Đánh giá kết quả nội soi tán sỏi qua đường hầm kehr bằng điện thủy lực điều trị sót sỏi sau phẫu thuật nội soi sỏi đường mật mổ lại

Mục tiêu: Mô tả tổn thương đường mật và đánh giá kết quả điều trị nội soi tán qua đường

hầm Kehr bằng điện thủy lực điều trị sót sỏi sau phẫu thuật nội soi sỏi đường mật mổ lại.

Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả theo dõi dọc không đối chứng trên

72 bệnh nhân (BN) được phẫu thuật nội soi (PTNS) điều trị sỏi đường mật mổ lại. Kết quả:

Sau mổ, có 40 BN quay lại tán sỏi qua đường hầm Kehr điều trị sót sỏi; viêm chít hẹp đường

mật chiếm 57,5%; chít hẹp ở đường mật trong gan 60,87%; tỷ lệ sạch sỏi đạt 97,50%; số lần

tán sỏi trung bình là 1,58 ± 0,87 lần; thời gian tán sỏi trung bình trong một lần: 56,42 ± 21,16 phút.

Không có tử vong và biến chứng nặng trong nhóm nghiên cứu. Kết luận: Số lần tán sỏi cũng

như thời gian tán sỏi giảm đáng kể trong nội soi tán sỏi qua đường hầm Kehr bằng điện thủy

lực sau phẫu thuật nội soi điều trị sỏi đường mật mổ lại.

pdf 8 trang phuongnguyen 260
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá kết quả nội soi tán sỏi qua đường hầm kehr bằng điện thủy lực điều trị sót sỏi sau phẫu thuật nội soi sỏi đường mật mổ lại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả nội soi tán sỏi qua đường hầm kehr bằng điện thủy lực điều trị sót sỏi sau phẫu thuật nội soi sỏi đường mật mổ lại

Đánh giá kết quả nội soi tán sỏi qua đường hầm kehr bằng điện thủy lực điều trị sót sỏi sau phẫu thuật nội soi sỏi đường mật mổ lại
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 
 63 
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NỘI SOI TÁN SỎI QUA ĐƯỜNG HẦM KEHR 
BẰNG ĐIỆN THỦY LỰC ĐIỀU TRỊ SÓT SỎI SAU PHẪU THUẬT 
NỘI SOI SỎI ĐƯỜNG MẬT MỔ LẠI 
Nguyễn Quang Nam1, Bùi Tuấn Anh1, Lê Trung Hải1 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Mô tả tổn thương đường mật và đánh giá kết quả điều trị nội soi tán qua đường 
hầm Kehr bằng điện thủy lực điều trị sót sỏi sau phẫu thuật nội soi sỏi đường mật mổ lại. 
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả theo dõi dọc không đối chứng trên 
72 bệnh nhân (BN) được phẫu thuật nội soi (PTNS) điều trị sỏi đường mật mổ lại. Kết quả: 
Sau mổ, có 40 BN quay lại tán sỏi qua đường hầm Kehr điều trị sót sỏi; viêm chít hẹp đường 
mật chiếm 57,5%; chít hẹp ở đường mật trong gan 60,87%; tỷ lệ sạch sỏi đạt 97,50%; số lần 
tán sỏi trung bình là 1,58 ± 0,87 lần; thời gian tán sỏi trung bình trong một lần: 56,42 ± 21,16 phút. 
Không có tử vong và biến chứng nặng trong nhóm nghiên cứu. Kết luận: Số lần tán sỏi cũng 
như thời gian tán sỏi giảm đáng kể trong nội soi tán sỏi qua đường hầm Kehr bằng điện thủy 
lực sau phẫu thuật nội soi điều trị sỏi đường mật mổ lại. 
* Từ khóa: Nội soi tán sỏi qua đường hầm Kehr; Điện thủy lực. 
Results of Endoscopy Through Tunnel Tube T by Electrohydraulic 
Lithotripsy in the Treatment of Remnant Stones after Laparoscopic 
of Biliary Stones with Previous Surgery 
Summary 
Objectives: To assess results of endoscopy through tunnel of T tube by electrohydraulic 
lithotripsy after laparoscopic in the treatment of billary stones with previous surgery. Subjects 
and methods: Prospective study on 72 patients having laparoscopic bile duct stones remove 
stones with previous surgery. Results: 40 patients returned to endoscopy through tunnel T tube 
lithotripsy; biliary stenosis accounts for 57.5%; stenosis intrahepatic bile ducts 60.87%; 
The rate of gravel clean is 97.50%; Averaged times of percutaneous transhepatic lithotripsy: 
1.58 ± 0.87; The average time of percutaneous transhepatic lithotripsy: 56.42 ± 21.16 minutes. 
There were no deaths and serious complications in the study group. Conclusion: Laparoscopy 
in the treatment of billary stones with previous surgery has significantly reduced the number of 
times lithotripsy as well as time in endoscopy through tunnel T tube by electrohydraulic lithotripsy. 
* Keywords: Endoscopy through tunnel tube T lithotripsy; Electrohydraulic. 
1Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y 
Người phản hồi: Nguyễn Quang Nam ([email protected]) 
 Ngày nhận bài: 14/10/2020 
 Ngày bài báo được đăng: 08/12/2020 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 
 64 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sỏi đường mật là một bệnh lý hay gặp 
ở nước ta. Hiện nay, nhiều phương pháp 
chẩn đoán và điều trị hiện đại được áp 
dụng để góp phần cải thiện đáng kể kết quả 
điều trị sỏi đường mật. Tuy nhiên, tỷ lệ 
sót sỏi sau mổ và sỏi tái phát vẫn còn khá 
cao, đặc biệt là đối với những trường hợp 
sỏi trong gan gây nên những biến chứng 
như tổn thương đường mật, viêm chít hẹp 
đường mật, tạo nên bệnh cảnh lâm sàng 
đa dạng và khó khăn trong điều trị. 
Những năm gần đây, sỏi sót được giải 
quyết phần lớn nhờ nội soi đường mật và 
các kỹ thuật tán sỏi mật. Kỹ thuật điều trị 
sót sỏi sau mổ bằng phương pháp tán sỏi 
qua đường hầm Kehr được áp dụng ngày 
càng phổ biến và mang lại hiệu quả cao, 
đây là phương pháp can thiệp ít xâm hại 
mang lại nhiều kết quả tốt. Đó là lý do 
chúng tôi thực hiện đề tài nhằm: Mô tả 
một số đặc điểm tổn thương đường mật 
và kết quả nội soi tán qua đường hầm 
Kehr bằng điện thủy lực điều trị sót sỏi 
sau PTNS sỏi đường mật mổ lại tại Bệnh 
viện Quân y 103, Học viện Quân y. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu 
40 BN sót sỏi sau PTNS sỏi đường 
mật mổ lại được nội soi tán sỏi bằng điện 
thủy lực qua đường hầm Kehr tại Trung 
tâm Phẫu thuật Tiêu hóa, Bệnh viện 
Quân y 103 từ tháng 6/2013 - 4/2016. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
* Các máy móc và trang thiết bị phục 
vụ nghiên cứu: 
- Máy siêu âm Aloka SSD 2000 
(Nhật Bản), đầu dò hình quạt 3,5 Mhz. 
- Ống soi mềm đường mật CHF - P20 
(hãng Olympus). 
- Máy nội soi đường mật và nguồn tán 
sỏi điện thủy lực EL27 - Compact. 
- Bộ dụng cụ nong chít hẹp đường mật 
và dụng cụ lấy sỏi khác. 
* Phương pháp nội soi tán sỏi mật qua 
đường hầm Kehr: 
- Sau mổ đặt Kehr ống mật chủ 3 - 5 tuần, 
khi đường hầm Kehr đã tạo lập chắc chắn, 
tiến hành nội soi theo đường hầm này 
vào ống mật và tán sỏi bằng điện thủy lực. 
- Các kỹ thuật phối hợp: bơm rửa 
đường mật, nong chít hẹp đường mật. 
- Thống kê các chỉ số: khả năng tiếp 
cận sỏi của ống soi, thời gian và số lần 
tán sỏi. 
* Đặc điểm tổn thương đường mật: 
- Tỷ lệ chít hẹp đường mật; vị trí chít 
hẹp theo đường dẫn mật; phân bố vị trí 
chít hẹp; mức độ chít hẹp đường mật. 
* Đánh giá kết quả điều trị: 
- Tỷ lệ hết sỏi: Dựa trên X-quang 
đường mật, siêu âm và nội soi đường mật 
trong quá trình tán sỏi. 
- Tỷ lệ sót sỏi. 
- Nguyên nhân còn sỏi. 
* Chúng tôi xin áp dụng theo khái niệm 
về hẹp đường mật của tác giả Bùi Tuấn Anh 
[8] như sau: 
- Hẹp đường mật là sự thu giảm khẩu 
kính tại một vị trí ống mật so với phần ống 
mật kế cận phía trên và phía dưới, nhỏ hơn 
đường kính 4,9 mm của máy soi. 
- Hẹp nhẹ là đường kính chỗ hẹp gần 
bằng đường kính ống soi, đưa được ống 
soi qua nhưng khó khăn. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 
 65 
- Hẹp nặng là đường kính chỗ hẹp nhỏ 
hơn nhiều so với ống soi, không thể đưa 
được ống soi qua. 
- Hẹp đường mật vùng Oddi là khi đã 
dùng thuốc chống co thắt, vẫn không đưa 
được ống soi qua. 
* Xử lý số liệu: Chương trình Epi.Info. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ 
BÀN LUẬN 
1. Đặc điểm lâm sàng 
40 BN được PTNS điều trị sỏi đường 
mật mổ lại, sau mổ BN sót sỏi chủ động 
và được hẹn quay lại tán sỏi qua đường 
hầm Kehr bằng điện thủy lực. 
2. Các đặc điểm tổn thương đường 
mật thường gặp 
* Chít hẹp đường mật: 
Bảng 1: Tỷ lệ chít hẹp đường mật. 
Hình thái tổn thương Số BN Tỷ lệ (%) 
Có chít hẹp đường mật 23 57,5 
Không chít hẹp đường mật 17 42,5 
Tổng 40 100,0 
Trong 40 BN tán sỏi qua đường hầm 
Kehr, tỷ lệ hẹp đường mật là 23/40 BN 
(57,50%). 
Theo Đặng Tâm thông báo tỷ lệ chít 
hẹp nặng là 44,03% [1]; Trần Đình Thơ 
gặp 42,1% [3]; Võ Văn Hùng và CS (2014): 
tỷ lệ hẹp đường mật là 31,4% [2]. 
* Vị trí chít hẹp theo đường dẫn mật: 
Bảng 2: Vị trí chít hẹp theo đường 
dẫn mật. 
Vị trí chít hẹp Số BN Tỷ lệ (%) 
Trong gan 14 60,87 
Ngoài gan 6 26,09 
Trong và ngoài gan 3 13,04 
Tổng 23 100,00 
Trong 23 BN có chít hẹp đường mật, 
chủ yếu gặp chít hẹp ở đường mật trong 
gan (60,87%), hẹp đường mật ngoài gan 
chỉ có 26,09%. Trong nhóm nghiên cứu, 
3 trường hợp hẹp đường mật phối hợp ở 
2 vị trí trong và ngoài gan chiếm 13,04%. 
Theo Trần Đình Thơ [3], tỷ lệ gặp chít 
hẹp trong gan chiếm ưu thế tới 95,65%; 
Đặng Tâm gặp chít hẹp trong gan là 91,74% 
[2]; Đỗ Trọng Hải (2005): Hẹp đường mật 
trong gan là 21,3% [4]. 
Hẹp đường mật có thể là hậu quả của 
quá trình viêm nhiễm xơ hóa kéo dài do 
sỏi mật gây nên và là nguyên nhân gây ứ 
đọng mật và tái phát sỏi. Tình trạng hẹp 
còn làm ứ mật kéo dài, gây ra hậu quả xơ 
gan mật thứ phát. 
* Phân bố số vị trí hẹp: 
Bảng 3: Phân bố số vị trí hẹp. 
Số lượng vị trí 
chít hẹp Số BN Tỷ lệ (%) 
1 16 69,57 
2 4 17,39 
3 2 8,69 
> 3 1 4,35 
Tổng 23 100,00 
Trong số 23 trường hợp chít hẹp 
đường mật có 16 trường hợp (69,57%) 
có 1 vị trí chít hẹp; 4 trường hợp (17,39%) 
có 2 vị trí chít hẹp; 2 trường hợp (8,69%) 
có 3 vị trí chít hẹp và 1 trường hợp hẹp 
> 3 vị trí. Tóm lại, chít hẹp đường mật là 
một trong những biến chứng của sỏi mật 
và là nguyên nhân gây khó khăn trong 
điều trị sỏi mật như sót sỏi hay sỏi tái phát 
(đặc biệt là sỏi trong gan). 
Như vậy, chít hẹp ống mật là một tổn 
thương rất thường gặp trong sỏi đường 
mật. Nó vừa là hậu quả của sỏi, của viêm 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 
 66 
đường dẫn mật tái diễn, kéo dài, lại vừa 
là nguyên nhân tạo sỏi do gây tắc nghẽn và 
ứ đọng. Hẹp đường mật còn gây khó khăn 
lớn cho lấy sỏi, là nguyên nhân chủ yếu 
của sót sỏi. Tỷ lệ tái phát sỏi luôn rất cao 
ở các BN có hẹp đường dẫn mật. 
Hình 1: Chít hẹp đường mật: 
1- Hẹp nhẹ, 2- Hẹp nặng. 
(Nguồn: Theo Bùi Tuấn Anh) [9]. 
Chen CH và CS (2005): Tỷ lệ hẹp đường mật là 37/74 trường hợp [11]. 
* Mức độ chít hẹp đường mật: 
Bảng 4: Mức độ chít hẹp đường mật. 
Mức độ chít hẹp Số BN Tỷ lệ (%) 
Nhẹ 20 86,96 
Nặng 3 13,04 
Tổng 23 100,00 
Trong 23 BN có hẹp đường mật, mức 
độ chít hẹp nhẹ và vừa là chủ yếu chiếm 
86,96%, còn 13,04% là chít hẹp mức độ 
nặng. Chít hẹp nặng là những trường hợp 
rất khó khăn trong việc lấy sỏi. 
Hẹp đường mật có thể là hậu quả của 
quá trình viêm nhiễm xơ hóa kéo dài do 
sỏi mật gây nên và là nguyên nhân gây ứ 
đọng mật và tái phát sỏi. Tình trạng hẹp 
còn làm ứ mật kéo dài sẽ gây ra hậu quả 
xơ gan mật thứ phát. 
Hẹp đường mật chủ yếu gặp ở đường 
mật trong gan. Những trường hợp hẹp 
đường mật nhưng khẩu kính lớn hơn 
khẩu kính của ống soi, ống soi vẫn qua 
được thì chúng tôi vẫn tiến hành tán sỏi 
bằng điện thủy lực và bơm rửa đẩy sỏi qua 
lỗ hẹp tống xuống tá tràng. Những trường 
hợp khẩu kính đường mật nhỏ hơn khẩu 
kính của ống soi thì nhìn qua lỗ hẹp 
chúng tôi vẫn có thể tán sỏi bằng điện 
thủy lực, tuy nhiên tỷ lệ sót sỏi sẽ cao. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 
 67 
Đây cũng chính là những trường hợp làm 
tăng khả năng sót sỏi trong đường mật. 
3. Kết quả nội soi tán sỏi qua đường 
hầm Kehr bằng điện thủy lực sau phẫu 
thuật nội soi điều trị sỏi đường mật 
mổ lại 
* Kết quả nội soi tán sỏi qua đường 
hầm Kehr: 
Bảng 5: Tỷ lệ hết sỏi sau tán sỏi qua Kehr. 
Sỏi trong gan Số BN Tỷ lệ (%) 
Hết sỏi 39 97,5 
Còn sỏi 1 2,5 
Tổng 40 100,0 
Ở nhóm nghiên cứu được tiến hành 
nội soi tán sỏi qua đường hầm Kehr cho 
thấy, tỷ lệ hết sỏi đạt 97,50%, 1 trường 
hợp không lấy hết sỏi (do gập góc đường 
mật, ống soi không đưa vào tán được). 
Một số tác giả cho rằng, yếu tố gây 
khó khăn cho kỹ thuật nội soi sẽ làm hạn 
chế kết quả điều trị lấy sỏi bằng nội soi 
tán sỏi qua đường hầm Kehr. Trong đó, 2 
yếu tố đáng kể là: Sỏi nằm trong một ống 
mật quá gấp góc và tổn thương chít hẹp 
đường mật. 
Đặng Tâm (2003): Tỷ lệ không giải 
quyết được sỏi là 8,9%, nguyên nhân do 
không tiếp cận được sỏi: Do hẹp đường 
mật và gập góc [1]. 
Hoàng Trọng Nhật Phương và CS 
(2008) tán sỏi qua đường hầm Kehr và 
qua quai ruột dưới da là 82,35%. Tác giả 
kết luận: Hạn chế chính của phương 
pháp tán sỏi điện thủy lực là viêm hẹp, 
gập góc đường mật, đường mật quá nhỏ 
nên không tiếp cận được với sỏi [5]. 
Lê Quan Anh Tuấn (2009): Tỷ lệ hết 
sỏi 85,5%, nguyên nhân không lấy hết sỏi 
do đường mật nhỏ, gập góc hay hẹp 
đường mật. Tỷ lệ hẹp đường mật là 
28% [6]. 
Nguyễn Cao Cương (2014): Tỷ lệ sạch 
sỏi qua đường hầm Kehr 87,5%; 15% 
trường hợp còn sỏi là do ống soi không 
thể tiếp cận được do hẹp đường mật hay 
do sỏi nhỏ ở ngoại biên. Tác giả cũng nhận 
định hẹp đường mật là yếu tố làm khó lấy 
hết sỏi (sỏi sót) và gây sỏi tái phát [7]. 
Hình 2: Hết sỏi sau tán sỏi qua đường hầm Kehr. 
(BN: Lê Mạnh H; SBA: 1442) 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 
 68 
* Đánh giá số lần nội soi tán sỏi cho một BN: 
Một hạn chế chủ yếu của phương pháp nội soi tán sỏi là BN thường phải trải qua 
nhiều lần lấy sỏi, làm cho thời gian điều trị kéo dài. Các yếu tố làm tăng số lần thủ 
thuật là: Số lượng sỏi nhiều, sỏi trong gan hai bên, hẹp đường mật. 
Bảng 6: Số lần nội soi tán sỏi cho một BN. 
Số lần nội soi tán sỏi Số BN Tỷ lệ (%) 
1 24 60,0 
2 11 27,5 
3 4 10,0 
> 3 1 2,5 
Tổng 40 100,0 
Đa số BN (60,0%) được tán sỏi 1 lần, 27,5% BN tán sỏi 2 lần. Số lần tán sỏi ít nhất là 
1 lần, nhiều nhất là 5 lần. 
Bảng 7: Số lần nội soi tán sỏi trung bình. 
Tác giả Số lần tán sỏi trung bình 
Đặng Tâm (2003) [1] 3,42 
Đỗ Trọng Hải (2005) [4] Mổ mở: 2,3; Mổ nội soi: 2,7 
Bùi Tuấn Anh (2008) [8] 2,9 ± 1,1 
Lê Quan Anh Tuấn (2009) [6] 3,07 
Trần Hoàng Ân và CS (2013) [9] 2,00 
Nguyễn Cao Cương (2014) [7] 2,17 ± 1,36 
Võ Văn Hùng và CS (2014) [2] 2,34 ± 1,14 
Võ Đại Dũng và CS (2015) [10] 2,19 
Chúng tôi 1,58 ± 0,87 
Số lần tán sỏi trung bình là 1,58 ± 0,87 lần. 
* Thời gian trong một lần nội soi tán sỏi qua đường hầm Kehr: 
Bảng 8: Thời gian tán sỏi trung bình. 
Tác giả Thời gian tán sỏi trung bình (phút) 
Lê Quan Anh Tuấn (2009) [6] 49,00 
Trần Hoàng Ân (2013) [9] 30,00 
Nguyễn Cao Cương (2014) [7] 56,38 ±17,23 
Võ Văn Hùng và CS (2014) [2] 57,70 ± 18,43 
Chúng tôi 56,42 ± 21,16 
Thời gian tán sỏi trung bình: 56,42 ± 21,16 phút. Thời gian một lần nội soi tán sỏi 
ngắn nhất: 10 phút, dài nhất: 150 phút. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 
 69 
So sánh với kết quả nghiên cứu của 
các tác giả khác, thời gian tán sỏi trong 
nghiên cứu của chúng tôi thấp, thời gian 
tán sỏi trung bình cũng ít hơn là do lượng 
sỏi sót chủ động đã được lấy một cách tối 
đa ở lần phẫu thuật trước. Việc áp dụng 
PTNS đã thám sát được đường mật trong 
gan mức ống phân thùy, sót sỏi thụ động 
chủ yếu nằm trong ống hạ phân thùy. Do 
đó giảm số lần tán sỏi cũng như thời gian 
tán sỏi qua đường hầm Kehr. 
* Lượng dịch vào cơ thể BN trong quá 
trình bơm rửa đường mật trong nội soi tán 
sỏi qua đường hầm Kehr: 
- Lượng dịch sử dụng để bơm rửa 
đường mật vào ruột BN trong một lần nội 
soi tán sỏi qua đường hầm Kehr: 2,41 ± 
0,41 lít. 
- Lượng dịch sử dụng để bơm rửa 
đường mật vào ruột BN trong một lần nội 
soi tán sỏi ít nhất là 0,5 lít, nhiều nhất là 
8 lít. 
- Nguyên nhân chính của hạn chế này 
là BN phải chịu một lượng lớn dịch rửa 
xuống ruột trong quá trình nội soi, làm 
“no nước”, hạ thân nhiệt dẫn tới xuất hiện 
các cơn rét run. Do đó, thời gian của mỗi 
lần lấy sỏi thường không thể kéo dài quá 
60 phút. 
- Trong nghiên cứu này, chúng tôi áp 
dụng kỹ thuật của tác giả Bùi Tuấn Anh 
[8] đã hạn chế được lượng dịch vào trong 
ổ bụng bằng cách đặt sonde dạ dày, 
như vậy trong quá trình bơm rửa khi dịch 
rửa xuống tá tràng, một lượng dịch sẽ 
qua sonde dạ dày. Do đó, thời gian phẫu 
thuật có thể kéo dài hơn và khả năng lấy 
sỏi tối đa trong một lần tán cũng tăng. 
KẾT LUẬN 
- Tỷ lệ gặp hẹp đường mật là 57,50%, 
hẹp đường mật trong gan là 60,87% 
(nguyên nhân gây sỏi tái phát). 
- Hẹp đường mật mức độ nhẹ là 86,96%, 
mức độ nặng là 13,04%. 
- Tỷ lệ hết sỏi sau tán sỏi qua đường 
hầm Kehr là 97,50%. 
- Số lần tán sỏi trung bình là 1,58 ± 
0,87 lần. 
- Thời gian tán sỏi trung bình là 56,42 ± 
21,16 phút. 
- Lượng dịch trung bình bơm rửa đường 
mật vào ruột BN trong một lần tán sỏi là: 
2,411 ± 0,41 lít. 
- Phẫu thuật nội soi điều trị sỏi đường 
mật mổ lại làm giảm tối đa việc sót sỏi 
chủ động nhờ thám sát được ống gan 
mức phân thùy. Do vậy, quá trình nội soi 
tán sỏi qua đường hầm Kehr sẽ làm giảm 
số lần tán sỏi cũng như thời gian tán sỏi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đặng Tâm. Nội soi đường mật qua da 
trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý đường 
mật. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh 2003; 
7(3):176-183. 
2. Võ Văn Hùng, Nguyễn Cao Cương, 
Bùi Mạnh Côn và CS. 25 so sánh hiệu quả 
kỹ thuật nội soi qua đường hầm Kehr và qua ngõ 
vào đường mật bằng túi mật trong điều trị sỏi 
sót đường mật. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh 
2014; 18(1):127-134. 
3. Trần Đình Thơ. Nghiên cứu ứng dụng 
siêu âm kết hợp với nội soi đường mật trong 
mổ để điều trị sỏi đường mật trong gan. 
Luận án Tiến sĩ Y học. Trường Đại học Y 
Hà Nội 2006. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 
 70 
4. Đỗ Trọng Hải. Kết quả điều trị sỏi trong 
gan với phẫu thuật nội soi so sánh với mổ mở 
có kết hợp kỹ thuật tán sỏi điện thủy lực. Tạp chí 
Y học TP. Hồ Chí Minh 2005; 9(1):62-66. 
5. Hoàng Trọng Nhật Phương, Phan Đình 
Tuấn Dũng, Đặng Ngọc Hùng và CS. Hiệu quả 
của tán sỏi điện thủy lực trong điều trị sỏi 
đường mật. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh 
2008; 12(4):114-118. 
6. Lê Quan Anh Tuấn. Lấy sỏi qua đường 
hầm ống Kehr bằng ống soi mềm. Tạp chí Y học 
Thực hành 2009; 670(8):68-72. 
7. Nguyễn Cao Cương. Điều trị sót sỏi 
trong gan bằng nội soi qua đường hầm Kehr 
và túi mật - ống mật chủ - da. Tạp chí Y học 
TP. Hồ Chí Minh 2014; 18(5):150-155. 
8. Bùi Tuấn Anh. Nghiên cứu kỹ thuật dẫn 
lưu mật xuyên gan qua da trong điều trị sỏi 
đường mật. Luận án Tiến sĩ Y học. Học viện 
Quân y, Hà Nội 2008. 
9. Trần Hoàng Ân, Tạ Văn Trầm, Phạm Hữu 
Thiện Chí. Tỷ lệ sạch sỏi của phương pháp 
điều trị sỏi sót đường mật trong gan qua đường 
hầm ống Kehr. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh 
2013; 17(4):59-65. 
10. Võ Đại Dũng, Lê Nguyên Khôi, Đoàn 
Văn Trân và CS. Phẫu thuật nội soi trong điều 
trị sỏi đường mật trong gan. Tạp chí Y học 
TP. Hồ Chí Minh 2015; 19(5):91-100. 
11. Chen CH, Huang MH, Yang JC et al. 
Reappraisal of percutaneous transhepatic 
cholangioscopic lithotomy for primary 
hepatolithiasis. Surg Endosc 2005; 19:505-509. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_ket_qua_noi_soi_tan_soi_qua_duong_ham_kehr_bang_die.pdf