Đánh giá kết quả lọc máu liên tục tại khoa hồi sức tích cực Bệnh viện Đa khoa trung tâm An Giang

Đặt vấn đề: Lọc máu liên lục (CRRT) là một tập hợp nhiều phương thức lọc máu nhằm

lọc bỏ ra khỏi máu một cách từ từ và liên tục các chất độc trong đó bao gồm các cytokin.

Nhiều tác giả cũng cho rằng việc lọc máu liên tục giúp cải thiện huyết động, ngăn chặn

sự tiến triển của suy đa tạng trong giai đoạn sớm và hỗ trợ chức năng tạng, kiểm soát cân

bằng kiềm toan, điện giải, thanh thải các chất hòa tan trong giai đoạn muộn. Trên thế

giới, CRRT đã được ứng dụng rộng rãi, trở nên phổ biến trong các khoa Hồi sức. Tại Việt

Nam, CRRT được ứng dụng ở một số bệnh viện trong những năm gần đây. Tại bệnh viện

ĐKTT An Giang, mặc dù CRRT được áp dụng từ năm 2011 nhưng vẫn chưa có đánh giá

kết quả một cách khoa học và đó là mục tiêu của đề tài.

Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả ứng dụng quy trình kỹ thuật lọc máu

liên tục tại khoa Hồi sức và một số biến chứng có thể xảy ra trong quy trình kỹ thuật lọc

máu

Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 17 bệnh nhân được chỉ định

lọc máu liên tục tại khoa Hồi sức- Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang.

pdf 7 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá kết quả lọc máu liên tục tại khoa hồi sức tích cực Bệnh viện Đa khoa trung tâm An Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả lọc máu liên tục tại khoa hồi sức tích cực Bệnh viện Đa khoa trung tâm An Giang

Đánh giá kết quả lọc máu liên tục tại khoa hồi sức tích cực Bệnh viện Đa khoa trung tâm An Giang
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 118 
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ LỌC MÁU LIÊN TỤC TẠI KHOA HỒI SỨC 
TÍCH CỰC BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG TÂM AN GIANG 
 Lê Hồ Tiến Phương, Trần Thị Tiểu Thơ, 
 Phù Kỳ Thạnh, Lê Trường Kha 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Lọc máu liên lục (CRRT) là một tập hợp nhiều phương thức lọc máu nhằm 
lọc bỏ ra khỏi máu một cách từ từ và liên tục các chất độc trong đó bao gồm các cytokin. 
Nhiều tác giả cũng cho rằng việc lọc máu liên tục giúp cải thiện huyết động, ngăn chặn 
sự tiến triển của suy đa tạng trong giai đoạn sớm và hỗ trợ chức năng tạng, kiểm soát cân 
bằng kiềm toan, điện giải, thanh thải các chất hòa tan trong giai đoạn muộn. Trên thế 
giới, CRRT đã được ứng dụng rộng rãi, trở nên phổ biến trong các khoa Hồi sức. Tại Việt 
Nam, CRRT được ứng dụng ở một số bệnh viện trong những năm gần đây. Tại bệnh viện 
ĐKTT An Giang, mặc dù CRRT được áp dụng từ năm 2011 nhưng vẫn chưa có đánh giá 
kết quả một cách khoa học và đó là mục tiêu của đề tài. 
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả ứng dụng quy trình kỹ thuật lọc máu 
liên tục tại khoa Hồi sức và một số biến chứng có thể xảy ra trong quy trình kỹ thuật lọc 
máu 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 17 bệnh nhân được chỉ định 
lọc máu liên tục tại khoa Hồi sức- Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang. 
Kết quả: 17 bệnh nhân nặng tại khoa thỏa tiêu chuẩn chọn và tiêu chuẩn loại trừ được 
đưa vào nghiên cứu. Điểm APACHE II: 23,06 ± 11,486, và SOFA: 9,35 ± 4,076. Trong 
quá trình lọc máu cải thiện điểm SOFA có ý nghĩa, đồng thời chức năng thận được phục 
hồi (Ure, Creatinin trước và sau lọc), thăng bằng kiềm toan cải thiện tốt hơn, tỉ lệ tử vong 
5/17 (29,4%) thấp hơn so với tiên lượng tử vong theo SOFA ban đầu (50%) và APACHE 
II (40%). Biến chứng kỹ thuật thường xảy ra là đông màng, không có biến chứng nặng khi 
lọc máu. 
Kết luận: Việc áp dụng CRRT sớm cho thấy hiệu quả trong điều trị bệnh nhân tại khoa 
Hồi sức, giúp cải thiện về mặt lâm sàng và cận lâm sàng đồng thời làm giảm tỷ lệ tử 
vong. 
ABSTRACT 
Background: Continuous Renal Replacement Therapy (CRRT) is a set of many dialysis 
methods that slowly and continuously filters out of the toxin including cytokines. Many 
authors also believe that CRRT helps to improve hemodynamic, prevent the progression 
of early multi-organ failure and support organ function, control alkaline balance, 
electrolytes, and clear solute in the late stage. All over the world, CRRT has been widely 
used, becoming popular in Intensive Care Unit. In Vietnam, CRRT has been applied in 
some hospitals in recent years. At An Giang Central General Hospital, although CRRT 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 119 
has been applied since 2011, the results have not been scientifically evaluated and that is 
the aim of this study. 
Reasearch objectives: Evaluate the effectiveness of the CRRT’s application in Intensive 
Care Unit and investigate possible complications during CRRT. 
Method: The cross-sectional study of 17 patients who were indicated to CRRT in 
Intensive Care Unit. 
Result: In this study with 17 patients, the average APACHE II Score and SOFA Score 
respectively is: 23.06 ± 11.448, 9.35 ± 4.076. During the CRRT process, there was a 
significant improvement in SOFA, renal function is restored concurrently (change in 
urea, creatinine before and after CRRT), acid-base balance was adjusted to normal, 
mortality rate was 5/17 (29.4%) lower than prognosis of initial SOFA (50%) and 
APACHE II (40%). Premature circuit clotting is a major complication in practice of 
CRRT and no other serious complications during CRRT in this study. 
Conclusion: Applying CRRT timely has been shown the effectiveness of treatment in 
Intensive Care Unit, helping to improve clinical and subclinical conditions while 
reducing mortality. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
 Lọc máu liên tục ra đời từ năm 1977 đã được áp dụng ngày càng rộng rãi, từ đó đến 
nay đã không ngừng phát triển về mặt kỹ thuật cũng như chỉ định trên lâm sàng. Hiện nay 
đối với chuyên ngành hồi sức cấp cứu thì CRRT là một trong hai trụ cột bên cạnh thở máy 
đã phát triển từ lâu. CRRT là tập hợp nhiều phương thức lọc nhằm lọc bỏ ra khỏi máu 
một cách từ từ và liên tục các chất độc, bên cạnh đó CRRT còn giúp điều hòa dịch, điện 
giải và cân toan kiềm một cách hiệu quả và sinh lý. Đầu tiên, CRRT phát triển nhằm mục 
đích thay thế thận nhưng dần dần đã chuyển sang mục tiêu hỗ trợ đa cơ quan với rất nhiều 
phương thức, trong đó có cả những phương thức không mang tính liên tục như thay thế 
huyết tương, lọc máu hấp phụ. CRRT đã giúp chuyên ngành hồi sức giải quyết được 
những tình huống khó như sốc nhiễm khuẩn, suy đa tạng, ARDS, viêm tụy cấp, ngộ độc 
cấp,Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu ứng dụng CRRT trong lâm sàng như: Nghiên 
cứu của Ronco C, Zhang Y và cs, Boussekey N và cs,...Tại Việt Nam, CRRT cũng được 
áp dụng một cách rộng rãi trong nhiều trường hợp, và cũng đã có nhiều nghiên cứu về 
CRRT như: Nghiên cứu “ Đánh giá hiệu quả lọc máu liên tục trong sốc nhiễm khuẩn” của 
Phạm Thị Ngọc Thảo (2012), nghiên cứu của Nguyễn Gia Bình. Năm 2011, bệnh viện 
ĐKTT An Giang bắt đầu triển khai CRRT nhưng chưa có một nghiên cứu cụ thể về tính 
hiệu quả của nó trên lâm sàng, vì vậy chúng tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá kết quả lọc 
máu liên tục tại Khoa Hồi sức tích cực Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang”. 
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI 
1. Đánh giá hiệu quả áp dụng quy trình kỹ thuât lọc máu liên tục tại khoa hồi sức. 
2. Một số biến chứng có thể xảy ra khi áp dụng quy trình lọc máu liên tục. 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 120 
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
 - Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang 
 - Đối tượng nghiên cứu: 
 + Tiêu chuẩn chọn bệnh: Tất cả bệnh nhân được chỉ định lọc máu liên tục tại khoa 
hồi sức bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang 
 + Thời gian từ 03/2019 đến 09/2019 
 + Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân, người thân của bệnh nhân không đồng ý lọc máu 
liên tục. 
 - Đo lường các biến: 
 + Đặc điểm chung: Mã bệnh án, họ tên, tuổi, giới, chẩn đoán theo ICD 10 
 + Thang điểm SOFA (trước và sau lọc máu), APACHE II 
 + Các chỉ số cận lâm sàng trước và sau lọc máu như: ure, creatinin, pH máu, HCO3- 
máu. 
 + Thời gian lọc máu, thời gian nằm viện 
 + Kết cục: tốt (ra viện, đỡ giảm), xấu (tử vong, nặng về, về không đổi) 
 - Thống kê bằng phần mềm SPSS 22.0. 
4. KẾT QUẢ 
 Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
 Có 17 bệnh nhân được lọc máu liên tục, kết cục tốt 12/17 ca (70,6%), xấu 5/17 ca 
(29,4%). Trong đó, viêm tụy cấp 6/17, sốc nhiễm trùng 6/17, ngộ độc 2/17, đái tháo 
đường có uống thuốc gia truyền 3/17. 
 Tuổi trung bình: 61,59 ± 19,21(tuổi), thấp nhất 30 tuổi, cao nhất 92 tuổi. 
 Tỉ lệ nam/nữ: 9/8. 
 Thời gian nằm viện trung bình: 10,18 ± 6,55 ngày. 
 Thời gian lọc máu liên tục: 21,82 ± 10,82 giờ. 
 Thay đổi của thang điểm SOFA và APACHE II 
 Chung Tốt Xấu 
SOFA 9,35 ± 4,076 7,5 ± 3,317 13,8 ± 1,095 
APACHE II 23,06 ± 11,486 18,17 ± 7,284 34,8 ± 7,284 
 Bảng 1. Độ nặng của bệnh nhân trước lọc máu: theo thang điểm 
 SOFA và APACHE II 
 Nhận xét: Bệnh nhân có điểm SOFA (9,35) thì tỉ lệ tử vong của nhóm chung là 50%, 
còn APACHE II (23,06) là 40% 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 121 
 Chung Tốt Xấu 
SOFA sau lọc 5,47 ± 4,584 3,58 ± 3,423 10 ± 3,937 
 Bảng 2. Thang điểm SOFA sau lọc máu và giá trị cải thiện 
 Biểu đồ 1: Sự thay đổi điểm SOFA trước và sau CRRT 
Nhận xét: Điểm SOFA trước và sau lọc máu có cải thiện trong cả 3 nhóm 
với p<0.001. 
Sự thay đổi thăng bằng toan kiềm và chức năng thận 
Biểu đồ 2. Chức năng thận trước và sau lọc máu 
P<0.001 
P=0.006 P=0.002 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 122 
 Nhận xét: Ure (mmol/L), Creatinin (umol/Lsau lọc máu có giảm. Chức năng thận 
cải thiện sau lọc máu có ý nghĩa thống kê 
 Biểu đồ 3. Tình trạng toan kiềm trước và sau lọc máu: 
 Nhận xét: pH, HCO3- sau và trước lọc máu khác biệt ý nghĩa. Toan chuyển hóa cải 
thiện. 
 Biến chứng của CRRT 
 Biến chứng kỹ thuật 
 Đông màng, đông dây là biến chứng thường gặp với tỷ lệ 5/17 (29,4%). Các 
biến chứng khác ít gặp 
 Biến chứng chảy máu 
 Trong quá trình lọc máu không ghi nhận trường hợp nào có biến chứng xuất 
huyết. Có rối loạn chỉ số APTT nhưng khi kết thúc lọc máu trở lại giới hạn bình thường. 
5. BÀN LUẬN 
1. Đặc điểm chung của bệnh nhân nghiên cứu 
Có 17 bệnh nhân (viêm tụy cấp 6/17, sốc nhiễm trùng 6/17, ngộ độc 2/17, Đái tháo đường 
có uống thuốc gia truyền 3/17) được lọc máu liên tục đưa vào nghiên cứu, các bệnh nhân 
có đặc điểm: tuổi trung bình cao (61,59 ± 19,21 tuổi, cao nhất 92 tuổi, thấp nhất 30 tuổi), 
giới: nam 52,9%, nữ 47,1%, điểm SOFA cao (9,35 ± 4,076 tiên lượng tử vong 50%), và 
APACHE II cao (23,06 ± 11,486 tiên lượng chết 40%). Sau lọc máu, tỉ lệ xấu (chết, về 
nặng) là 5/17 (29,4%) thấp hơn giá trị tiên lượng tử vong theo điểm SOFA và APACHE 
P=0.002 P=0.003 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 123 
II. Ở bảng 1, ta thấy điểm APACHE II trung bình ở nhóm tử vong rất cao (34,8 ± 7,284). 
So với nghiên cứu của Shahawy A [13] thì APACHE II >26 điểm không bệnh nhân nào 
sống sót, và nhiều tác giả khác [9], [10], [11], [12], [14]. 
 2. Hiệu quả của lọc máu liên tục 
 Chúng tôi sử dụng điểm SOFA để đánh giá sự phục hồi chức năng các cơ quan. 
Điểm SOFA được đánh giá ban đầu và sau lọc máu. Điểm SOFA ở bảng 2 giảm ở cả 
nhóm kết cục xấu và tốt, giảm nhiều ở nhóm tốt, mức giảm này có ý nghĩa thống kê. Kết 
quả tương đương với nghiên cứu của Phạm Thị Ngọc Thảo [6], và các tác giả khác [1], 
[5], [7], [9]. 
 Lọc máu liên tục giúp thay thế thận và tăng khả năng phục hồi chức năng thận, có 
tác dụng thanh thải tốt urê và creatinin. Giảm tổn thương thận, cải thiện được thể tích 
nước tiểu là do giảm được nồng độ cytokin trong máu [3], [7], [8], trong nghiên cứu của 
chúng tôi không khảo sát sự thay đổi các cytokin. Bảng 3 trong nghiên cứu cho thấy cải 
thiện chức năng thận qua nồng độ urê và creatinin máu có giá trị, giảm rõ rệt ở nhóm 
sống. Kết quả này cũng này cũng phù hợp với nhiều nghiên cứu khác. 
 Tình trạng toan chuyển hóa cải thiện, pH và HCO3- trung bình trước lọc máu chung 
lần lượt 7,199 ± 0,198 và 12,673 ± 7,423 tăng lên sau lọc máu 7,328 ± 0,125 và 17,129 ± 
7,769, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Trong bảng 4, chúng tôi thấy tình trạng toan 
chuyển hóa được điều chỉnh rõ rệt ở nhóm sống. Nhiều nghiên cứu trước đây cũng đã 
chứng tỏ khả năng này của CRRT như nghiên cứu của Vũ Đức Định, Nguyễn Gia Bình[7] 
và các tác giả khác [1], [3], [5], [6] 
 3. Biến chứng của lọc máu liên tục 
 Trong quá trình lọc máu ghi nhận 5/17 (29,4%) ca đông màng, đông dây. Kết quả 
này cao hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Gia Bình là 20,3%[1]. Có rối loạn chỉ số 
APTT, khi kết thúc lọc máu, APTT từ từ trở về bình thường. Trong quá trình CRRT 
không ghi nhận trường hợp nào có biến chứng xuất huyết và các biến chứng nặng khác. 
6. KẾT LUẬN 
 Qua kết quả nghiên cứu này cho thấy CRRT là phương pháp điều trị hiệu quả cho các 
bệnh nhân nặng tại khoa hồi sức giúp ổn định huyết động, cải thiện chức năng thận, kiểm 
soát tốt các rối loạn cân bằng kiềm toan, đồng thời làm giảm tỷ lệ tử vong trên các bệnh 
nhân này. Điểm SOFA giảm có ý nghĩa trong nghiên cứu này, chức năng thận cải thiện rõ 
rệt cùng với thăng bằng kiềm toan được kiểm soát tốt hơn. Quy trình áp dụng kỹ thuật lọc 
máu liên tục được thực hiện an toàn chỉ xảy ra các biến chứng nhỏ không đáng kể, sự cố 
về kỹ thuật như đông màng xảy ra nhiều hơn, không có trường hợp nào xảy ra biến chứng 
xuất huyết. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
 1. Hoàng Văn Quang, Lê Bảo Huy (2013). Đáp ứng với lọc máu liên tục trong điều trị 
suy đa tạng do sốc nhiễm khuẩn. Y học TP. Hồ Chí Minh, 17 (Phụ bản của Số 3):113-
118. 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2019 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 124 
 2. Huỳnh Văn Ân và cs (2017). Hiệu quả của lọc máu liên tục CVVH trong điều trị 
viêm tụy cấp nặng. Kỷ yếu hội nghị khoa học thường niên Hội hồi sức cấp cứu TP HCM 
(T4-2017):72-76 
 3. Lê Thị Mỹ Duyên, Trần Thị Bích Hương (2011). Vai trò của lọc máu liên tục trong 
điều trị suy thận cấp tại khoa hồi sức tích cực. Y học TP. Hồ Chí Minh, 15 (Phụ bản của 
Số 1):453-460. 
 4. Nguyễn Gia Bình, Nguyễn Mạnh Tưởng (2006): ”Nghiên cứu hiệu quả chống đông 
của heparin trong lọc máu liên tục”, Tạp chí y học lâm sàng, 11: 30- 33. 
 5. Nguyễn Thị Trúc Thanh (2014). Hiệu quả của liệu pháp lọc máu liên tục trong điều 
trị viêm tụy cấp nặng. Y học TP. Hồ Chí Minh, 18 (Phụ bản của Số 2): 403-407. 
 6. Phạm Thị Ngọc Thảo, Nguyễn Gia BÌnh, Đặng Quốc Tuấn, Trần Thanh Cảng 
(2012). Đánh giá kết quả áp dụng kỹ thuật lọc máu liên tục trong điều trị sốc nhiễm 
khuẩn. Y học TP. Hồ Chí Minh, 16 (Phụ bản của Số 2):145-157. 
 7. Vũ Đức Định, Đỗ Tất Cường, Nguyễn Gia Bình (2011). Nghiên cứu hiệu quả của 
liệu pháp lọc máu liên tục trong viêm tụy cấp nặng. Y học thực hành, 783 (9):25-28. 
 8. Boussekey N, Chiche A, Faure K, Devos P, Guery B, Escrivan T, Georges H, Leroy 
O (2008), “ A pilot randomized study comparing high and low volume hemofiltration on 
vasopressor use in septic shock”, Intensive Care Med, 34,pp.1646–1653. 
 9. Janssens U, Graf C., Graf J, Radke PW, Konigs B, Kock K.Ch,Lepper W, Dahl J.V, 
Hanrath P (2000), ʺEvaluation of the SOFA score: a single –center experience of a 
medical intensive care unit in 303 consecutive patients with predominantly cardiovascular 
disordersʺ, Intensive Care Med, 26, pp.1037‐1045. 
 10. Lafuente E, Marinho A, Bartolo A, Milheiro R (1997): “Effects of the continuous 
venovenous haemofiltration, in the haemodynamic profile of shock septic patients”, 
Critical Care, 1(suppl 1): 068. 
 11. Pinsky MR, Vincent JL, Deviere J, Alegre M, Kahn RJ, Dupont E (1993): “Serum 
cytokine levels in human septic shock. Relation to multiple-system organ failure and 
mortality”, Chest, 103: 565-575. s57 
 12. Ronco C, Bellomo R, Ricci Z (2002): “Important of increased ulfiltration volume 
and impact on mortality: sepsis and cytokine story and the role for CVVH”, 
EDTNA/ERCA Dialysis Technology Journal Club, (suppl 2): 13-19. 
 13. Shahawy A., Lourdre U. & Badillo E. (1998). Severity of illness scores and the 
outcome of acute renal failure. Clinical Nephrology, 313, 124. 
 14. Saudan P., Niederberger M. & Seigneux S. (2006). Adding a dialysis dose to 
continuous hemofiltration increases survival in patients with acute renal failure. Kidney 
international 70, 1312-1317. 
 15. Zhang Y, Shao DR, He ZP, Ma XX, Shi CJ. Efficacy of continuous renal 
replacement on acute renal injury developed in severe sepsis. J Biol Regul Homeost 
Agents. 2019 Mar-Apr;33(2):525-530. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_ket_qua_loc_mau_lien_tuc_tai_khoa_hoi_suc_tich_cuc.pdf