Đánh giá kết quả nội soi tán sỏi qua đường hầm kehr bằng điện thủy lực điều trị sót sỏi sau phẫu thuật nội soi sỏi đường mật mổ lại
Mục tiêu: Mô tả tổn thương đường mật và đánh giá kết quả điều trị nội soi tán qua đường
hầm Kehr bằng điện thủy lực điều trị sót sỏi sau phẫu thuật nội soi sỏi đường mật mổ lại.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả theo dõi dọc không đối chứng trên
72 bệnh nhân (BN) được phẫu thuật nội soi (PTNS) điều trị sỏi đường mật mổ lại. Kết quả:
Sau mổ, có 40 BN quay lại tán sỏi qua đường hầm Kehr điều trị sót sỏi; viêm chít hẹp đường
mật chiếm 57,5%; chít hẹp ở đường mật trong gan 60,87%; tỷ lệ sạch sỏi đạt 97,50%; số lần
tán sỏi trung bình là 1,58 ± 0,87 lần; thời gian tán sỏi trung bình trong một lần: 56,42 ± 21,16 phút.
Không có tử vong và biến chứng nặng trong nhóm nghiên cứu. Kết luận: Số lần tán sỏi cũng
như thời gian tán sỏi giảm đáng kể trong nội soi tán sỏi qua đường hầm Kehr bằng điện thủy
lực sau phẫu thuật nội soi điều trị sỏi đường mật mổ lại.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả nội soi tán sỏi qua đường hầm kehr bằng điện thủy lực điều trị sót sỏi sau phẫu thuật nội soi sỏi đường mật mổ lại
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 63 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NỘI SOI TÁN SỎI QUA ĐƯỜNG HẦM KEHR BẰNG ĐIỆN THỦY LỰC ĐIỀU TRỊ SÓT SỎI SAU PHẪU THUẬT NỘI SOI SỎI ĐƯỜNG MẬT MỔ LẠI Nguyễn Quang Nam1, Bùi Tuấn Anh1, Lê Trung Hải1 TÓM TẮT Mục tiêu: Mô tả tổn thương đường mật và đánh giá kết quả điều trị nội soi tán qua đường hầm Kehr bằng điện thủy lực điều trị sót sỏi sau phẫu thuật nội soi sỏi đường mật mổ lại. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả theo dõi dọc không đối chứng trên 72 bệnh nhân (BN) được phẫu thuật nội soi (PTNS) điều trị sỏi đường mật mổ lại. Kết quả: Sau mổ, có 40 BN quay lại tán sỏi qua đường hầm Kehr điều trị sót sỏi; viêm chít hẹp đường mật chiếm 57,5%; chít hẹp ở đường mật trong gan 60,87%; tỷ lệ sạch sỏi đạt 97,50%; số lần tán sỏi trung bình là 1,58 ± 0,87 lần; thời gian tán sỏi trung bình trong một lần: 56,42 ± 21,16 phút. Không có tử vong và biến chứng nặng trong nhóm nghiên cứu. Kết luận: Số lần tán sỏi cũng như thời gian tán sỏi giảm đáng kể trong nội soi tán sỏi qua đường hầm Kehr bằng điện thủy lực sau phẫu thuật nội soi điều trị sỏi đường mật mổ lại. * Từ khóa: Nội soi tán sỏi qua đường hầm Kehr; Điện thủy lực. Results of Endoscopy Through Tunnel Tube T by Electrohydraulic Lithotripsy in the Treatment of Remnant Stones after Laparoscopic of Biliary Stones with Previous Surgery Summary Objectives: To assess results of endoscopy through tunnel of T tube by electrohydraulic lithotripsy after laparoscopic in the treatment of billary stones with previous surgery. Subjects and methods: Prospective study on 72 patients having laparoscopic bile duct stones remove stones with previous surgery. Results: 40 patients returned to endoscopy through tunnel T tube lithotripsy; biliary stenosis accounts for 57.5%; stenosis intrahepatic bile ducts 60.87%; The rate of gravel clean is 97.50%; Averaged times of percutaneous transhepatic lithotripsy: 1.58 ± 0.87; The average time of percutaneous transhepatic lithotripsy: 56.42 ± 21.16 minutes. There were no deaths and serious complications in the study group. Conclusion: Laparoscopy in the treatment of billary stones with previous surgery has significantly reduced the number of times lithotripsy as well as time in endoscopy through tunnel T tube by electrohydraulic lithotripsy. * Keywords: Endoscopy through tunnel tube T lithotripsy; Electrohydraulic. 1Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y Người phản hồi: Nguyễn Quang Nam ([email protected]) Ngày nhận bài: 14/10/2020 Ngày bài báo được đăng: 08/12/2020 T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 64 ĐẶT VẤN ĐỀ Sỏi đường mật là một bệnh lý hay gặp ở nước ta. Hiện nay, nhiều phương pháp chẩn đoán và điều trị hiện đại được áp dụng để góp phần cải thiện đáng kể kết quả điều trị sỏi đường mật. Tuy nhiên, tỷ lệ sót sỏi sau mổ và sỏi tái phát vẫn còn khá cao, đặc biệt là đối với những trường hợp sỏi trong gan gây nên những biến chứng như tổn thương đường mật, viêm chít hẹp đường mật, tạo nên bệnh cảnh lâm sàng đa dạng và khó khăn trong điều trị. Những năm gần đây, sỏi sót được giải quyết phần lớn nhờ nội soi đường mật và các kỹ thuật tán sỏi mật. Kỹ thuật điều trị sót sỏi sau mổ bằng phương pháp tán sỏi qua đường hầm Kehr được áp dụng ngày càng phổ biến và mang lại hiệu quả cao, đây là phương pháp can thiệp ít xâm hại mang lại nhiều kết quả tốt. Đó là lý do chúng tôi thực hiện đề tài nhằm: Mô tả một số đặc điểm tổn thương đường mật và kết quả nội soi tán qua đường hầm Kehr bằng điện thủy lực điều trị sót sỏi sau PTNS sỏi đường mật mổ lại tại Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu 40 BN sót sỏi sau PTNS sỏi đường mật mổ lại được nội soi tán sỏi bằng điện thủy lực qua đường hầm Kehr tại Trung tâm Phẫu thuật Tiêu hóa, Bệnh viện Quân y 103 từ tháng 6/2013 - 4/2016. 2. Phương pháp nghiên cứu * Các máy móc và trang thiết bị phục vụ nghiên cứu: - Máy siêu âm Aloka SSD 2000 (Nhật Bản), đầu dò hình quạt 3,5 Mhz. - Ống soi mềm đường mật CHF - P20 (hãng Olympus). - Máy nội soi đường mật và nguồn tán sỏi điện thủy lực EL27 - Compact. - Bộ dụng cụ nong chít hẹp đường mật và dụng cụ lấy sỏi khác. * Phương pháp nội soi tán sỏi mật qua đường hầm Kehr: - Sau mổ đặt Kehr ống mật chủ 3 - 5 tuần, khi đường hầm Kehr đã tạo lập chắc chắn, tiến hành nội soi theo đường hầm này vào ống mật và tán sỏi bằng điện thủy lực. - Các kỹ thuật phối hợp: bơm rửa đường mật, nong chít hẹp đường mật. - Thống kê các chỉ số: khả năng tiếp cận sỏi của ống soi, thời gian và số lần tán sỏi. * Đặc điểm tổn thương đường mật: - Tỷ lệ chít hẹp đường mật; vị trí chít hẹp theo đường dẫn mật; phân bố vị trí chít hẹp; mức độ chít hẹp đường mật. * Đánh giá kết quả điều trị: - Tỷ lệ hết sỏi: Dựa trên X-quang đường mật, siêu âm và nội soi đường mật trong quá trình tán sỏi. - Tỷ lệ sót sỏi. - Nguyên nhân còn sỏi. * Chúng tôi xin áp dụng theo khái niệm về hẹp đường mật của tác giả Bùi Tuấn Anh [8] như sau: - Hẹp đường mật là sự thu giảm khẩu kính tại một vị trí ống mật so với phần ống mật kế cận phía trên và phía dưới, nhỏ hơn đường kính 4,9 mm của máy soi. - Hẹp nhẹ là đường kính chỗ hẹp gần bằng đường kính ống soi, đưa được ống soi qua nhưng khó khăn. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 65 - Hẹp nặng là đường kính chỗ hẹp nhỏ hơn nhiều so với ống soi, không thể đưa được ống soi qua. - Hẹp đường mật vùng Oddi là khi đã dùng thuốc chống co thắt, vẫn không đưa được ống soi qua. * Xử lý số liệu: Chương trình Epi.Info. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 1. Đặc điểm lâm sàng 40 BN được PTNS điều trị sỏi đường mật mổ lại, sau mổ BN sót sỏi chủ động và được hẹn quay lại tán sỏi qua đường hầm Kehr bằng điện thủy lực. 2. Các đặc điểm tổn thương đường mật thường gặp * Chít hẹp đường mật: Bảng 1: Tỷ lệ chít hẹp đường mật. Hình thái tổn thương Số BN Tỷ lệ (%) Có chít hẹp đường mật 23 57,5 Không chít hẹp đường mật 17 42,5 Tổng 40 100,0 Trong 40 BN tán sỏi qua đường hầm Kehr, tỷ lệ hẹp đường mật là 23/40 BN (57,50%). Theo Đặng Tâm thông báo tỷ lệ chít hẹp nặng là 44,03% [1]; Trần Đình Thơ gặp 42,1% [3]; Võ Văn Hùng và CS (2014): tỷ lệ hẹp đường mật là 31,4% [2]. * Vị trí chít hẹp theo đường dẫn mật: Bảng 2: Vị trí chít hẹp theo đường dẫn mật. Vị trí chít hẹp Số BN Tỷ lệ (%) Trong gan 14 60,87 Ngoài gan 6 26,09 Trong và ngoài gan 3 13,04 Tổng 23 100,00 Trong 23 BN có chít hẹp đường mật, chủ yếu gặp chít hẹp ở đường mật trong gan (60,87%), hẹp đường mật ngoài gan chỉ có 26,09%. Trong nhóm nghiên cứu, 3 trường hợp hẹp đường mật phối hợp ở 2 vị trí trong và ngoài gan chiếm 13,04%. Theo Trần Đình Thơ [3], tỷ lệ gặp chít hẹp trong gan chiếm ưu thế tới 95,65%; Đặng Tâm gặp chít hẹp trong gan là 91,74% [2]; Đỗ Trọng Hải (2005): Hẹp đường mật trong gan là 21,3% [4]. Hẹp đường mật có thể là hậu quả của quá trình viêm nhiễm xơ hóa kéo dài do sỏi mật gây nên và là nguyên nhân gây ứ đọng mật và tái phát sỏi. Tình trạng hẹp còn làm ứ mật kéo dài, gây ra hậu quả xơ gan mật thứ phát. * Phân bố số vị trí hẹp: Bảng 3: Phân bố số vị trí hẹp. Số lượng vị trí chít hẹp Số BN Tỷ lệ (%) 1 16 69,57 2 4 17,39 3 2 8,69 > 3 1 4,35 Tổng 23 100,00 Trong số 23 trường hợp chít hẹp đường mật có 16 trường hợp (69,57%) có 1 vị trí chít hẹp; 4 trường hợp (17,39%) có 2 vị trí chít hẹp; 2 trường hợp (8,69%) có 3 vị trí chít hẹp và 1 trường hợp hẹp > 3 vị trí. Tóm lại, chít hẹp đường mật là một trong những biến chứng của sỏi mật và là nguyên nhân gây khó khăn trong điều trị sỏi mật như sót sỏi hay sỏi tái phát (đặc biệt là sỏi trong gan). Như vậy, chít hẹp ống mật là một tổn thương rất thường gặp trong sỏi đường mật. Nó vừa là hậu quả của sỏi, của viêm T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 66 đường dẫn mật tái diễn, kéo dài, lại vừa là nguyên nhân tạo sỏi do gây tắc nghẽn và ứ đọng. Hẹp đường mật còn gây khó khăn lớn cho lấy sỏi, là nguyên nhân chủ yếu của sót sỏi. Tỷ lệ tái phát sỏi luôn rất cao ở các BN có hẹp đường dẫn mật. Hình 1: Chít hẹp đường mật: 1- Hẹp nhẹ, 2- Hẹp nặng. (Nguồn: Theo Bùi Tuấn Anh) [9]. Chen CH và CS (2005): Tỷ lệ hẹp đường mật là 37/74 trường hợp [11]. * Mức độ chít hẹp đường mật: Bảng 4: Mức độ chít hẹp đường mật. Mức độ chít hẹp Số BN Tỷ lệ (%) Nhẹ 20 86,96 Nặng 3 13,04 Tổng 23 100,00 Trong 23 BN có hẹp đường mật, mức độ chít hẹp nhẹ và vừa là chủ yếu chiếm 86,96%, còn 13,04% là chít hẹp mức độ nặng. Chít hẹp nặng là những trường hợp rất khó khăn trong việc lấy sỏi. Hẹp đường mật có thể là hậu quả của quá trình viêm nhiễm xơ hóa kéo dài do sỏi mật gây nên và là nguyên nhân gây ứ đọng mật và tái phát sỏi. Tình trạng hẹp còn làm ứ mật kéo dài sẽ gây ra hậu quả xơ gan mật thứ phát. Hẹp đường mật chủ yếu gặp ở đường mật trong gan. Những trường hợp hẹp đường mật nhưng khẩu kính lớn hơn khẩu kính của ống soi, ống soi vẫn qua được thì chúng tôi vẫn tiến hành tán sỏi bằng điện thủy lực và bơm rửa đẩy sỏi qua lỗ hẹp tống xuống tá tràng. Những trường hợp khẩu kính đường mật nhỏ hơn khẩu kính của ống soi thì nhìn qua lỗ hẹp chúng tôi vẫn có thể tán sỏi bằng điện thủy lực, tuy nhiên tỷ lệ sót sỏi sẽ cao. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 67 Đây cũng chính là những trường hợp làm tăng khả năng sót sỏi trong đường mật. 3. Kết quả nội soi tán sỏi qua đường hầm Kehr bằng điện thủy lực sau phẫu thuật nội soi điều trị sỏi đường mật mổ lại * Kết quả nội soi tán sỏi qua đường hầm Kehr: Bảng 5: Tỷ lệ hết sỏi sau tán sỏi qua Kehr. Sỏi trong gan Số BN Tỷ lệ (%) Hết sỏi 39 97,5 Còn sỏi 1 2,5 Tổng 40 100,0 Ở nhóm nghiên cứu được tiến hành nội soi tán sỏi qua đường hầm Kehr cho thấy, tỷ lệ hết sỏi đạt 97,50%, 1 trường hợp không lấy hết sỏi (do gập góc đường mật, ống soi không đưa vào tán được). Một số tác giả cho rằng, yếu tố gây khó khăn cho kỹ thuật nội soi sẽ làm hạn chế kết quả điều trị lấy sỏi bằng nội soi tán sỏi qua đường hầm Kehr. Trong đó, 2 yếu tố đáng kể là: Sỏi nằm trong một ống mật quá gấp góc và tổn thương chít hẹp đường mật. Đặng Tâm (2003): Tỷ lệ không giải quyết được sỏi là 8,9%, nguyên nhân do không tiếp cận được sỏi: Do hẹp đường mật và gập góc [1]. Hoàng Trọng Nhật Phương và CS (2008) tán sỏi qua đường hầm Kehr và qua quai ruột dưới da là 82,35%. Tác giả kết luận: Hạn chế chính của phương pháp tán sỏi điện thủy lực là viêm hẹp, gập góc đường mật, đường mật quá nhỏ nên không tiếp cận được với sỏi [5]. Lê Quan Anh Tuấn (2009): Tỷ lệ hết sỏi 85,5%, nguyên nhân không lấy hết sỏi do đường mật nhỏ, gập góc hay hẹp đường mật. Tỷ lệ hẹp đường mật là 28% [6]. Nguyễn Cao Cương (2014): Tỷ lệ sạch sỏi qua đường hầm Kehr 87,5%; 15% trường hợp còn sỏi là do ống soi không thể tiếp cận được do hẹp đường mật hay do sỏi nhỏ ở ngoại biên. Tác giả cũng nhận định hẹp đường mật là yếu tố làm khó lấy hết sỏi (sỏi sót) và gây sỏi tái phát [7]. Hình 2: Hết sỏi sau tán sỏi qua đường hầm Kehr. (BN: Lê Mạnh H; SBA: 1442) T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 68 * Đánh giá số lần nội soi tán sỏi cho một BN: Một hạn chế chủ yếu của phương pháp nội soi tán sỏi là BN thường phải trải qua nhiều lần lấy sỏi, làm cho thời gian điều trị kéo dài. Các yếu tố làm tăng số lần thủ thuật là: Số lượng sỏi nhiều, sỏi trong gan hai bên, hẹp đường mật. Bảng 6: Số lần nội soi tán sỏi cho một BN. Số lần nội soi tán sỏi Số BN Tỷ lệ (%) 1 24 60,0 2 11 27,5 3 4 10,0 > 3 1 2,5 Tổng 40 100,0 Đa số BN (60,0%) được tán sỏi 1 lần, 27,5% BN tán sỏi 2 lần. Số lần tán sỏi ít nhất là 1 lần, nhiều nhất là 5 lần. Bảng 7: Số lần nội soi tán sỏi trung bình. Tác giả Số lần tán sỏi trung bình Đặng Tâm (2003) [1] 3,42 Đỗ Trọng Hải (2005) [4] Mổ mở: 2,3; Mổ nội soi: 2,7 Bùi Tuấn Anh (2008) [8] 2,9 ± 1,1 Lê Quan Anh Tuấn (2009) [6] 3,07 Trần Hoàng Ân và CS (2013) [9] 2,00 Nguyễn Cao Cương (2014) [7] 2,17 ± 1,36 Võ Văn Hùng và CS (2014) [2] 2,34 ± 1,14 Võ Đại Dũng và CS (2015) [10] 2,19 Chúng tôi 1,58 ± 0,87 Số lần tán sỏi trung bình là 1,58 ± 0,87 lần. * Thời gian trong một lần nội soi tán sỏi qua đường hầm Kehr: Bảng 8: Thời gian tán sỏi trung bình. Tác giả Thời gian tán sỏi trung bình (phút) Lê Quan Anh Tuấn (2009) [6] 49,00 Trần Hoàng Ân (2013) [9] 30,00 Nguyễn Cao Cương (2014) [7] 56,38 ±17,23 Võ Văn Hùng và CS (2014) [2] 57,70 ± 18,43 Chúng tôi 56,42 ± 21,16 Thời gian tán sỏi trung bình: 56,42 ± 21,16 phút. Thời gian một lần nội soi tán sỏi ngắn nhất: 10 phút, dài nhất: 150 phút. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 69 So sánh với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác, thời gian tán sỏi trong nghiên cứu của chúng tôi thấp, thời gian tán sỏi trung bình cũng ít hơn là do lượng sỏi sót chủ động đã được lấy một cách tối đa ở lần phẫu thuật trước. Việc áp dụng PTNS đã thám sát được đường mật trong gan mức ống phân thùy, sót sỏi thụ động chủ yếu nằm trong ống hạ phân thùy. Do đó giảm số lần tán sỏi cũng như thời gian tán sỏi qua đường hầm Kehr. * Lượng dịch vào cơ thể BN trong quá trình bơm rửa đường mật trong nội soi tán sỏi qua đường hầm Kehr: - Lượng dịch sử dụng để bơm rửa đường mật vào ruột BN trong một lần nội soi tán sỏi qua đường hầm Kehr: 2,41 ± 0,41 lít. - Lượng dịch sử dụng để bơm rửa đường mật vào ruột BN trong một lần nội soi tán sỏi ít nhất là 0,5 lít, nhiều nhất là 8 lít. - Nguyên nhân chính của hạn chế này là BN phải chịu một lượng lớn dịch rửa xuống ruột trong quá trình nội soi, làm “no nước”, hạ thân nhiệt dẫn tới xuất hiện các cơn rét run. Do đó, thời gian của mỗi lần lấy sỏi thường không thể kéo dài quá 60 phút. - Trong nghiên cứu này, chúng tôi áp dụng kỹ thuật của tác giả Bùi Tuấn Anh [8] đã hạn chế được lượng dịch vào trong ổ bụng bằng cách đặt sonde dạ dày, như vậy trong quá trình bơm rửa khi dịch rửa xuống tá tràng, một lượng dịch sẽ qua sonde dạ dày. Do đó, thời gian phẫu thuật có thể kéo dài hơn và khả năng lấy sỏi tối đa trong một lần tán cũng tăng. KẾT LUẬN - Tỷ lệ gặp hẹp đường mật là 57,50%, hẹp đường mật trong gan là 60,87% (nguyên nhân gây sỏi tái phát). - Hẹp đường mật mức độ nhẹ là 86,96%, mức độ nặng là 13,04%. - Tỷ lệ hết sỏi sau tán sỏi qua đường hầm Kehr là 97,50%. - Số lần tán sỏi trung bình là 1,58 ± 0,87 lần. - Thời gian tán sỏi trung bình là 56,42 ± 21,16 phút. - Lượng dịch trung bình bơm rửa đường mật vào ruột BN trong một lần tán sỏi là: 2,411 ± 0,41 lít. - Phẫu thuật nội soi điều trị sỏi đường mật mổ lại làm giảm tối đa việc sót sỏi chủ động nhờ thám sát được ống gan mức phân thùy. Do vậy, quá trình nội soi tán sỏi qua đường hầm Kehr sẽ làm giảm số lần tán sỏi cũng như thời gian tán sỏi. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đặng Tâm. Nội soi đường mật qua da trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý đường mật. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh 2003; 7(3):176-183. 2. Võ Văn Hùng, Nguyễn Cao Cương, Bùi Mạnh Côn và CS. 25 so sánh hiệu quả kỹ thuật nội soi qua đường hầm Kehr và qua ngõ vào đường mật bằng túi mật trong điều trị sỏi sót đường mật. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh 2014; 18(1):127-134. 3. Trần Đình Thơ. Nghiên cứu ứng dụng siêu âm kết hợp với nội soi đường mật trong mổ để điều trị sỏi đường mật trong gan. Luận án Tiến sĩ Y học. Trường Đại học Y Hà Nội 2006. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 70 4. Đỗ Trọng Hải. Kết quả điều trị sỏi trong gan với phẫu thuật nội soi so sánh với mổ mở có kết hợp kỹ thuật tán sỏi điện thủy lực. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh 2005; 9(1):62-66. 5. Hoàng Trọng Nhật Phương, Phan Đình Tuấn Dũng, Đặng Ngọc Hùng và CS. Hiệu quả của tán sỏi điện thủy lực trong điều trị sỏi đường mật. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh 2008; 12(4):114-118. 6. Lê Quan Anh Tuấn. Lấy sỏi qua đường hầm ống Kehr bằng ống soi mềm. Tạp chí Y học Thực hành 2009; 670(8):68-72. 7. Nguyễn Cao Cương. Điều trị sót sỏi trong gan bằng nội soi qua đường hầm Kehr và túi mật - ống mật chủ - da. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh 2014; 18(5):150-155. 8. Bùi Tuấn Anh. Nghiên cứu kỹ thuật dẫn lưu mật xuyên gan qua da trong điều trị sỏi đường mật. Luận án Tiến sĩ Y học. Học viện Quân y, Hà Nội 2008. 9. Trần Hoàng Ân, Tạ Văn Trầm, Phạm Hữu Thiện Chí. Tỷ lệ sạch sỏi của phương pháp điều trị sỏi sót đường mật trong gan qua đường hầm ống Kehr. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh 2013; 17(4):59-65. 10. Võ Đại Dũng, Lê Nguyên Khôi, Đoàn Văn Trân và CS. Phẫu thuật nội soi trong điều trị sỏi đường mật trong gan. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh 2015; 19(5):91-100. 11. Chen CH, Huang MH, Yang JC et al. Reappraisal of percutaneous transhepatic cholangioscopic lithotomy for primary hepatolithiasis. Surg Endosc 2005; 19:505-509.
File đính kèm:
danh_gia_ket_qua_noi_soi_tan_soi_qua_duong_ham_kehr_bang_die.pdf

