trung bình 28,13 ± 5,38), cần nhổ răng khôn hàm dưới

lệch - ngầm, phân bố ngẫu nhiên vào 3 nhóm: nhóm 1 laser chiếu trong miệng sau phẫu thuật, nhóm 2 laser

chiếu ngoài mặt sau phẫu thuật và nhóm 3 là nhóm chứng không kích hoạt tia. Đánh giá mức độ đau, sưng,

há miệng hạn chế tại thời điểm 24 giờ, 48 giờ, và 7 ngày sau phẫu thuật. Kết quả: Tương quan với cành đứng

xương hàm dưới: loại II chiếm ưu thế (88,9%), loại III (11,1%). Tương quan về độ sâu R8 với mặt nhai R7: vị

trí B (81,1%), vị trí C (18,9%). Tương quan R8 với trục R7 kế cận: nằm ngang (58,9%), nghiêng gần (40%) và

nghiêng xa (1,1%). Có sự giảm đáng kể (p<0,05) về="" mức="" độ="" đau,="" sưng="" và="" khít="" hàm="" giữa="" các="" nhóm="" được="">

trị với laser công suất thấp so với nhóm chứng tại thời điểm ngày thứ nhất và ngày thứ hai sau phẫu thuật.

Kết luận: Chiếu laser công suất thấp hậu phẫu trong miệng và ngoài mặt giúp cải thiện tình trạng sưng, đau,

khít hàm sau phẫu thuật răng khôn hàm dưới lệch ngầm so với nhóm chứng.

Từ khóa: Răng khôn hàm dưới lệch ngầm, liệu pháp laser công suất thấp

pdf 8 trang phuongnguyen 5900
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá kết quả phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch ngầm có sử dụng laser công suất thấp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch ngầm có sử dụng laser công suất thấp

Đánh giá kết quả phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch ngầm có sử dụng laser công suất thấp
130
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NHỔ RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI 
LỆCH NGẦM CÓ SỬ DỤNG LASER CÔNG SUẤT THẤP
Nguyễn Thị Mai Hương1, Trần Tấn Tài2, Hồng Quốc Khanh3
(1) Học viên CK cấp II Răng Hàm Mặt, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
(2) Khoa Răng Hàm Mặt, Trường Đại học Y Dược Huế
(3) Bệnh viện Răng Hàm Mặt thành phố Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Phẫu thuật nhổ răng khôn lệch ngầm là thủ thuật phổ biến nhất trong nha khoa với độ khó 
phụ thuộc vào vị trí răng mọc lệch. Liệu pháp laser sau phẫu thuật có thể giúp kích thích tái tạo tế bào và 
mô, qua đó giúp giảm triệu chứng đau hậu phẫu. Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm khảo sát đặc điểm 
lâm sàng và X quang của răng khôn hàm dưới lệch ngầm, đánh giá kết quả của phẫu thuật nhổ răng khôn 
hàm dưới lệch ngầm có sử dụng laser công suất thấp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Dữ liệu lâm 
sàng và X quang được thu thập từ 90 bệnh nhân (tuổi trung bình 28,13 ± 5,38), cần nhổ răng khôn hàm dưới 
lệch - ngầm, phân bố ngẫu nhiên vào 3 nhóm: nhóm 1 laser chiếu trong miệng sau phẫu thuật, nhóm 2 laser 
chiếu ngoài mặt sau phẫu thuật và nhóm 3 là nhóm chứng không kích hoạt tia. Đánh giá mức độ đau, sưng, 
há miệng hạn chế tại thời điểm 24 giờ, 48 giờ, và 7 ngày sau phẫu thuật. Kết quả: Tương quan với cành đứng 
xương hàm dưới: loại II chiếm ưu thế (88,9%), loại III (11,1%). Tương quan về độ sâu R8 với mặt nhai R7: vị 
trí B (81,1%), vị trí C (18,9%). Tương quan R8 với trục R7 kế cận: nằm ngang (58,9%), nghiêng gần (40%) và 
nghiêng xa (1,1%). Có sự giảm đáng kể (p<0,05) về mức độ đau, sưng và khít hàm giữa các nhóm được điều 
trị với laser công suất thấp so với nhóm chứng tại thời điểm ngày thứ nhất và ngày thứ hai sau phẫu thuật. 
Kết luận: Chiếu laser công suất thấp hậu phẫu trong miệng và ngoài mặt giúp cải thiện tình trạng sưng, đau, 
khít hàm sau phẫu thuật răng khôn hàm dưới lệch ngầm so với nhóm chứng.
Từ khóa: Răng khôn hàm dưới lệch ngầm, liệu pháp laser công suất thấp.
Abstracts
ASSESSMENT ON RESULTS OF SURGICAL EXTRACTION OF 
IMPACTED LOWER THIRD MOLARS WITH POST-OPERATIVE 
LOW - LEVEL LASER THERAPY
Nguyen Thi Mai Huong1, Tran Tan Tai2, Hong Quoc Khanh3
(1) Postgraduate Students of Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(2) Faculty of Odonto-stomatology, Hue University of Medicine and Pharmacy
(3) Odonto-stomatology Hospital, Ho Chi Minh city
Background: The most frequently performed surgical procedure in dentistry is impacted third molar 
extraction with difficulty varies according to the location of the tooth. Laser therapy after surgery can 
accelerate cell and tissue reconstruction along with relieve post-operative pain. The objective of this study 
was to investigate the clinical and radiographic characteristics of impacted lower third molar and to evaluate 
the results of surgical extraction of impacted lower third molar with post-surgical low-level laser therapy 
(LLLT). Subjects and Methods: Clinical and radiographic data from 90 patients (average age 28.13 ± 5.38) 
subjected to a surgical extraction of lower third molar were pooled and divided randomly into 3 groups: 
group 1 received LLLT immediately after surgery intraorally, group 2 treated with LLLT immediately after the 
extraction extraorally. Patients received routine management with nonactivated laser were inserted in the 
control group. Assessments of pain, swelling and trismus level were carried out at 24, 48 hours and on the 7th 
day after surgery. Results: Correlation of wisdom teeth to ramus and adjacent teeth mainly type II (88.9%), 
type III accounted for 11.1%. Relative depth of wisdom teeth in the bone mainly position B (81.1%), position 
C (18.9%). Correlation of wisdom teeth axis to adjacent teeth: horizontal (58.9%), mesioangular impactions 
(40%) and distoangular impaction (1.1%). There were statistically significant decreases in the level of pain, 
edema and interincisal opening between the laser-treated groups and the control group on the 1st and 2nd 
- Địa chỉ liên hệ: Trần Tấn Tài, email: taihangdr@gmail.com
- Ngày nhận bài: 15/10/2018; Ngày đồng ý đăng: 9/11/2018, Ngày xuất bản: 17/11/2018
131
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
postoperative day. Conclusions: Intraoral and extraoral post-surgical low-level laser therapy treatment was 
useful in reducing swelling, pain and trismus compared to placebo group in impacted third molar surgery.
Keywords: Impacted lower third molar, low- level laser therapy
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Răng khôn là răng mọc sau cùng trên cung hàm 
do đó thường bị thiếu chỗ, dẫn đến tình trạng mọc 
lệch lạc và gây ra nhiều biến chứng ảnh hưởng không 
nhỏ đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Phẫu 
thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch ngầm là thủ 
thuật phổ biến nhưng tương đối xâm lấn. Khoảng 
63% bệnh nhân cảm thấy đau đớn dữ dội trong 24 
giờ đầu sau phẫu thuật, nhất là trong khoảng 3-5 giờ 
sau khi thuốc tê hết tác dụng [6]. Các triệu chứng 
sưng nề và hạn chế há miệng cũng gây không ít khó 
chịu cho bệnh nhân. 
Hiện nay, điều trị nội khoa hậu phẫu là phương 
pháp được áp dụng rộng rãi, tuy hiệu quả nhưng lại 
gây một số tác dụng phụ không mong muốn, tăng 
nguy cơ biến chứng trên bệnh nhân có bệnh lý toàn 
thân. Laser công suất thấp đã được sử dụng nhiều 
trong y khoa điều trị và được chứng minh là có tác 
động điều hòa quá trình viêm, giúp giảm sưng đau 
và thúc đẩy quá trình lành thương mà không gây bất 
kỳ tác dụng phụ nào. 
Trên phương diện điều trị hậu phẫu nhổ răng, 
việc chiếu laser trong và ngoài miệng, trước và sau 
khâu đều cho kết quả khác nhau [6]. Dựa trên những 
bằng chứng khoa học sẵn có, với mong muốn tìm 
kiếm một phương pháp điều trị hỗ trợ triệu chứng 
tối ưu cho bệnh nhân sau phẫu thuật nhổ răng khôn 
hàm dưới lệch ngầm, chúng tôi thực hiện đề tài này 
nhằm 2 mục tiêu:
1/ Khảo sát đặc điểm lâm sàng, X quang ở bệnh 
nhân có răng khôn hàm dưới lệch ngầm.
2/ Đánh giá kết quả của phẫu thuật nhổ răng 
khôn hàm dưới lệch ngầm có sử dụng laser công 
suất thấp.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
-Tiêu chuẩn chọn: Bệnh nhân trong độ tuổi 18-
40 tuổi, có răng khôn hàm dưới lệch ngầm cần phẫu 
thuật, có sức khỏe toàn thân tốt và đồng ý tham gia 
nghiên cứu.
-Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân thuộc chống chỉ 
định điều trị với laser công suất thấp, hút thuốc lá, 
có thai hoặc đang cho con bú. Bệnh nhân đang dung 
thuốc điều trị bệnh lý toàn thân hoặc tại chỗ.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả, tiến 
cứu, can thiệp lâm sàng có đối chứng.
- Cỡ mẫu: n = 90 bệnh (90 răng), phân bố ngẫu 
nhiên lần lượt vào 2 nhóm nghiên cứu và 1 nhóm 
chứng.
- Phương pháp tiến hành:
+ Tất cả bệnh nhân được phẫu thuật theo đúng 
qui trình kỹ thuật của bệnh viện Răng Hàm Mặt 
thành phố.
+ Laser diode AsGaAl bước sóng 810 nm, công suất 
0,5W ± 20%, chế độ phát liên tục trong 30 giây mỗi vị 
trí, mật độ năng lượng 4 J/cm2. Đầu phát tia laser được 
giữ cách mô đích (ổ răng, bề mặt niêm mạc hoặc bề 
mặt da) 1cm, kích thước đầu chiếu 400 µm, vòng tròn 
tác động của tia laser lên mô có đường kính 2 cm. Qui 
trình chiếu tia được thực hiện ngay sau khi kết thúc 
phẫu thuật lấy răng khôn.
+ Nhóm I – chiếu tia trong miệng (n=30): đầu dò 
laser được chiếu tại 4 vị trí: (1) ngay giữa ổ nhổ răng, 
(2) phần ba cổ phía lưỡi, (3) phần ba giữa phía lưỡi, 
(4) phần ba chóp phía lưỡi. 
+ Nhóm II – chiếu tia ngoài mặt (n=30): giữ đầu 
dò tại 4 vị trí dọc cơ cắn: (1) phần tư dưới của cơ cắn 
(gần điểm bám tận ở xương hàm dưới), (2) phần tư 
giữa-dưới của cơ cắn, (3) phần tư giữa-trên cơ cắn, 
(4) phần tư trên cùng của cơ cắn (gần nguyên ủy ở 
cung tiếp).
+ Nhóm III – nhóm chứng (n=30): giữ đầu dò 
theo đúng qui trình (ngẫu nhiên chọn lựa qui trình 
trong miệng hoặc ngoài mặt), tuy nhiên không kích 
hoạt tia laser.
+ Nghiên cứu dùng mẫu bệnh án thống nhất. 
Các mốc giải phẫu, số đo trước và sau phẫu thuật 
do một nhân viên y tế được huấn luyện định chuẩn 
trực tiếp thu thập dữ liệu.
+ Đo độ sưng và độ há miệng tối đa được thực 
hiện trên cùng một tư thế ghế nha 45 độ, vào ngày 
thứ 1, thứ 2 và thứ 7 sau phẫu thuật.
+ Mức độ đau theo thang VAS và Likert 7: bệnh 
nhân tự đánh giá theo mẫu thống nhất vào mỗi 2 giờ 
trong 6 giờ đầu tiên sau khi hết cảm giác tê môi, và 
vào thời điểm 24 giờ, 48 giờ sau phẫu thuật. Bệnh 
nhân tự ghi nhận số lượng viên thuốc giảm đau đã 
uống trong 2 ngày sau phẫu thuật.
+ Bảng câu hỏi OHIP-14: nhân viên y tế đọc câu 
hỏi khi bệnh nhân đến tái khám vào ngày thứ 1, thứ 
2 và thứ 7 sau phẫu thuật. Bệnh nhân tự chọn các 
mức độ tương ứng với tình trạng của mình.
-Biến số nghiên cứu:
+ Đặc điểm lâm sàng: tuổi, nhóm tuổi, giới tính, 
132
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
nghề nghiệp, lý do đến khám, sự hiện diện của răng 
khôn hàm dưới mọc lệch trong khoang miệng.
+ Đặc điểm X quang: mức độ lệch ngầm R8 theo 
Pell&Gregory, chiều hướng mọc răng theo Winter, 
tình trạng ảnh hưởng R7.
+ Kết quả phẫu thuật R8 có hỗ trợ laser công suất 
thấp: đánh giá đau theo thang Likert 7, VAS và số 
viên thuốc giảm đau; đánh giá sưng mặt bằng thước 
dây theo D1 (góc mắt ngoài-góc hàm), D2 (bình tai-
khóe mép), D3 (bình tai-điểm trước nhất của cằm); 
đánh giá độ há miệng tối đa bằng thước kẹp (mm); 
đánh giá chất lượng cuộc sống của BN sau phẫu 
thuật bằng bộ câu hỏi OHIP-14.
2.3. Xử lý số liệu
- Số liệu được xử lý và phân tích bằng phần mềm 
SPSS 18.0.
- Kiểm định χ2, Wilcoxon, Mann Whitney, T test, 
Fisher’s exact.
3.KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm lâm sàng và X quang của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1. Một số đặc điểm lâm sàng của mẫu nghiên cứu
Đặc điểm n %
Giới tính
Nam 39 43,3
Nữ 51 56,7
Nhóm tuổi
18-24 25 27,8
25-35 55 61,1
> 35 10 11,1
Nghề nghiệp 
CBCC 53 58,9
HSSV 10 11,1
Công nhân 10 11,1
Khác 17 18,9
Lý do đến khám
Nhét thức ăn 39 43,3
Dự phòng 29 32,2
Khác 22 24,5
Sự hiện diện R8 trong 
khoang miệng
Thấy một phần R trong miệng 69 76,7
Không thấy R trong miệng 21 23,3
Bảng trên cho thấy không khác biệt về giới trong nhóm nghiên cứu, nhóm tuổi phổ biến là 25-35 tuổi, cán 
bộ công chức (CBCC) là thành phần chủ yếu trong mẫu nghiên cứu. Phần lớn BN muốn nhổ răng vì khó chịu 
do nhét thức ăn và đa số các răng có hiện diện một phần trong khoang miệng.
Bảng 3.2. Đặc điểm răng khôn hàm dưới lệch ngầm đánh giá trên phim toàn cảnh
Đặc điểm
Răng
Phân loại
R38 R48 Tổng số p
n % n % n %
Tương quan với cành 
đứng xương hàm dưới
Loại II 33 86,8 47 90,4 80 88,9
>0,05
Loại III 5 13,2 5 9,6 10 11,1
Độ sâu so với mặt nhai 
R7
Vị trí B 32 84,2 41 78,8 73 81,1
>0,05
Vị trí C 6 15,8 11 21,2 17 18,9
Độ nghiêng trục răng 
khôn theo Winter
Lệch gần 17 44,7 19 36,5 36 40
>0,05Lệch xa 0 0 1 1,9 1 1,1
Nằm ngang 21 55,3 32 61,5 53 58,9
Độ lệch trục R8 dưới so 
với R7
≤ 45 độ 14 36,8 15 28,8 29 32,2
>0,05
> 45 độ 24 63,2 37 71,2 61 67,8
Ảnh hưởng của R8 đến 
R7 kế cận
Tiêu xương 14 36,8 26 50,0 40 44,4
>0,05
Sâu 2 5,3 0 0 2 2,2
Tiêu xương, sâu 9 23,7 6 11,5 15 16,7
Không ảnh hưởng 13 34,2 20 38,5 33 36,7
133
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Đa số các răng trong mẫu có vị trí B và tương quan loại II so với cành đứng xương hàm dưới theo phân 
loại Pell&Gregory và có độ nghiêng trên 45 độ so với trục R7. R8 lệch gần và nằm ngang chiếm hầu hết mẫu 
nghiên cứu. 44,4% R8 gây tiêu xương R7 kế cận, tuy nhiên, tỉ lệ R8 chưa gây ảnh hưởng R7 cũng chiếm phần 
khá cao (36,7%). Không có sự khác biệt giữa hai phần hàm (p>0,05). 
3.2. Kết quả phẫu thuật răng khôn hàm dưới lệch ngầm có hỗ trợ của laser công suất thấp
3.2.1. Mức độ đau của bệnh nhân sau khi hết cảm giác tê môi 
Biểu đồ 3.1. Mức độ đau giữa 3 nhóm nghiên cứu theo thang đo VAS
Vào ngày thứ hai sau phẫu thuật, đa số các bệnh nhân đều “không đau” đến “đau nhẹ”. 
Điểm VAS trung bình ở nhóm có chiếu laser thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng. Điểm VAS cao nhất 
ở thời điểm 4 giờ sau khi hết cảm giác tê môi, sau đó giảm dần và đến ngày thứ 2 sau phẫu thuật thì sự khác 
biệt điểm VAS không còn đáng kể ở tất cả các nhóm nghiên cứu.
Số lượng trung bình viên thuốc giảm đau đã uống giữa nhóm sử dụng laser chiếu trong miệng, laser chiếu 
ngoài mặt và nhóm chứng lần lượt là 0,5 – 0,43 – 1,47 viên thuốc, có sự khác biệt có ý nghĩa giữa nhóm laser 
chiếu ngoài mặt và nhóm chiếu trong miệng so với nhóm chứng (p<0,001).
3.2.2. Đánh giá mức độ sưng mô mềm sau phẫu thuật nhổ răng khôn
Bảng 3.3. Mức độ sưng mặt theo các khoảng cách ở 3 nhóm nghiên cứu tại các thời điểm 
Mức độ sưng 
Chiếu trong 
(N1)
Chiếu ngoài 
(N2)
Chứng 
(N3)
p12 p13 p23
D1
(góc mắt ngoài – 
góc hàm)
T
0
109,23±5,18 109,3±5,31 109,5±5,02 >0,05 >0,05 >0,05
T
1
110,33±5,53 110,23±5,37 113,13±4,74 >0,05 <0,05 <0,05
T
2
110,43±5,54 110,27±5,39 113,27±4,71 >0,05 <0,05 <0,05
T
7
109,27±5,21 109,3±5,36 109,53±4,89 >0,05 >0,05 >0,05
D2 
(bình tai – khóe 
mép)
T
0
122,23±5,09 122,27±5,71 122,37±5,49 >0,05 >0,05 >0,05
T
1
123,47±5,26 123,37±5,61 126,23±5,23 >0,05 <0,05 <0,05
T
2
123,6±5,31 123,4±5,72 126,43±5,12 >0,05 <0,05 <0,05
T
7
122,23±5,14 122,27±5,77 122,4±5,37 >0,05 >0,05 >0,05
D3 (bình tai – điểm 
nhô nhất của cằm)
T
0
153,77±2,47 153,83±3,00 153,8±2,87 >0,05 >0,05 >0,05
T
1
155.07±2,69 155,00±2,84 157,73±2,73 >0,05 <0,001 <0,001
T
2
155,2±2,77 155,07±3,06 157,9±2,75 >0,05 <0,001 <0,001
T
7
153,83±2,51 153,87±3,01 153,9±2,75 >0,05 >0,05 >0,05
Các khoảng cách đo được tăng vào ngày thứ nhất và thứ hai sau phẫu thuật, giảm vào ngày thứ bảy. Tại 
thời điểm 7 ngày sau phẫu thuật, kích thước mô mềm đo theo 3 chiều hướng gần như đều trở về trạng thái 
bình thường trên tất cả các bệnh nhân tham gia nghiên cứu. Mức độ sưng mô mềm ở nhóm có chiếu laser 
thấp hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
134
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
3.2.3. Đánh giá mức độ khít hàm sau phẫu thuật nhổ răng khôn
Bảng 3.4. Mức độ há miệng tối đa ở 3 nhóm tại các thời điểm so với trước phẫu thuật
Chiếu trong (N1) Chiếu ngoài (N2) Nhóm chứng (N3) p12 p13 p23
T
0
49,1±2,22 49,06±2,48 49,03±2,37 >0,05 >0,05 >0,05
T
1
47,07±2,42 47,17±2,49 44,43±2,66 >0,05 <0,001 <0,001
T
2
46,9±2,58 47,07±2,65 44,23±2,97 >0,05 <0,001 <0,001
T
7
49,07±2,27 49,07±2,42 48,93±2,3 >0,05 >0,05 >0,05
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hiệu quả giảm triệu chứng khít hàm ở nhóm sử dụng laser chiếu trong 
và laser chiếu ngoài so với nhóm chứng giữa các thời điểm (p < 0,001). Ngày thứ bảy sau phẫu ... an với cành đứng 
xương hàm dưới ở loại II là dạng phổ biến nhất, 
chiếm 88,9%. Tất cả các răng trong mẫu nghiên cứu 
của chúng tôi đều thuộc nhóm tương quan loại II và 
III, do đó việc bẩy lấy răng đơn thuần là không đủ, 
tất cả các răng khôn trong nghiên cứu này đều cần 
tạo vạt, mở xương mặt ngoài và chia cắt răng mới có 
thể lấy răng được trọn vẹn, không sót.
Nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu khảo sát các 
răng khôn hàm dưới lệch ngầm, do đó mẫu nghiên 
cứu không có răng khôn vị trí A. Vị trí phổ biến nhất 
trong nghiên cứu là IIB (chiếm 41,1%), tương tự 
nghiên cứu của Đoàn Thị Mỹ Chi (2014)[1].
Chúng tôi ghi nhận, so với trục của R7 hàm dưới 
kế cận, R8 lệch gần chiếm 40%, lệch xa 1,1% và nằm 
ngang 58,9%. Không có răng nghiêng ngoài hay 
nghiêng trong. Tỉ lệ răng khôn hàm dưới lệch hơn 
450 chiếm tỷ lệ cao đồng thời không có sự khác biệt 
ở 2 bên hàm.Tiêu xương phía xa răng 7 và sâu mặt xa 
răng 7 là những biến chứng mà răng khôn mọc lệch 
gây ảnh hưởng đến răng kế cận nhiều nhất.
Khi xem xét các nghiên cứu đánh giá hiệu quả 
phẫu thuật răng khôn hàm dưới lệch ngầm có hỗ trợ 
laser công suất thấp, không nhiều tác giả trên thế giới 
có báo cáo về đặc điểm X quang của răng khôn hàm 
dưới. Theo kết quả nghiên cứu của Rasmirez[10], 
vị trí phổ biến nhất của răng khôn trong mẫu của 
ông cũng là IIB (85%) và đa số các răng khôn hàm 
dưới trong các nghiên cứu đều nghiêng gần (45%); 
Raiesian (2017) [12], riêng Koparal (2018) [8] chọn 
mẫu gồm tất cả các răng có vị trí IIIB.
4.2. Về hiệu quả điều trị phẫu thuật răng khôn 
hàm dưới lệch ngầm có hỗ trợ của laser công suất 
thấp
Dù đã có nhiều nghiên cứu sử dụng laser công 
suất thấp trong phẫu thuật miệng để giảm sưng mặt, 
đau và khít hàm nhưng vẫn chưa có đủ bằng chứng 
để hỗ trợ việc nên sử dụng laser công suất thấp sau 
khi phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch ngầm. 
Các nghiên cứu báo cáo có kết quả khả quan, đồng 
thời cũng có kết quả không như mong đợi[6].Sự 
khác biệt này có thể là do sự khác biệt trong thiết 
kế hoặc phương pháp nghiên cứu, khó khăn trong 
việc đo các biến liên quan đến di chứng hậu phẫu. 
Y văn hiện tại vẫn thiếu các báo cáo thống nhất về 
các biến số vật lý và sinh học như loại laser, công 
suất phát (mức năng lượng, liên tục hoặc xung), tần 
số xung, bước sóng, thời gian và phương thức ứng 
dụng cũng như khoảng cách từ nguồn chiếu xạ đến 
mô cần tác động. Ngoài ra, sự khác biệt mô học và 
đặc điểm hấp thụ làm cho việc chuẩn hóa kết quả 
cũng trở nên khó khăn.
Loại laser, liều điều trị và bước sóng của laser 
công suất thấp có lẽ là những biến quan trọng nhất 
trong điều trị bằng laser. Laser GaAlAs là hệ thống 
laser năng lượng thấp phổ biến nhất được sử 
dụng trong vật lý trị liệu để thúc đẩy chữa lành vết 
thương, liều điều trị lý tưởng thấp hơn 5 J/cm2 [6]. 
Bước sóng cũng là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến 
hiệu quả điều trị bằng laser công suất thấp. Theo 
Merigo (2015) [11], tia laser công suất thấp có bước 
sóng trong phạm vi 600 – 700 nm thích hợp để điều 
trị tổn thương mô bề mặt, bước sóng trong khoảng 
780 – 950 nm được chọn cho điều trị tổn thương các 
mô sâu hơn, do khả năng thâm nhập mô sâu hơn. 
Các bước sóng từ 700 đến 770 nm không được coi 
là có nhiều hoạt động.
4.2.1. Về mức độ đau sau phẫu thuật răng khôn 
hàm dưới lệch ngầm có hỗ trợ của laser công suất 
thấp
Kết quả nghiên cứu cho thấy, liệu pháp laser 
chiếu ngoài mặt và laser chiếu trong miệng có hiệu 
quả giảm đau đáng kể so với nhóm chứng kể từ thời 
điểm 2 giờ sau khi hết cảm giác tê môi. Hiệu quả 
này duy trì và kéo dài đến thời điểm ngày thứ hai 
sau phẫu thuật. Ngoài ra khác biệt về hiệu quả giảm 
đau giữa hai nhóm laser chiếu ngoài và laser chiếu 
trong không có ý nghĩa. Kết quả này hoàn toàn phù 
hợp với nghiên cứu của Đoàn Thị Mỹ Chi và cộng 
sự (2014) [1], ngoài ra cũng có tính tương đồng với 
kết quả các nghiên cứu của Kazancioglu (2014) [7] và 
Landucci (2016) [9].
Landucci (2016) [9] tiến hành trên cỡ mẫu nhỏ 
hơn, với thiết kế vừa chiếu trong miệng vừa chiếu 
ngoài mặt rồi đánh giá tương quan với nhóm chứng 
cũng cho một số kết quả khả quan về hiệu quả giảm 
đau của laser công suất thấp vào ngày thứ hai và thứ 
ba sau phẫu thuật.
Mới đây nhất, Koparal (2018) [8] so sánh mức 
độ đau VAS giữa hai nhóm, chiếu laser 1 lần duy 
nhất và chiếu 2 lần (ngay sau phẫu thuật và hai ngày 
sau phẫu thuật) đã báo cáo kết quả, chiếu laser 1 
lần trong miệng cho hiệu quả giảm đau đáng kể so 
với nhóm chứng vào ngày thứ 7 sau phẫu thuật (p 
<0,05). Những dữ liệu này gợi ý việc sử dụng laser 
công suất thấp chỉ chiếu vào thời điểm sau phẫu 
thuật có thể cho hiệu quả giảm đau tốt hơn so với 
việc kết hợp chiếu tia thêm vào các thời điểm sau 
đó.
Rất ít tác giả đánh giá số viên thuốc giảm đau 
bệnh nhân đã uống sau phẫu thuật. Kazancioglu 
(2014) [7] đánh giá đau vào ngày 1, 3, 7 và tính tổng 
viên thuốc giảm đau bệnh nhân đã uống ở nhóm 
điều trị laser là 4,1 viên và nhóm chứng là 8,4 viên 
thuốc sau khi nhổ răng. Số liệu của Kazancioglu 
136
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
tương đối lớn hơn so với nghiên cứu của chúng tôi, 
với trung bình số viên thuốc giảm đau giữa 3 nhóm 
laser chiếu trong, laser chiếu ngoài và nhóm chứng 
lần lượt là 0,5 – 0,43 – 1,47 viên thuốc.
4.2.2. Về mức độ sưng sau phẫu thuật răng 
khôn hàm dưới lệch ngầm có hỗ trợ của laser công 
suất thấp
Trong nghiên cứu chúng tôi, ở cả 3 cách đo, kết 
quả có sự nhất quán về hiệu quả giảm sưng của laser 
chiếu ngoài và laser chiếu trong so với nhóm chứng 
vào ngày thứ nhất và thứ hai sau phẫu thuật (p < 
0,001). Trong từng thời điểm, mức độ sưng nề mô 
mềm phía má của các bệnh nhân trong cả hai nhóm 
chiếu laser đều không đáng kể so với thời điểm 
tiền phẫu và khác biệt về độ sưng giữa hai nhóm 
không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Vào ngày thứ 7 
sau phẫu thuật, các chỉ số đo trở lại trạng thái bình 
thường, tương đương so với lúc trước phẫu thuật 
ở cả 3 nhóm nghiên cứu. Kết quả này của chúng tôi 
tương đồng với nghiên cứu của Kanzancioglu (2014) 
[7]. Tuy vậy, một số tác giả ghi nhận tia laser có giúp 
giảm sưng mô mềm, tuy nhiên khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê như Amarillas (2010) [4], Rasmirez 
(2012) [10], Alan (2016) [3], Raiesian (2017) [12] và 
Koparal (2018) [8].
Amarillas Escobar và cộng sự [4] thực hiện một 
nghiên cứu tương tự, nhưng để đánh giá hiệu quả 
tích lũy của laser điều trị, họ đã áp dụng phác đồ 
chiếu tia hàng ngày cho bệnh nhân. Trong nghiên 
cứu này, bệnh nhân được chiếu tia trong miệng vào 
ổ răng ngay sau phẫu thuật và chiếu tia ngoài mặt 
ba lần nữa sau phẫu thuật (vào các thời điểm 24, 48 
và 72 giờ) tại sáu điểm phân bố từ nguyên ủy đến 
bám tận cơ cắn. Kết quả nghiên cứu cho thấy không 
có sự khác biệt đáng kể trong việc giảm đau, sưng, 
hoặc khít hàm giữa nhóm điều trị laser và nhóm 
chứng. Với qui trình điều trị phức tạp như vậy, tác 
giả không công bố các thông số kỹ thuật của tia laser 
được dùng, đây có thể là yếu tố quan trọng làm ảnh 
hưởng kết quả nghiên cứu của Amarillas.
4.2.3. Về mức độ khít hàm sau phẫu thuật răng 
khôn hàm dưới lệch ngầm có hỗ trợ của laser công 
suất thấp
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, trong 
từng nhóm có sự giảm độ há miệng tối đa (p < 0,001) 
vào thời điểm ngày thứ nhất và ngày thứ hai sau 
phẫu thuật. Giảm độ há miệng tối đa ở nhóm laser 
chiếu trong và chiếu ngoài gần tương đương nhau 
và ít hơn đáng kể so với nhóm chứng. Tình trạng vận 
động hàm trở lại bình thường vào ngày thứ bảy sau 
phẫu thuật ở cả 3 nhóm nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu này của chúng tôi tương đồng 
với báo cáo của nhiều tác giả như Kazancioglu (2014) 
[7], Đoàn Thị Mỹ Chi (2014) [1]. Ngoài ra, chúng tôi 
cũng nhận thấy rằng, mục đích chính của các nghiên 
cứu được công bố gần đây chủ yếu đánh giá hiệu 
quả của sự kết hợp laser công suất thấp chiếu ngoài 
mặt và chiếu trong miệng trong việc kiểm soát đau, 
sưng và khít hàm sau khi nhổ răng khôn dưới lệch 
ngầm. Với thiết kế kết hợp, Landucci (2016) [9] đạt 
được kết quả giảm khít hàm có ý nghĩa thống kê sau 
phẫu thuật giữa nhóm chiếu laser kết hợp với nhóm 
chứng vào ngày thứ 2 và ngày thứ 7. 
Với liệu pháp chiếu tia hoặc chỉ trong miệng, 
hoặc chỉ ngoài mặt, nhiều tác giả chỉ ghi nhận được 
tình trạng có cải thiện độ há miệng tối đa ở nhóm 
thử nghiệm laser so với nhóm chứng, nhưng khác 
biệt không có ý nghĩa thống kê như Alan (2016) [3], 
Raiesian (2017) [12], Koparal (2018) [8].
4.2.3. Về chất lượng cuộc sống của bệnh nhân 
sau phẫu thuật răng khôn hàm dưới lệch ngầm 
có hỗ trợ của laser công suất thấp qua bộ câu hỏi 
OHIP-14
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy liệu pháp 
laser ảnh hưởng tích cực đến kết quả bảng câu hỏi 
OHIP-14, với những thay đổi lớn về điểm OHIP-14 
trong giai đoạn ngày thứ nhất đến ngày thứ bảy sau 
phẫu thuật. Điểm số OHIP cao nhất vào ngày thứ 
nhất sau phẫu thuật, giảm nhẹ vào ngày thứ hai và 
giảm mạnh vào ngày thứ bảy với sự khác biệt thật sự 
có ý nghĩa thống kê giữa các thời điểm với nhau, và 
nhất là giữa nhóm chiếu laser (cả chiếu ngoài mặt và 
chiếu trong miệng) so với nhóm chứng. Vào ngày thứ 
bảy sau phẫu thuật, tình trạng sức khỏe răng miệng 
của các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu gần như 
đã trở về bình thường (điểm OHIP trung bình xấp xỉ 
5,0). Về lĩnh vực đánh giá chất lượng cuộc sống của 
bệnh nhân sau phẫu thuật răng khôn hàm dưới lệch 
ngầm có hỗ trợ laser công suất thấp, hiện chúng tôi 
chưa thấy báo cáo về kết quả này trên thế giới.
5. KẾT LUẬN
5.1. Về đặc điểm lâm sàng, X quang răng khôn 
hàm dưới lệch ngầm
- Tuổi trung bình của bệnh nhân đến phẫu thuật 
răng khôn hàm dưới lệch ngầm là 28,24, trong đó 
nhóm tuổi từ 25 – 35 tuổi chiếm đa số với tỷ lệ 
62,2%. 
- Có tất cả 38 răng khôn hàm dưới bên trái 
(42,22%) và 51 răng bên phải (57,78%). Lý do đến 
khám và nhổ là chủ yếu là do khó chịu, nhét thức ăn 
(43,3%), nhổ răng dự phòng (32,2%).
- Tương quan với cành đứng xương hàm dưới 
loại II: 88,9%, tương quan loại III là 11,1%.
- Phân loại theo chiều sâu tương đối của răng 
khôn hàm dưới trong xương: vị trí B (81,1%), vị trí 
137
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
C (18,9%).
- Theo phân loại Winter có 58,9% răng khôn hàm 
dưới nằm ngang, 40% răng lệch gần, 1,1% răng lệch 
xa. So với trục răng 7 thì có 32,2% răng nghiêng < 
45º, 67,8% răng nghiêng > 45º.
- Tỉ lệ răng khôn hàm dưới gây tiêu xương răng 
kế cận (44,4%), vừa tiêu xương và sâu (16,7%), sâu 
(2,2%), 36,7% các răng chưa gây ảnh hưởng R7.
5.2. Về hiệu quả điều trị của laser công suất 
thấp trong phẫu thuật nhổ răng khôn hàm dưới 
lệch ngầm
- Đánh giá đau theo thang Likert 7, VAS: kể từ 
thời điểm 2h sau khi hết cảm giác tê môi, nhóm laser 
chiếu ngoài và chiếu trong cho hiệu quả giảm đau tốt 
hơn so với nhóm chứng, không có sự khác biệt giữa 
nhóm laser chiếu ngoài mặt và chiếu trong miệng.
- Nhóm chiếu laser sử dụng ít thuốc giảm đau 
hơn nhóm chứng.
- Đánh giá mức độ sưng mặt theo 3 chiều hướng: 
tại thời điểm T1, T2: khoảng cách D1, D2, D3 ở nhóm 
chứng cao hơn so với 2 nhóm còn lại. Không có sự 
khác biệt về khoảng cách D1, D2, D3 giữa hai nhóm 
chiếu laser; thời điểm T7: không còn khác biệt giữa 
các khoảng cách của các nhóm.
- Laser công suất thấp giúp giảm tình trạng khít 
hàm có ý nghĩa so với nhóm chứng vào ngày thứ 
nhất và thứ hai sau phẫu thuật. Tình trạng há miệng 
trở về bình thường vào ngày thứ 7 ở tất cả các nhóm.
- Đánh giá chất lượng cuộc sống theo điểm số 
OHIP14: điểm số OHIP giảm trong cả 3 nhóm theo 
thời gian: thời điểm T1 và T2: điểm số OHIP của 
nhóm chứng cao hơn so với nhóm chiếu laser ngoài 
mặt và trong miệng; thời điểm T7: điểm số OHIP của 
các nhóm không có sự khác biệt
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đoàn Thị Mỹ Chi (2014), Hiệu quả của Laser công 
suất thấp trong kiểm soát sưng đau và khít hàm sau phẫu 
thuật nhổ răng khôn hàm dưới lệch, Khóa luận tốt nghiệp 
Bác sĩ Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh, 
tr.20-27.
2. Nguyễn Đức Tịnh (2014), Nghiên cứu đặc điểm lâm 
sàng, X quang và kết quả phẫu thuật răng khôn hàm dưới 
lệch ngầm, Luận án Chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y 
Dược Huế, tr.41-68.
3. Alan H., Yolcu U., Koparal M., Ozgur C., Ozturk S. 
A., Malkoc S. (2016), Evaluation of the effects of the low-
level laser therapy on swelling, pain, and trismus after 
removal of impacted lower third molar, Head Face Med, 
12(1), pp.25.
4. Amarillas-Escobar E. D., Toranzo-Fernandez J. M., 
Martinez-Rider R., Noyola-Frias M. A., Hidalgo-Hurtado J. 
A., Serna V. M., Gordillo-Moscoso A., Pozos-Guillen A. J. 
(2010), Use of therapeutic laser after surgical removal of 
impacted lower third molars, J Oral Maxillofac Surg, 68(2), 
pp.319-24.
5. Braimah Ramat, Ibikunle Adebayo, Taiwo 
Abdurrazaq, Ndukwe Kizito, Owotade John, Aregbesola 
Stephen (2018), Pathologies associated with impacted 
mandibular third molars in sub-saharan africans, Dentistry 
and Medical Research, 6(1), pp.2-6.
6. He W. L., Yu F. Y., Li C. J., Pan J., Zhuang R., Duan P. 
J. (2015), A systematic review and meta-analysis on the 
efficacy of low-level laser therapy in the management of 
complication after mandibular third molar surgery, Lasers 
Med Sci, 30(6), pp.1779-88.
7. Kazancioglu H. O., Ezirganli S., Demirtas N. (2014), 
Comparison of the influence of ozone and laser therapies 
on pain, swelling, and trismus following impacted third-
molar surgery, Lasers Med Sci, 29(4), pp.1313-9.
8. Koparal Mahmut, Kucuk Ayse Ozcan, Alan Hilal, 
Asutay Fatih, Avci Mehmet (2018), Effects of low-level 
laser therapy following surgical extraction of the lower 
third molar with objective measurement of swelling 
using a three-dimensional system, Experimental and 
Therapeutic Medicine, 15(4), pp.3820-3826.
9. Landucci A., Wosny A. C., Uetanabaro L. C., Moro 
A., Araujo M. R. (2016), Efficacy of a single dose of low-
level laser therapy in reducing pain, swelling, and trismus 
following third molar extraction surgery, Int J Oral 
Maxillofac Surg, 45(3), pp.392-8.
10. Lopez-Ramirez M., Vilchez-Perez M. A., Gargallo-
Albiol J., Arnabat-Dominguez J., Gay-Escoda C. (2012), 
Efficacy of low-level laser therapy in the management of 
pain, facial swelling, and postoperative trismus after a 
lower third molar extraction. A preliminary study, Lasers 
Med Sci, 27(3), pp.559-66.
11. Merigo E., Vescovi P., Margalit M., Ricotti E., Stea 
S., Meleti M., Manfredi M., Fornaini C. (2015), Efficacy of 
LLLT in swelling and pain control after the extraction of 
lower impacted third molars, Laser Ther, 24(1), pp.39-46.
12. Raiesian Shahrokh, Khani Mehdi, Khiabani 
Kazem, Hemmati Ershad, Pouretezad Mohammad (2017), 
Assessment of Low-Level Laser Therapy Effects After 
Extraction of Impacted Lower Third Molar Surgery, Journal 
of Lasers in Medical Sciences, 8(1), pp.42-45.

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_ket_qua_phau_thuat_nho_rang_khon_ham_duoi_lech_ngam.pdf