Đánh giá kết quả phẫu thuật một thì lỗ tiểu lệch thấp thể sau bằng kỹ thuật Koyanagi cải tiến

 tiểu lệch thấp (LTLT) thể sau hay thể nặng là bao gồm thể gốc dương vật, thể bìu, thể tầng sinh môn. Kỹ

thuật Koyanagi là kỹ thuật phức tạp mổ 1 thì điều trị bệnh LTLT với việc niệu đạo mới là vạt có cuống tạo bởi

niêm mạc bao qui đầu và máng niệu đạo. Nghiên cứu mô tả cắt ngang 43 bệnh nhân LTLT thể sau mổ theo

phương pháp Koyanagi cải tiến tại bệnh viện Việt Đức giai đoạn từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 5 năm 2020.

Mục tiêu của nghiên cứu mô tả một cải tiến của kỹ thuật Koyanagi và đánh giá kết quả điều trị. Sự cải tiến của

kỹ thuật nhằm mục đích đơn giản cuộc mổ, tăng cường tưới máu đến niệu đạo mới. Kết quả nghiên cứu 43 bệnh

nhân LTLT thể sau tuổi từ 2 đến 7 tuổi, trong đó 21 ca thể gốc dương vật, 12 ca thể bìu, 10 ca thể tầng sinh môn.

Niệu đạo mới cần tạo dài từ 3,5 đến 7 cm, trung bình 4,6 cm. Theo dõi xa sau mổ biến chứng rò, toác niệu đạo

là 16,3%, không có trường hợp nào hẹp niệu đạo, hẹp lỗ sáo hoặc túi thừa niệu đạo. Nghiên cứu của chúng tôi

đã chỉ ra sự cải tiến này của kỹ thuật Koyanagi cho phẫu thuật 1 thì LTLT thể sau là thích hợp đem lại kết quả tốt.

pdf 9 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá kết quả phẫu thuật một thì lỗ tiểu lệch thấp thể sau bằng kỹ thuật Koyanagi cải tiến", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả phẫu thuật một thì lỗ tiểu lệch thấp thể sau bằng kỹ thuật Koyanagi cải tiến

Đánh giá kết quả phẫu thuật một thì lỗ tiểu lệch thấp thể sau bằng kỹ thuật Koyanagi cải tiến
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 21
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT MỘT THÌ LỖ TIỂU LỆCH 
THẤP THỂ SAU BẰNG KỸ THUẬT KOYANAGI CẢI TIẾN
Vũ Hồng Tuân1,2, , Nguyễn Việt Hoa², Đỗ Trường Thành1,2
1Trường Đại học Y Hà Nội
2Bệnh viện Việt Đức 
Lỗ tiểu lệch thấp (LTLT) thể sau hay thể nặng là bao gồm thể gốc dương vật, thể bìu, thể tầng sinh môn. Kỹ 
thuật Koyanagi là kỹ thuật phức tạp mổ 1 thì điều trị bệnh LTLT với việc niệu đạo mới là vạt có cuống tạo bởi 
niêm mạc bao qui đầu và máng niệu đạo. Nghiên cứu mô tả cắt ngang 43 bệnh nhân LTLT thể sau mổ theo 
phương pháp Koyanagi cải tiến tại bệnh viện Việt Đức giai đoạn từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 5 năm 2020. 
Mục tiêu của nghiên cứu mô tả một cải tiến của kỹ thuật Koyanagi và đánh giá kết quả điều trị. Sự cải tiến của 
kỹ thuật nhằm mục đích đơn giản cuộc mổ, tăng cường tưới máu đến niệu đạo mới. Kết quả nghiên cứu 43 bệnh 
nhân LTLT thể sau tuổi từ 2 đến 7 tuổi, trong đó 21 ca thể gốc dương vật, 12 ca thể bìu, 10 ca thể tầng sinh môn. 
Niệu đạo mới cần tạo dài từ 3,5 đến 7 cm, trung bình 4,6 cm. Theo dõi xa sau mổ biến chứng rò, toác niệu đạo 
là 16,3%, không có trường hợp nào hẹp niệu đạo, hẹp lỗ sáo hoặc túi thừa niệu đạo. Nghiên cứu của chúng tôi 
đã chỉ ra sự cải tiến này của kỹ thuật Koyanagi cho phẫu thuật 1 thì LTLT thể sau là thích hợp đem lại kết quả tốt. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Lỗ tiểu lệch thấp thể sau, kỹ thuật Koyanagi
Lỗ tiểu lệch thấp (Hypospadias) là một dị tật 
bẩm sinh của dương vật, lỗ tiểu nằm thấp so 
với vị trí bình thường ở đỉnh qui đầu gặp với tỉ 
lệ khoảng 1/300 trẻ trai sinh ra. Việc lựa chọn 
phương pháp phẫu thuật phụ thuộc nhiều yếu 
tố bao gồm vị trí lỗ niệu đạo, độ cong dương 
vật, kích cơ của dương vật và qui đầu, chất 
lượng máng niệu đạo và kinh nghiệm cũng như 
thói quen của phẫu thuật viên. Phẫu thuật điều 
trị lỗ tiểu thấp là một phẫu thuật khó, đòi hỏi sự 
tỉ mỹ, tính chuyên khoa cao và cũng là phẫu 
thuật dễ thất bại, mổ lại nhiều lần, tốn kém và 
ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ.1,2,3
Lỗ tiểu lệch thấp thể nặng hay thể sau bao 
gồm các trường hợp có lỗ tiểu nằm ở gốc 
dương vật, ở bìu và ở tầng sinh môn. Ở thể 
này thường có kèm theo cong dương vật và sự 
chuyển vị của bìu. Các kỹ thuật điều trị ở thể 
này có nhiều khác biệt so với thể thân dương 
vật và qui đầu do tổn thương cong dương vật 
đi kèm cũng như chất lượng máng niệu đạo.² 
Năm 1983, Koyanagi và cộng sự mô tả 
một kỹ thuật mà niệu đạo mới tạo thành bởi 
vạt có cuống kết hợp niêm mạc bao qui đầu và 
máng niệu đạo, nhưng ban đầu không được sử 
dụng rộng rãi vì tỷ lệ biến chứng cao khoảng 
50%.⁴ Kể từ đó, với nhiều thay đổi về kỹ thuật 
Koyanagi đã được giới thiệu, với kết quả phẫu 
thuật được cải thiện rõ. Khoảng năm 2010, kỹ 
thuật Koyanagi được khuyến cáo cho bệnh 
nhân với LTLT nặng gắn liền với có cong dương 
vật ở một số tài liệu tiếng Anh về tiết niệu nhi.1,2
Tác giả liên hệ: Vũ Hồng Tuân, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 13/09/2020
Ngày được chấp nhận: 20/10/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 202022
Hình 1: Kỹ thuật Koyanagi nguyên ủy.⁵
(A1,A2) đường rạch phía ngoài thực hiện 
trước, bóc da và tổ chức dưới da khỏi cân 
Dartos; (A3,A4) đường rạch phía trong thực 
hiện sau; (B) Phẫu tích lột kiểu bít tất dương vật 
khỏi lớp cân Dartos; (C) Phẫu tích máng niệu 
đạo khỏi thân dương vật để chữa cong và phẫu 
tích xẻ đôi qui đầu; (D) Xẻ ở giữa da dương 
vật để sau chuyển da che phủ kiểu Byar; (E) 
thực hiện đường khâu phía sau; (F) Thực hiện 
đường khâu phía trước; (G) Đưa niệu đạo lên 
đỉnh qui đầu, khâu lại qui đầu; (H,I) Che phủ 
niệu đạo bằng tổ chức dưới da từ dưới lên trên; 
(J) Chuyển che phủ da dương vật và chỉnh lại 
da bìu.
Tại khoa Phẫu thuật Nhi Bệnh viện Việt 
Đức, chúng tôi có sử dụng kỹ thuật Koyanagi 
cho việc sửa chữa một thì LTLT thể nặng từ 
năm 2015. Chúng tôi thực hiện một cải tiến của 
kỹ thuật Koyanagi từ năm 2018 để cuộc mổ 
được đơn giản hơn, thực hiện dễ dàng hơn và 
nhằm đạt kết quả tốt hơn. Chính vì vậy bài báo 
cáo này được thực hiện với hai mục tiêu: (1) Mô 
tả cải tiến của kỹ thuật Koyanagi tại bệnh viện 
Việt Đức; (2) Đánh giá kết quả điều trị một thì 
LTLT thể sau bằng kỹ thuật Koyanagi tại bệnh 
viện Việt Đức từ tháng 01 năm 2019 đến tháng 
5 năm 2020.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Tiêu chuẩn lựa chọn: Bệnh nhân LTLT 
thể sau được phẫu thuật 1 thì theo kỹ thuật 
Koyanagi cải tiến, thực hiện bởi cùng một nhóm 
phẫu thuật viên. 
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân LTLT thể sau 
phẫu thuật 2 thì hoặc không sử dụng kỹ thuật 
Koyanagi cải tiến.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, 
mô tả cắt ngang.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 01 năm 
2019 đến tháng 5 năm 2020.
Địa điểm nghiên cứu: Tại khoa Phẫu thuật 
Nhi và trẻ sơ sinh, Bệnh viện Việt Đức.
Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu: Phương 
pháp chọn mẫu thuận tiện áp dụng trong nghiên 
cứu này. Cỡ mẫu tuyển chọn được là 43 bệnh 
nhân.
Các chỉ tiêu nghiên cứu: Tuổi, thể bệnh (thể 
gốc dương vật, thể bìu, thể tầng sinh môn), thời 
gian mổ, độ dài niệu đạo mới cần tạo, độ cong 
dương vật, các biến chứng sớm trong thời gian 
hậu phẫu, các biến chứng xa.
Mô tả kỹ thuật: Kỹ thuật Koyanagi cải tiến 
được thực hiện như sau:
Sau khi gây mê toàn thân hoặc Caudal, sát 
khuẩn, đặt ống thông tiểu 8 - 10 Fr, kích thước 
của ống thông phụ thuộc vào sự phát triển của 
dương vật và qui đầu. 
Một đường rạch vòng tròn đã được thực 
hiện cách 5 mm gần đến rãnh vành qui đầu, 
và sau đó bao quy đầu và dương vật da được 
phẫu tích lột hoàn toàn đến gốc dương vật giữa 
cân Buck và cân Dartos. Máng niệu đạo được 
tách khỏi thân của dương vật và cắt xơ ở bụng 
dương vật để sửa cong (Hình 2).
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 23
Hình 2. Giải phóng dựng thẳng dương vật
Kiểm tra độ cong của dương vật bằng cách 
Garo và gây cương dương vật chủ động. Nếu 
dương vật còn con có thể sửa bằng cách khâu 
gấp lưng dương vật bằng thủ thuật Baskin. 
Tạo đường hầm ở qui đầu, phẫu tích đủ để 
que nong Herga số 6 đi qua dễ dàng (Hình 3).
Hình 3. Tạo đường hầm qui đầu
Rạch một đường ở chính giữa da bao qui 
đầu, xẻ dọc đến chỗ dự kiến giữ lại phủ dương 
vật, chuyển 2 vạt về phía bụng dương vật.
Hình 4. Xẻ dọc bao qui đầu ở giữa, đưa 2 cánh bao qui đầu ra trước
Thực hiện trước đường khâu mặt sau niệu 
đạo (như trong các tạo máng niệu đạo). Sử 
dụng các mũi khâu chữ U để ép 2 mặt niệu 
đạo vào nhau theo lớp. Cố định một vài mũi 
niệu đạo vào cân trắng dương vật (Hình 5).
Hình 5. Đường khâu niệu đạo mặt sau
Vẽ đường rạch ngoại, mỗi bên thường 
cách đường khâu sau từ 0,5 - 0,8 cm. Khâu 
từ đoạn một từ dưới lên trên, đoạn trên cùng 
thường khâu mũi rời (Hình 6).
Hình 6. Đường khâu niệu đạo mặt trước
Đưa lỗ niệu đạo mới lên đỉnh qui đầu qua 
đường hầm qui đầu đã tạo.
Một vạt có cuống từ dưới bìu lên che phủ 
là tổ chức dưới da hoặc cân cơ Dartos của bìu 
được khâu vào cân bụng của dương vật bằng 
mũi khâu rời. Bằng cách đó niệu đạo mới được 
phủ bảo vệ thêm một lớp nuôi dưỡng (Hình 7).
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 202024
Hình 7. Chuyển vạt từ bìu lên che phủ niệu 
đạo
Chuyển da che phủ, có thể chuyển da bìu 
che phủ nếu thiếu (Hình 8). Trường hợp nào có 
chuyển vị của bìu thì xử lý luôn 1 thì.
Hình 8. Chuyển da bìu che phủ
Sau khi phẫu thuật, băng ép được sử dụng 
để che vết thương trong ít nhất 5 - 7 ngày.
III. KẾT QUẢ
Tổng số có 43 bệnh nhân với LTLT thể sau 
mổ với kỹ thuật Koyanagi cải tiến Tuổi của bệnh 
nhân tại thời điểm phẫu thuật thấp nhất là 23 
tháng đến lớn nhất là 7 tuổi, với tuổi trung bình 
là 3,3 năm. Tuổi bệnh nhân khi mổ nhỏ hơn 5 
tuổi chiếm 90,7%.
Phân loại theo vị trí của lỗ niệu đạo sau khi 
phẫu tích giải phóng, cắt xơ: 21 trường hợp 
thể gốc dương vật (48,8%), 12 trường hợp thể 
bìu (27,9%), 10 trường hợp thể tầng sinh môn 
(23,3%). 
Trước phẫu tích tất cả đều có hiện tượng 
cong dương vật từ 25 - 43o, sau khi cắt máng 
niệu đạo và giải phóng dương vật kiểu lột bít 
tất để loại trừ các nguyên nhân gây cong do da 
và xơ ở bụng dương vật thì có 12 trường hợp 
(27,9%) có cong dương vật 20 - 37o được chỉnh 
cong bằng kỹ thuật Baskin. 
Thời gian mổ dao động từ 120 phút đến 150 
phút, trung bình là 130 phút. Đoạn niệu đạo cần 
tạo mới từ 3,5 cm đến 7 cm, trung bình là 4,6 
cm. Tất cả các trường hợp đều đưa niệu đạo 
nên đỉnh dương vật qua đường hầm qui đầu.
Có 17 trường hợp (39,5%) phải chuyển da 
bìu che phủ dương vật.
Bảng 1. Biến chứng trong thời gian
hậu phẫu
Biến chứng
Số bệnh 
nhân
Tỷ lệ 
(%)
Chảy máu 4 9,3
Nhiễm trùng vết mổ 1 2,3
Phù nề dương vật 3 7,0
Hoại tử da che phủ 1 2,3
Tắc hoặc tụt ống 
thông tiểu 3 7,0
Tổng 12 27,9%
Có 4 trường hợp xuất hiện chảy máu sau 
mổ, do chảy từ mép da vùng bìu, được băng ép 
lại bệnh nhân ổn định, 3 trường hợp ống thông 
tiểu bị tắc và tụt sau mổ ở ngày thứ 3 đến ngày 
thứ 6, được đặt lại dễ dàng. Các trường hợp 
này đều chủ động lưu ống thông tiểu 15 ngày. 
Trường hợp hoại tử da che phủ vùng bụng 
dương vật do nhiễm trùng sau mổ, có cấy dịch 
vết mổ ra E.coli, xét nghiệm nước tiểu và cấy 
đầu ống thông khi rút ống thông tiểu thì bình 
thường, xử lý bằng thay băng, bệnh nhân bị 
toác niệu đạo sớm sau mổ.
Thời gian lưu ống thông tiểu là từ 12-15 
ngày. Tất cả bênh nhân đều được điều trị kháng 
sinh đường tĩnh mạch sau mổ. Thời gian theo 
dõi sau mổ ngắn nhất 2 tháng và dài nhất là 19 
tháng.
Biến chứng rò niệu đạo và toác niệu đạo là 
16,3% (Bảng 2).
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 25
Bảng 2. Biến chứng xa sau mổ
Biến chứng xa
Số bệnh 
nhân
Tỷ lệ 
(%)
Rò niệu đạo 5 11,6
Toác niệu đạo 2 4,7
Hẹp niệu đạo 0 0
Hẹp lỗ Méat (lỗ sáo) 0 0
Dương vật xoay trục 0 0
Túi phình niệu đạo 0 0
Lún dương vật 0 0
Tổng 7 16,3
IV. BÀN LUẬN
Trong y văn tổng kết có khoảng hơn 300 
phương pháp mổ lỗ tiểu lệch thấp, điều này 
nói lên sự khó khăn của loại phẫu thuật này.1,2,3 
Tuy nhiên dù là chọn phương pháp mổ nào 
thì cũng phải đảm bảo 3 mục tiêu của LTLT là: 
chữa cong dương vật, tạo hình niệu đạo mới 
và chuyển da che phủ dương vật – bìu để đạt 
thẩm mỹ tốt nhất. Tuổi mổ thì nhiều tác giả trên 
thế giới cho rằng mổ lỗ tiểu thấp từ 6 tháng 
đến 18 tháng là tốt vì lúc này dương vật đạt 
kích thước đủ để mổ, trẻ sẽ đỡ các vấn đề tâm 
lý hơn sau này.³ Ở Việt Nam, các tác giả vẫn 
chọn mổ lứa tuổi từ 2 đến 4 tuổi vì cho rằng 
ngoài vấn đề về kích thước dương vật còn ở 
lứa tuổi này đứa trẻ sẽ hợp tác hơn sau mổ.⁶ 
Trong nghiên cứu, với độ tuổi mổ trước 5 tuổi 
chiếm 90,6% và lứa tuổi trung bình của chúng 
tôi là 3,3 tuổi. Rõ ràng đối với thể nặng ở tuổi 
này là độ tuổi trẻ chưa đến trường thì sẽ tốt cho 
tâm lý trẻ sau này. 
LTLT thể nặng vẫn là một thách thức cho 
các bác sỹ ngoại tiết niệu nhi và vẫn còn nhiều 
bất đồng về phương pháp phẫu thuật lý tưởng 
cho bệnh, đặc biệt là phẫu thuật một thì. Các 
báo cáo đều chỉ ra rằng kết quả cuối cùng cần 
đạt được là phải tốt về hình thái và chức năng 
niệu đạo. Khó khăn trong mổ thể nặng một thì 
đó là phải có vật liệu tạo niệu đạo mới đủ dài, 
cần chỉnh sửa cong dương vật, thời gian mổ 
kéo dài, nguy cơ chảy máu trong mổ làm ảnh 
hưởng đến thời gian mổ, nhiều biến chứng 
sớm và xa sau mổ. Trước đây, thì tỷ lệ phẫu 
thuật 1 thì thành công là khoảng 50 - 70%.1,2 
Trong nghiên cứu, chúng tôi chỉnh cong 27,9% 
các trường hợp với kỹ thuật Baskin do bệnh 
nhân có cong từ 20o đến 37o tương đương như 
trong nghiên cứu của Phạm Ngọc Thạch.⁷ 
Để đánh giá kết quả điều trị lỗ tiểu thấp, 
các tác giả thường đề cập đến tỉ lệ các biến 
chứng sau mổ, trong đó rò niệu đạo hay gặp. Tỉ 
lệ biến chứng chung của nghiên cứu chúng tôi 
là 16,3% với rò niệu đạo sau mổ chỉ là 11,6%, 
toác niệu đạo là 4,7%, không ghi nhận trường 
hợp nào bị hẹp niệu đạo, hẹp lỗ sáo, túi phình 
niệu đạo. Theo các nghiên cứu trong nước 
điều trị LTLT cùng thể bệnh có các nghiên cứu 
Nguyễn Danh Tình và Nguyễn Thanh Liêm 
(2001) đã sử dụng phương pháp Duckette 
mổ 114 bệnh nhân lỗ tiểu thấp thể bìu và tầng 
sinh môn từ 1995 - 2000 có tỉ lệ biến chứng 
là 21,8%.⁸ Theo Trần Ngọc Bích⁹ nghiên cứu 
sử dụng vạt niêm mạc bao qui đầu tự do cho 
các thể lỗ tiểu lệch thấp từ năm 2000 đến năm 
2009 trên 300 bệnh nhân thì thấy LĐLT thể 
dương vật có kết quả tốt 88,6% (187/ 211 BN), 
rò niệu đạo 9,5% (20/211 BN) và hẹp miệng nối 
niệu đạo 1,9% (4/211). LĐLT thể bìu - đáy chậu 
có kết quả tốt 86,5% (77/89 BN), rò niệu đạo 
10,1% (9/89 BN), hẹp niệu đạo 3,4% (3/89 BN), 
tỷ lệ biến chứng cho thể nặng là khoảng 13,5%. 
Cũng theo Trần Ngọc Bích10 năm 2013 nghiên 
cứu 42 bệnh nhân LTLT thể bìu và đáy chậu 
mổ theo phương pháp 2 thì có tỷ lệ thành công 
82,9%, biến chứng rò và hẹp niệu đạo sau mổ 
là 17,1%. Theo Phạm Ngọc Thạch và cộng sự⁷ 
nghiên cứu 231 bệnh nhân LTLT thể giữa và 
sau với kỹ thuật sử dụng là kỹ thuật Snodgrass 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 202026
và Duckette với tỷ lệ biến chứng là 41,5%. Rõ 
ràng kết quả điều trị của chúng tôi là tốt.
Vào những năm đầu 1980, Koyanagi và 
cộng sự⁴ đã mô tả một phương pháp sử dụng 
vạt da phối hợp niêm mạc bao qui đầu và máng 
niệu đạo có cuống mạch để điều trị một thì LTLT 
thể nặng. Tuy nhiên kỹ thuật đã không được 
ứng dụng rỗng rãi do tỷ lệ biến chứng cao 47% 
trong báo cáo của Koyanagi. Dù vậy, kỹ thuật 
có một số ưu điểm:
- Không phải làm miệng nối giữa niệu đạo 
mới và lỗ niệu đạo nguyên ủy, giảm nguy cơ 
hẹp miệng nối. Trong nghiên cứu có 3 trường 
hợp tụt tắc ống thông sau mổ (7%), chúng tôi 
dặt lại dễ dàng nhờ ưu điểm này.
- Giảm thiểu đáng kể tỷ lệ hẹp niệu đạo. 
Không ghi nhân trường hẹp niệu đạo sau mổ 
trong nghiên cứu.
- Đảm bảo vật liệu tạo niệu đạo đủ dài để 
tạo niệu đạo mới. Trong nghiên cứu đoạn niệu 
đạo tạo trung bình khoảng 4,6 cm, trường hợp 
dài nhất là 7 cm.
- Việc chuyển tạo hình lại vị trí bìu có thể 
thực hiện trong cùng một thì, làm hình thái 
dương vật thẩm mỹ hơn. Trong nghiên cứu có 
39,5% các trường hợp cần chuyển da bìu lên 
che phủ dương vật.
Mặc dù Nonomura và cộng sự11 đã cho thấy 
vạt có đủ vi tuần hoàn cung cấp máu, tuy nhiên 
biến chứng vẫn cao do cấp máu kém. Bảng 3 
dưới đây chỉ ra tỷ lệ biến chứng khi dùng kỹ 
thuật Koyanagi nguyên thủy trong các báo cáo.
Bảng 3. Biến chứng khi dùng kỹ thuật Koyanagi trong các báo cáo
Năm 
công 
bố
Tác giả
Số 
lượng 
bệnh 
nhân
Biến chứng (%)
Rò niệu 
đạo
Hẹp 
Méat
Hẹp 
niệu 
đạo
Cong 
dương 
vật
Biến 
chứng 
khác
Tổng
1994 Koyanagi⁵ 70 21,4 17,1 8,6 0 0 47,1
1996 Hayashi12 17 17,7 17,7 0 11,8 0 47,1
1998 Glassberg13 14 50 0 0 0 0 50
2008 Catti14 26 19,2 15,4 19,2 38,5 26,9 61,5
Có nhiều cải tiến trên thế giới cho kỹ thuật 
Koyanagi như Snow và Cartwright15 báo cáo 
một sự thay đổi kỹ thuật Koyanagi làm cải thiện 
đáng kể lượng máu nuôi dưỡng vạt gọi là kỹ 
thuật Yoke, mặc dù vẫn có tỷ lệ biến chứng 
50% (2/4 trường hợp). Năm 2001, Hayashi và 
các cộng sự16 đã mô tả một sự thay đổi tương 
tự để bảo đảm tuần hoàn cho vạt niệu đạo mới, 
đạt tỷ lệ biến chứng chấp nhận được là 30% 
(6/20 trường hợp), bao gồm tỷ lệ 15% 3/20 
trường hợp) hẹp lỗ Méat. Kỹ thuật này nhiều 
tác giả sử dụng. Emir17 đã chứng minh một 
thay đổi khác của kỹ thuật Koyanagi bảo vệ 
cung cấp máu, tương tự như các điều chỉnh 
khác, và họ nhấn mạnh rằng một sự nối liền 
mạch giữa lưng dương vật và niệu đạo mới 
và dùng ống tiểu đủ lớn (20 Fr) để giảm nguy 
cơ hẹp lỗ sáo, dẫn đến tỷ lệ thành công ban 
đầu là 80% (16/20 trường hợp). Sugita và cộng 
sự18 cũng thực hiện 151 trường hợp bị LTLT 
thể nặng với kỹ thuật Koyanagi cải tiến với kết 
quả xuất sắc với tỷ lệ biến chứng chỉ 15,9% 
(24/151 trường hợp). Bảng 4 dưới đây cho 
thấy các biến chứng trong việc sử dụng các 
kỹ thuật cải tiến Koyanagi như được báo cáo 
trong tài liệu.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 27
Bảng 4. Biến chứng khi dùng kỹ thuật Koyanagi cải tiến trong các báo cáo
Năm 
công bố
Tác giả
Số 
lượng 
bệnh 
nhân
Biến chứng (%)
Rò niệu 
đạo
Hẹp 
Méat
Hẹp 
niệu 
đạo
Cong 
dương 
vật
Biến 
chứng 
khác
Tổng
1994 Snow và Cartwright15 4 50 0 0 0 0 50
2000 Emir17 20 20 0 0 0 0 20
2001 Hayashi16 20 15 15 0 0 0 30
2001 Sugita18 151 12,6 2,0 0 1,3 0 15,9
2010* Nerli19 14 21,4 7,1 0 7,1 0 35,7
*: Là thực hiện kỹ thuật Koyanagi cải tiến theo Hayashi 2001
Trong nghiên cứu này của chúng tôi với biến 
chứng rò và toác niệu đạo là 16,3%, không có 
trường hợp nào hẹp niệu đạo là rất lý tưởng, 
tuy nhiên thời gian nghiên cứu chưa dài nên 
chúng tôi cũng cần thêm những báo cáo sau 
với cỡ mẫu lớn hơn, thời gian dài hơn để đánh 
giá hiệu quả của phương pháp. Những cải tiến 
được đúc rút ra để phẫu thuật đạt kết quả tốt 
hơn đó là: 
(1) Sau khi thực hiên cắt xơ hoàn toàn, tấm 
niệu đạo được tái tạo bằng 2 vạt có cuống 2 
bên gồm niêm mạc bao qui đầu và máng niệu 
đạo, việc xẻ qui đầu ở chính giữa sau đó thực 
hiện trước đường khâu mặt sau như trong kỹ 
thuật làm máng niệu đạo làm cho phẫu thuật dễ 
dàng hơn, nuôi dưỡng vạt niệu đạo tốt.
(2) Phẫu tích khâu từng phần của mặt trước, 
rạch đến đâu khâu đến đó làm cuộc mổ nhẹ 
nhàng hơn, tấm niệu đạo không bị co, không bị 
biến chứng túi thừa niệu đao và sự nuôi máu 
cho cả da dương vật và niệu đạo mới đều tốt.
(3) Tạo đường hầm qua qui đầu cần rộng 
dãi, ít nhất rộng từ que nong số 6 trở lên. Que 
nong Herga số 6 tương đương với ống thông 
20Fr làm giảm nguy cơ hẹp lỗ sáo sau mổ. 
Trong nghiên cứu chúng tôi không gặp trường 
hợp nào hẹp lố sáo niệu đạo.
(4) Tấm phủ niệu đạo lấy từ tổ chức dưới 
da bùi hoặc từ cơ Dartos 1 bên hoặc 2 bên làm 
cung cấp nuôi dưỡng cho niệu đạo mới, che 
được đường khâu ở phía trước, làm giảm đáng 
kể nguy cơ lỗ thủng niệu đạo, đồng thời làm 
cho việc chuyển da che phủ dương vật an toàn 
hơn. 
(5) Việc chuyển vạt da bìu là cần thiết để 
giảm nguy cơ thiếu da dương vật. Trong nghiên 
cứu có 39,5% các trường hợp cần chuyển da 
bìu lên che phủ dương vật.
V. KẾT LUẬN
Tại bệnh viện Việt Đức, chúng tôi đã áp 
dụng thành công một kỹ thuật Koyanagi cải tiến 
cho mổ LTLT thể sau. Với cải tiến của kỹ thuật 
này làm cuộc mổ đơn giản hơn và cung cấp 
máu cho vạt niệu đạo tốt hơn, giảm các biến 
chứng sau mổ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hadidi AT. History of hypospadias: Lost in 
translation. J Pediatr Surg. 2017; 52(2):211 - 217.
2. Pierre D.E. Mouriquand, Delphine Demède, 
Daniela Gorduza, Mure PY. Hypospadias. 
chapter 41, page 526 – 543, Pediatric urology 
(2sd edition) 2010; 2010.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 202028
3. Baskin LS, Ebbers MB. Hypospadias: 
anatomy, etiology, and technique. J Pediatr Surg. 
2006; 41(3): 463 - 472.
4. Koyanagi T, Matsuno T, Nonomura K, 
Sakakibara N. Complete repair of severe 
penoscrotal hypospadias in 1 stage: experience 
with urethral mobilization, wing flap-flipping 
urethroplasty and "glanulomeatoplasty". J Urol. 
1983; 130(6): 1150 - 1154.
5. Koyanagi T, Nonomura K, Kakizaki H, 
Takeuchi I, Yamashita T. Experience with one-
stage repair of severe proximal hypospadias: 
operative technique and results. Eur Urol. 1993; 
24(1): 106 - 110.
6. Trần Ngọc Bích. Bệnh lỗ tiểu lệch thấp. Hà 
Nội: NXB Y học; 2007.
7. Phạm Ngọc Thạch, Phan Tấn Đức, Hồ 
Minh Nguyệt, Nguyễn Đình Thái, Nguyễn Lê 
Yên. Kết quả điều trị lỗ tiểu lệch thấp thể giữa và 
thể sau theo 4 phương pháp khác nhau. Tạp chí 
Y học Thành phố Hồ Chí Minh. 2015; tâp 19 (phụ 
bản số 5):144-149.
8. Nguyễn Danh Tình, Nguyễn Thanh Liêm. 
Kết quả điều trị lỗ tiểu lệch thấp thể bìu và tầng 
sinh môn (2000 - 2004),. Tạp chí Y học Việt Nam. 
2005; 313 (số đặc biệt): 806 - 809.
9. Trần Ngọc Bích. Phẫu thuật một thì chữa 
lỗ tiểu lệch thấp dùng mảnh ghép niêm mạc bao 
qui đầu tự do tao niệu đạo (kinh nghiệm cá nhân 
trên 300 bệnh nhân). Tạp chí Y học Thành phố 
Hồ Chí Minh 2009; tập 13 (phụ bản số 6): 158 - 
163.
10. Trần Ngọc Bích. Chỉ định và kỹ thuật mổ 
lỗ đái lệch thấp bằng phẫu thuật hai thì (kinh 
nghiệm ở 42 bệnh nhân). Tạp chí Y học Việt 
Nam. 2013; 403(số đặc biệt): 487 - 492.
11. Nonomura K, Koyanagi T, Imanaka K, 
Asano Y. Measurement of blood flow in the 
parameatal foreskin flap for urethroplasty in 
hypospadias repair. Eur Urol. 1992; 21(2): 155-
159.
12. Hayashi Y, Sasaki S, Mogami T, Yamada 
Y, Tsugaya M, Kohri K. [One-stage urethroplasty 
with the modified OUPF IV for proximal 
hypospadias]. Nihon Hinyokika Gakkai Zasshi. 
1996; 87(1): 56 - 60.
13. Glassberg KI, Hansbrough F, Horowitz 
M. The Koyanagi-Nonomura 1-stage bucket 
repair of severe hypospadias with and without 
penoscrotal transposition. J Urol. 1998; 160(3 Pt 
2): 1104 - 1107; discussion 1137.
14. Catti M, Demede D, Valmalle AF, Mure 
PY, Hameury F, Mouriquand P. Management of 
severe hypospadias. Indian J Urol. 2008; 24(2): 
233 - 240.
15. Snow BW, Cartwright PC. Yoke 
hypospadias repair. J Pediatr Surg. 1994; 29(4): 
557 - 560.
16. Hayashi Y, Kojima Y, Mizuno K, Nakane 
A, Kohri K. The modified Koyanagi repair for 
severe proximal hypospadias. BJU Int. 2001; 
87(3): 235 - 238.
17. Emir H, Jayanthi VR, Nitahara K, 
Danismend N, Koff SA. Modification of the 
Koyanagi technique for the single stage repair of 
proximal hypospadias. J Urol. 2000; 164(3 Pt 2): 
973 - 975; discussion 976.
18. Sugita Y, Tanikaze S, Yoshino K, 
Yamamichi F. Severe hypospadias repair with 
meatal based paracoronal skin flap: the modified 
Koyanagi repair. J Urol. 2001; 166(3): 1051 - 
1053.
19. Nerli R, Santhoshi P, Guntaka A, Patil S, 
Hiremath M. Modified Koyanagi's procedure for 
proximal hypospadias: our experience. Int J Urol. 
2010; 17(3): 294 - 296.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 132 (8) - 2020 29
Summary
TO EVALUATE THE RESULT OF THE MODIFIED KOYANAGI 
TECHNIQUE OF THE ONE-STAGE REPAIR PROXIMAL 
HYPOSPADIAS: EXPERIENCE 43 CASES
Proximal hypospadias includes penoscrotal, scrotal and perineal types. The Koyanagi technique 
is a first-stage surgical complex technique to treat hypospadias which used parameatal-based flaps 
that extend distally around the distal shaft to incorporate the inner layer of the prepuce. This is a cross 
- sectional descriptive study of 43 proximal hypospadias repairs by our modification of the Koyanagi 
technique. The objective of the study is to describe our modified technique and evaluate the treatment 
outcomes. Our modified technique aims to simplify the operation, preserves blood supply to the flaps 
to reduce complications and improves results. Surgery was performed on 43 patients with proximal 
hypospadias aged from 2 to 7 years old. There are 21 penoscrotal, 12 scrotal and 10 perineal. The length 
of the neourethra ranged from 3.5 to 7 cm (mean = 4.6 cm). Complications of fistula, urethral enlargement 
were 16.3%. There was no reported urethral strictures, meatal stenosis, or urethral diverticula. Our 
modified Koyanagi technique is highly suitable for the one-stage repair of severe hypospadias. 
Key words: Severe proximal hypospadias, Koyanagi technique

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_ket_qua_phau_thuat_mot_thi_lo_tieu_lech_thap_the_sa.pdf