Đánh giá kết quả nghiên cứu ứng dụng ghép tế bào gốc tủy xương tự thân trong điều trị chấn thương cột sống liệt tủy hoàn toàn tại Bệnh viện Việt Đức

Spinal cord injury (SCI) is a severe neurological disease. An effective strategy

for the treatment of SCI is urgently required. Stem cell transplantation has

emerged as a viable therapeutic option with great potential for restoring

neurological function lost following SCI. From 2012 to 20116, a total of 42

SCI patients were enrolled in a Vietnamese-German Hospital. All patients

completed and signed informed consent prior to autologous bone marrow

mesenchymal stem cell transplantation and were divided equally in treatment

21 cervical group and 21 thoracis group. Research continues to be long-term

monitoring (24 months). Analysis of subsequent treatment results indicated

significant improvements in sensory, motor and autonomic nerve function

as assessed by the AIS, enhanced MRI, Barthel activities of daily index.

In treatment group, 6 months after transplantation, eight patients 16.6 % (

cervical group) and 14.28% (Thoracis group) improved from AIS A to AIS

B, 9.5% improved from AIS A to AIS C, 12 months after transplantation,

and one patients cervical (4.8%) improved from AIS C to AIS D. The most

common adverse event, 20% reported back pain, 4.8% recorded headache

and disappeared within 24–48 h without treatment, 5% reported fever (not

recorded meningitis) and 7.1% reported uneasiness

pdf 6 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá kết quả nghiên cứu ứng dụng ghép tế bào gốc tủy xương tự thân trong điều trị chấn thương cột sống liệt tủy hoàn toàn tại Bệnh viện Việt Đức", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả nghiên cứu ứng dụng ghép tế bào gốc tủy xương tự thân trong điều trị chấn thương cột sống liệt tủy hoàn toàn tại Bệnh viện Việt Đức

Đánh giá kết quả nghiên cứu ứng dụng ghép tế bào gốc tủy xương tự thân trong điều trị chấn thương cột sống liệt tủy hoàn toàn tại Bệnh viện Việt Đức
Phần 1: Phẫu thuật cột sống
1
Nguyễn Đình Hoà, Nguyễn Lê Bảo Tiến, Đinh Ngọc Sơn, 
Nguyễn Hoàng Long, Nguyễn Văn Thạch
Nguyen Dinh Hoa, 
Nguyen Le Bao Tien, 
Dinh Ngoc Son, 
Nguyen Hoang Long, 
Nguyen Van Thach
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG 
GHÉP TẾ BÀO GỐC TỦY XƯƠNG TỰ THÂN 
TRONG ĐIỀU TRỊ CHẤN THƯƠNG CỘT SỐNG 
LIỆT TỦY HOÀN TOÀN TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC 
THE RESULTS OF SPINAL CORD INJURY 
THERAPY USING MESENCHYMAL STEM 
CELLS DERIVED FROM BONE MARROW 
TISSUE AT VIET DUC HOSPITAL 
ASTRACT
Spinal cord injury (SCI) is a severe neurological disease. An effective strategy 
for the treatment of SCI is urgently required. Stem cell transplantation has 
emerged as a viable therapeutic option with great potential for restoring 
neurological function lost following SCI. From 2012 to 20116, a total of 42 
SCI patients were enrolled in a Vietnamese-German Hospital. All patients 
completed and signed informed consent prior to autologous bone marrow 
mesenchymal stem cell transplantation and were divided equally in treatment 
21 cervical group and 21 thoracis group. Research continues to be long-term 
monitoring (24 months). Analysis of subsequent treatment results indicated 
significant improvements in sensory, motor and autonomic nerve function 
as assessed by the AIS, enhanced MRI, Barthel activities of daily index... 
In treatment group, 6 months after transplantation, eight patients 16.6 % ( 
cervical group) and 14.28% (Thoracis group) improved from AIS A to AIS 
B, 9.5% improved from AIS A to AIS C, 12 months after transplantation, 
and one patients cervical (4.8%) improved from AIS C to AIS D. The most 
common adverse event, 20% reported back pain, 4.8% recorded headache 
and disappeared within 24–48 h without treatment, 5% reported fever (not 
recorded meningitis) and 7.1% reported uneasiness. 
Keywords: acute spinal cord injury, Autologous Adipose Tissue derived 
Mesenchymal Stem Cells, thoracic and lumbar spinal cord injury, 
transplantation
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
CTCS (CTCS) gây nên những thương tổn của xương, 
dây chằng, đĩa đệm cột sống, tổn thương thần kinh tạm 
thời hoặc vĩnh viễn cho bệnh nhân. Các tổn thương thần 
kinh bao gồm liệt vận động, cảm giác, rối loạn cơ tròn 
(liệt tứ chi, liệt hai chân, đại tiểu tiện không tự chủ, liệt 
cơ hô hấp) là những hậu quả rất phổ biến và nặng nề 
thường thấy trên lâm sàng. Hàng năm có khoảng 40 ca 
CTCS mới trong một triệu dân hoặc tổng số có khoảng 
12000 ca CTCS tại Mỹ. Bệnh nhân nam giới chiếm đa 
số với tỷ lệ khoảng 77%, tuổi trung bình của bệnh nhân 
trong ba thập kỷ gần đây khoảng từ 28,7 đến 39,5 tuổi 
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016
2
với nguyên nhân chính là tai nạn giao thông và ngã cao. 
Tổn thương đụng dập tủy chiếm 70%. [9], [10]. Tại Việt 
Nam, CTCS gặp chủ yếu do tai nạn lao động và tai nạn 
giao thông với độ tuổi trung bình khoảng 35-40 có thể 
chiếm đến 80%, đây là lực lượng lao động chính của xã 
hội. [3],[8]Trong vài năm trở lại đây, những nghiên cứu 
về ứng dụng tế bào gốc (TBG) trong điều trị bệnh đã thu 
hút được sự quan tâm rất lớn trong giới y học trong và 
ngoài nước. Nhiều bệnh lý thuộc nhiều chuyên nghành 
khác nhau đã được điều trị bằng TBG với kết quả rất khả 
quan, trong đó có bệnh CTCS. Với đặc tính có khả năng 
tự tái tạo và biệt hóa thành những tế bào chuyên biệt, 
đa dòng trong những điều kiện nhất định như tế bào cơ, 
xương, sụn, da, tế bào thần kinhTBG được xem như là 
nguồn “nguyên liệu” dự trữ, giúp cơ thể sửa chữa, tái tạo, 
thay thế những mô, tổ chức bị tổn thương [4],[8],[10]. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
42 bệnh nhân CTCS cổ, ngực, thắt lưng được lựa 
chọn theo các tiêu chuẩn nghiên cứu chia làm hai nhóm 
điều trị: 21 cột sống cổ và 21 cột sống ngực, tất cả được 
làm các xét nghiệm kiểm tra cần thiết trước khi cấy 
ghép. Bệnh nhân được phẫu thuật theo phương pháp 
kinh điển cố định cột sống giải ép, ghép xương và được 
ứng dụng ghép tế bào gốc trực tiếp vào vùng tổn thương 
theo các quy trình chuẩn ở 4 vị trí trên tổn thương, giữa 
tổn thương, dưới tổn thương và dưới màng cứng. Sau 1, 
3, 6 tháng bệnh nhân sẽ được tiêm nhắc lại lần 2,3,4.. 
Đánh giá kết quả 3 tháng và 6 tháng bằng thang điểm 
AISA, SF36, MRI. 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Kết quả điều trị
3.1.1. Kết quả trên lâm sàng
3.1.1.1 Phục hồi thần kình qua thang điểm AIS
Bảng 3.3 Phục hồi thần kinh sau ghép 12 tháng
Tình trạng thần kinh
Khi khám lại sau 12 tháng
Tổng
A B C D E
Nhóm cổ A 16 3 1 1 0 21
Nhóm ngực thắt lưng A 15 4 2 0 0 21
Bảng 3.4. Phục hồi thần kinh trong nhóm can thiệp sau ghép 12 tháng
Thời gian N A B C D E
Trước tiêm 42 100% 0% 0% 0% 0%
3 tháng 36 66.67% 33.33% 0% 0% 0%
6 tháng 32 65.63% 31.25% 3.13% 0% 0%
12 tháng 27 59.26% 25.93% 11.11% 3.7% 0%
3.1.1.2 Kết quả lâm sàng cải thiện trên các thang điểm 
Bảng 3.5. Thay đổi chất lượng cuộc sống theo thang điểm SF36
Thời gian N A B C D E
Trước tiêm 42 100% 0% 0% 0% 0%
3 tháng 36 66.67% 33.33% 0% 0% 0%
6 tháng 32 65.63% 31.25% 3.13% 0% 0%
12 tháng 27 59.26% 25.93% 11.11% 3.7% 0%
Phần 1: Phẫu thuật cột sống
3
3.1.2. Đánh giá kết qủa dựa trên cận lâm sàng
3.1.2.1. Thay đổi trên cộng hưởng từ
Bảng 3.6 Đánh giá kết quả trên MRI trong nhóm điều trị theo thời gian
L (mm) R (mm) MCC (%) MSCC (%)
Trước tiêm 59.80 ± 3.66 6.27 ± 0.45 33.94 ± 2.70 35.82 ± 2.80
3 tháng 48.55 ± 3.25 7.76 ± 0.40 21.86 ± 1.99 20.81 ± 1.83
6 tháng 37.62 ± 2.87 8.45 ± 0.36 13.01 ± 1.37 14.50 ± 1.52
12 tháng 35.96 ± 2.58 8.37 ± 0.39 12.30 ± 1.20 14.65 ± 1.36
P P0.05
Bảng 3.7. So sánh kết quả MRI của 2 nhóm CTCS cổ và CTCS Ngực – Thắt lưng 
tại thời điểm 3 tháng sau điều trị
Nhóm L (mm) R (mm) MCC (%) MSCC (%)
CTCS cổ 
 49.88 
± 
 5.14
7.70 
± 
 0.51
19.88 
± 
2.60
18.34 
± 
 2.76
CTCS Ngực – Thắt lưng 
51.00 
± 
4.06
7.18 
± 
 0.55
25.28 
 ± 
3.19
27.44 
± 
 2.99
P P>0.05 P>0.05 P>0.05 P>0.05
3.2. Tính an toàn
Bảng 3.10. Đánh giá tính an toàn của các phương thức cấy ghép TBG
Phương thức 
ghép
Thời điểm
Tác dụng phụ
Bồn 
chồn
Sốt
Phát 
ban
Co thắt 
phế 
quản
Tăng 
nhịp 
tim
Đau 
đầu
Đau 
lưng
Buồn 
nôn
Tiêm trực tiếp 
vào vùng tổn 
thương, và 
khoang nhện
Ngay sau chấn 
thương, đồng thời 
với can thiệp cố 
định cột sống
3.2% 6.5% 0% 0% 0% 3.2% 6.5% 0%
Tiêm vào cột 
sống thắt lưng 
L2
30 ngày và 45 
ngày sau mũi 
tiêm thứ nhất
0% 3.2% 0% 0% 0% 0% 6.5% 0%
Truyền tĩnh 
mạch
60 ngày sau tiêm 
mũi 1
0% 0% 0% 0% 0% 0% 0% 0%
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016
4
IV. BÀN LUẬN: 
Qua nghiên cứu 42 bệnh nhân chấn thương cột sống 
cấp tính liệt tủy hoàn toàn điều trị ứng dụng ghép tế 
bào gốc tủy xương tự thân có nhóm chứng, theo dõi dài 
hạn chúng tôi thu được kết quả và có một số bàn luận 
như sau: 
Chấn thương cột sống đang trở thành một nguyên 
nhân rất phổ biến trong xã hội hiện đại, để lại các di 
chứng về tổn thương thần kinh nặng nề. Trong y văn, 
Hyppocrates đã chẩn đoán và điều trị chấn thương cột 
sống với quan điểm “an ailment not to treated” một bệnh 
không điều trị được, kết quả điều trị chấn thương cột 
sống còn rất nhiều hạn chế. Khám lâm sàng và theo dõi 
đánh giá bệnh nhân trong vòng 72 giờ đầu sau chấn 
thương là rất quan trọng để đánh giá chính xác mức độ 
tổn thương để có những can thiệp điều trị hợp lý. Gần 
đây có một số nghiên cứu đánh giá hồi phục tự nhiên 
của bệnh nhân chấn thương cột sống mà không có can 
thiệp điều trị. Các nghiên cứu chỉ ra rằng, yếu tố quan 
trọng để tiên lượng sự hồi phục là mức tổn thương, mức 
độ liệt theo phân loại của AIS. Ngoài ra, chúng ta có 
thể đánh giá mức độ hồi phục dựa vào các chỉ số 
SSEP và MEP và hình ảnh trên cộng hưởng từ. Các 
hồi phục thường được ghi nhận ở các giai đoạn 3, 9, 12 
tháng thậm chí 18 tháng sau chấn thương. Kirshblum và 
cộng sự nghiên cứu trên 987 bệnh nhân ở 16 trung tâm 
thu được kết quả: 94,4% AIS_A không hồi phục, chỉ có 
khoảng 3,5% AIS_A sang AIS_B và 1,05% AIS_A sang 
AIS_C hoặc AIS_D. Theo một nghiên cứu phân tích 
gộp đánh giá trên 350 bài báo từ năm 1996 đến 2012 thì 
tỷ lệ hồi phục tự nhiên sau chấn thương cột sống liệt tủy 
hoàn toàn là 6-10% [11].
Để đánh giá mức độ hồi phục thần kinh người ta dựa 
vào thang điểm AIS (A-E) và [126] điểm đánh giá vận 
động và cảm giác ASIA. Tất cả bệnh nhân trong nhóm 
nghiên cứu trước khi phẫu thuật và ứng dụng ghép TBG 
đều được đánh giá qua thang điểm AIS là mức độ A 
(Bảng 3.5). Bệnh nhân sau mổ hoặc sau mổ và ứng dụng 
ghép TBG được theo dõi ở các thời điểm và đánh giá 
theo thang điểm.
Trong 21 bệnh nhân chấn thương cột sống ngực-thắt 
lưng liệt tủy hoàn toàn có 4 bệnh nhân (16.6 %) có cải 
thiện chức năng thần kinh theo thang điểm AIS (A-B) và 
2 bệnh nhân (9.5 %) có cải thiện về thang điểm AIS từ 
(B – C) sau 12 tháng. Trong khi đó nhóm CTCS cổ có 3 
bệnh nhân (14.28%) có cải thiện thang điểm AIS (A-B), 
1 bệnh nhân (4.76 %) có cải thiện về thang điểm AIS từ 
(B – C) và 1 bệnh nhân (4.76 %) có cải thiện về thang 
điểm AIS từ (C – D) sau 12 tháng (Bảng 3.22). Theo dõi 
2 nhóm nghiên cứu, nhóm CTCS ngực có tỉ lệ cải thiện 
mức độ liệt từ AIS (A – B) cao hơn nhóm CTCS cổ. Tuy 
nhiên, nhóm CTCS cổ ghi nhận được 1 trường hợp từ 
AIS (A – D) (Bảng 3.22, 3.23). Theo Park và cộng sự 
[127] ứng dụng ghép TBG trung mô trong điều trị chấn 
thương cột sống, theo dõi trong 18 tháng có 6/20 bệnh 
nhân chiếm 20 % có thay đổi A-B. Theo một nghiên cứu 
đa trung tâm của Mỹ sàng lọc 1816 bệnh nhân và 50 
bệnh nhân được lựa chọn ngẫu nhiên ứng dụng ghép 
TBG thu được kết quả 3/13 bệnh nhân chiếm 23% có 
cải thiện AIS (A-C), trong đó nhóm chứng là 3% cải 
thiện A-C sau 1 năm. Theo Yoon và cộng sự 2007, theo 
dõi sau 1 năm có 29,5% trong nhóm cấp tính ghép TBG 
trung mô nguồn gốc tủy xương có mức độ hồi phục thần 
kinh AIS A –B hoặc C [128]. Đánh giá theo thang điểm 
AIS là theo lâm sàng thần kinh, do đó, kết quả đánh giá 
mức độ liệt theo thang điểm AIS không phản ánh mức 
độ thương tổn giải phẫu bệnh. Do thang điểm AIS có 
mức độ phổ rộng nên việc đánh giá bệnh nhân liệt tủy 
hoàn toàn đã làm giảm mức độ thương tổn thực tế trên 
tổn thương giải phẫu bệnh. Đánh giá mức độ tổn thương 
tủy trong mổ, các thành phần của cột sống, dây chằng, 
đĩa đệm... có tầm quan trọng đặc biệt.
Sự hiện diện của TBG ảnh hưởng đến tình trạng 
phục hồi của bệnh nhân là không thể phủ nhận, dù ở bất 
cứ cơ chế hoạt động nào. Ngay cả khi cơ chế của nó chỉ 
là chống viêm, trong các trường hợp CTCS cấp tính, tác 
động này là một trong những điều tốt nhất có thể xảy ra 
cho bệnh nhân tổn thương tủy sống cấp tính, bởi vì viêm 
nhiễm có thể gây ra va chạm, hoại tử và tổn thương thần 
kinh trung ương, dẫn đến tê liệt. Hơn nữa, ngay cả khi 
chúng tôi chỉ cố gắng để đạt hiệu quả duy nhất là chống 
viêm chỉ để làm giảm bớt viêm, tổn thương thần kinh 
trung ương, thì TBG của chính bệnh nhân cũng không 
gây rất bất cứ phản ứng phụ nào trong điều trị bệnh. Tuy 
nhiên, kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
hiệu quả đạt được không chỉ chống viêm. Kết quả còn 
là tái tạo và phục hồi phần tủy sống bị tổn thương với 
sự cải thiện về mặt chiều dài tổn thương theo thời gian, 
tiết điện của nang mô sẹo giảm dần như báo cáo ở trên 
(Bảng 3.6, 3.7). Kết quả này tương tự như kết quả trong 
báo cáo của Reier và cộng sự năm 2004 [12].
Hai cơ chế hướng đến trong điều trị rối loạn chức 
năng bàng quang thần kinh sử dụng TBG. Cơ chế thứ 
nhất liên quan đến việc MSC di chuyển và biệt hóa thành 
Phần 1: Phẫu thuật cột sống
5
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Văn Thạch (2007): “Nghiên cứu điều trị phẫu thuật 
gãy cột sống ngực – thắt lưng không vững, không liệt và liệt 
tủy không hoàn toàn bằng dụng cụ Moss Miami”. Luận án 
tiến sỹ Y học. 
2. Nguyễn Lê Bảo Tiến (2004): “Nghiên cứu kết quả phẫu 
thuật CTCS lưng – thắt lưng bằng vít qua cuống với dụng cụ 
Moss Miami tại bệnh viện Việt đức”. Luận văn tốt nghiệp bác 
sỹ nội trú các bênh viện.
3. Nguyễn Quang Tùng (2011): “Nghiên cứu ứng dụng và 
hoàn thiện quy trình thu gom, xử lý, bảo quản tế bào gốc tạo 
máu dùng cho ghép đồng loại”. Luận án tiến sỹ Y học.
4. Trần Văn Bé (1995): “Chuyên đề nghiên cứu và ứng dụng 
tế bào gốc ở Việt Nam: Ca ghép tủy đầu tiên ở Việt Nam”. 
Tạp trí y dược học.
5. Nguyễn Thị Thu Hà (2004), “Tế bào gốc và ứng dụng trong 
y sinh học”, TCNCYH phụ bản 32(6): tr. 13-26.
6. Park HS, Park HC, Shim YS et al (2005): “Treatment 
of complete spinal cord injury patients by autologous 
bone marrow cell transplantation and administration of 
granulocyte-macrophage colony stimulating factor”. TISSUE 
ENG; 11:913–922
7. Saito F, Nakatani T, Iwase M et al (2008): “Spinal cord 
injury treatment with intrathecal autologous bone marrow 
stromal cell transplantation: The first clinical trial case 
report”. J TRAUMA; 64:53–59.
8. Yoon SH, Shim YS, Park YH et al (2007): “Complete spinal 
cord injury treat- ment using autologous bone marrow 
cell transplantation and bone marrow stimulation with 
granulocyte macrophage-colony stimulating factor: phase I/II 
clinical train”. STEM CELLS ;25:2066–2073.
9. Lammertse DP, Jones LAT et la (2012) “Autologous 
incubated macrophage therapy in acute, complete spine 
cơ trơn để phục hồi bàng quang bị hư hỏng. Cơ chế thứ 
hai liên quan đến sự điều khiển co thắt cơ vòng niệu đạo 
bởi vỏ não. SCI làm gián đoạn sự dẫn truyền các tín hiệu 
thần kinh điều khiển co thắt niệu đạo. Việc phục hồi tủy 
sống tổn thương bởi MSC giúp khôi phục đáp ứng dẫn 
truyển từ vỏ não đến tủy sống dẫn đến việc khôi phục 
quản lý sự co thắt của cơ vòng bởi vỏ não. Phương pháp 
tiêm MSC có thể duy trì kết quả hồi phục bàng quang 
lâu dài (Bảng 3.8, 3.9).
Các nguồn ghép TBG đã được chứng minh để thay 
thế tế bào thần kinh chủ, tăng cường sợi trục tăng trưởng 
và cải thiện phục hồi chức năng thành công ở trên nhiều 
mô hình chuột CTCS. Trong đó TBG trung mô thời gian 
gần đây được xem như là một nguồn tiềm năng để sửa 
chữa tế bào sau khi hệ thống thần kinh trung ương (CNS) 
bị tổn thương. Tuy nhiên, việc áp dụng liệu pháp TBG 
trung mô trong điều trị chấn thương cột sống phải đối 
mặt với rất nhiều thách thức như việc lựa chọn mô hình 
CTCS, thời gian và phương thức cấy ghép, vị trí tiêm tế 
bào, sự tồn tại của tế bào và quá trình chuyển biệt hóa, 
sự thải loại miễn dịch và sự theo dõi tế bào cấy ghép 
[13]. Với phương pháp ghép TBG bằng con đường tiêm 
trực tiếp vào vị trí tổn thương trong chấn thương cấp 
tính, chỉ có một lượng nhỏ TBG có thể tồn tại, một số 
thậm chí phân hóa thành những tế bào astrocyte do vi 
môi trường không thuận lợi được tạo ra ngay sau chấn 
thương cột sống [17]. Tuy nhiên, việc tiêm trực tiếp vào 
tủy sống ngay lập tức sau tổn thương đã được chứng 
minh là có cải thiện đáng kể về mặt chức năng với việc 
giảm tế bào chết theo chu trình, giảm astrogliosis và 
myelin hóa. 6.5% đau lưng, 3.2% đau đầu, 3.2% bồn 
chồn, 6.5% sốt được ghi nhận trong thời gian 6 tiếng sau 
tiêm trực tiếp tế bào vào vùng tổn thương trong nghiên 
cứu này (Bảng 3.10). Không có tác dụng không mong 
muốn nghiêm trọng như co thắt khí quản, buồn nôn, sốc, 
tăng nhịp tim được báo cáo. Kết quả tương tự cũng được 
tìm thấy trong nhiều báo cáo lâm sàng khác trên thế giới. 
Điều này có thể khẳng định việc cấy ghép TBG bằng 
con đường tiêm trực tiếp an toàn [14],[15],[16].
V. KẾT LUẬN
Có sự hồi phục thần kinh sau ghép trên lâm sàng và 
cận lâm sàng. Thay đổi có ý nghĩa thống kê về chiều 
rộng tủy và ống sống trên cộng hưởng từ. Đặc biệt là 
nâng cao chất lượng cuộc sống có ý nghĩa thông kê so 
với nhóm chứng.Cấy ghép TBG là phương pháp mới và 
bước đầu ghi nhận được những kết quả nhất định trong 
điều trị CTCS liệt tủy hoàn toàn. Tuy nhiên, cần nghiên 
cứu với số lượng mẫu lớn hơn. Việc kết hợp phục hồi 
chức năng và chăm sóc niệu sau ghép là cần thiết để duy 
trì kết quả điều trị. 
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016
6
cord injury: results of the phase 2 randomized controlled 
multicenter trial.”. SPINAL CORD: 50, 661-671.
10. Sang Han Kim et la (2013). “Autologous Adipose Dirived 
MSCs Trasplantation in Patient With Spinal Cord Injury” 
Clinical trial study.
11. O.C.K. Kirshblum SC (1998). Predicting neurologic 
recovery in traumatic cervical spinal cord injury, Arch Phys 
Med Rehabil, 79 - 11.
12. P.J. Reier (2004). Cellular Transplantation Strategies for Spinal 
Cord Injury and Translational Neurobiology, American Society 
for Experimental NeuroTherapeutics, 1 (2004) 424 – 451.
13. K.K.V. Venkata Ramesh Dasari, Dzung H Dinh (2014). 
Mesenchymal stem cells in the treatment of spinal cord 
injuries: A review, World J Stem Cells, (6) 120-133.
14. S.Y. Y Ha, SR Park,et al (2004). Treatment of Complete 
Spinal Cord Injury Patients Receiving Autologous Bone 
Marrow Cell Transplantation and Bone Marrow Stimulation 
with Granulocyte Macrophage-Colony Stimulating Factor: 
Report of Three Cases, J Korean Neurosurg Soc, 35 (2004).
15. G.A. N Knoller, V Fulga, et al (2005), Clinical experience 
using incubated autologous macrophages as a treatment 
for complete spinal cord injury: phase I study results, J 
Neurosurg Spine, 3. 
16. F.F. L Mazzini, R Boccaletti, et al. (2003). Stem cell therapy 
in amyotrophic lateral sclerosis: a methodological approach 
in humans, Amyotroph Lateral Scler Other Motor Neuron 
Disord, 4

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_ket_qua_nghien_cuu_ung_dung_ghep_te_bao_goc_tuy_xuo.pdf