Đánh giá kết quả điều trị u gan nguyên phát bằng sóng cao tần dưới hướng dẫn của phẫu thuật nội soi và siêu âm tại Bệnh viện Thanh Nhàn
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị u bằng sóng cao tần tại Bệnh viện Thanh Nhàn.
Đối tượng và phương pháp: Mô tả hồi cứu trường họp ung thư gan nguyên phát, đa ổ và kích thước lớn
được điều trị bằng nhiệt sóng cao tần đa điện cực tại bệnh viện Thanh Nhàn từ tháng 01/2016 đến tháng
12/2018.
Kết quả: Trong 30 trường hợp nhóm nghiên cứu có 22 trường hợp phẫu thuật nội soi, 08trường hợp hợp
RFA qua siêu âm. 08 trường hợp can thiệp phối hợp.100% vùng đốt bao trùm toàn bộ khối u trên CT scaner.Tỷ
lệ có tai biến là 13,3%. Có 2/30 trường hợp phát hiện tái phát sau 6 tháng. Thời gian sống trung bình:
12,9 ± 5,3 tháng.
Kết luận: Đốt nhiệt u bằng sóng cao tần là phương pháp khả thi cho các trường hợp ung thư tế bào gan
không còn chỉ định phẫu thuật. Nó đã và đang ngày càng được áp dụng rộng rãi ở nước ta trong điều trị ung
thư tế bào gan từ các bệnh viện tuyến tỉnh đến trung ương.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả điều trị u gan nguyên phát bằng sóng cao tần dưới hướng dẫn của phẫu thuật nội soi và siêu âm tại Bệnh viện Thanh Nhàn
TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 288 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ U GAN NGUYÊN PHÁT BẰNG SÓNG CAO TẦN DƯỚI HƯỚNG DẪN CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI VÀ SIÊU ÂM TẠI BỆNH VIỆN THANH NHÀN ĐÀO QUANG MINH1, VŨ THÀNH CHUNG2, TRẦN TRUNG KIÊN3 TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị u bằng sóng cao tần tại Bệnh viện Thanh Nhàn. Đối tượng và phương pháp: Mô tả hồi cứu trường họp ung thư gan nguyên phát, đa ổ và kích thước lớn được điều trị bằng nhiệt sóng cao tần đa điện cực tại bệnh viện Thanh Nhàn từ tháng 01/2016 đến tháng 12/2018. Kết quả: Trong 30 trường hợp nhóm nghiên cứu có 22 trường hợp phẫu thuật nội soi, 08trường hợp hợp RFA qua siêu âm. 08 trường hợp can thiệp phối hợp.100% vùng đốt bao trùm toàn bộ khối u trên CT scaner.Tỷ lệ có tai biến là 13,3%. Có 2/30 trường hợp phát hiện tái phát sau 6 tháng. Thời gian sống trung bình: 12,9 ± 5,3 tháng. Kết luận: Đốt nhiệt u bằng sóng cao tần là phương pháp khả thi cho các trường hợp ung thư tế bào gan không còn chỉ định phẫu thuật. Nó đã và đang ngày càng được áp dụng rộng rãi ở nước ta trong điều trị ung thư tế bào gan từ các bệnh viện tuyến tỉnh đến trung ương. Từ khóa: Ung thư tế bào gan, đốt nhiệt sóng cao tần. 1 PGS.TS. Giám Đốc Bệnh viện Thanh Nhàn, Hà Nội 2 BSCKII. Bệnh viện Thanh Nhàn, Hà Nội 3 BS. Bệnh viện Thanh Nhàn, Hà Nội ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư gan, chủ yếu là ung thư biểu mô tế bào gan (gọi tắt là ung thư tế bào gan - UTTBG), là một trong những loại ung thư thường gặp nhất và là nguyên nhân gây tử vong do ung thư đứng hàng thứ ba, sau ung thư phổi và ung thư dạ dày. Việt Nam nằm trong số những quốc gia có tỷ lệ mắc UTTBG cao nhất thế giới. UTTBG là loại ung thư có tiên lượng xấu, phần lớn số trường hợp phát hiện bệnh ở giai đoạn tiến triển hoặc giai đoạn muộn, không phù hợp với các phương pháp điều trị triệt cĕn như phẫu thuật cắt gan, ghép gan. Cho tới nay, phẫu thuật vẫn được xem là phương pháp điều trị tối ưu cho UTTBG. Tuy nhiên phương pháp này chỉ có thể áp dụng cho khoảng 20 - 30% số trường hợp tại thời điểm chẩn đoán. Do vậy phần lớn bệnh nhân HCC được điều trị bằng các phương pháp không phẫu thuật. Trong đó các phương pháp loại bỏ khối u bằng tác nhân vật lý, hóa học được sử dụng rộng rãi. Nĕm 1993 Rossi báo cáo lần đầu tiên phương pháp điều trị khối u gan bằng đốt sóng cao tần qua da dưới hướng dẫn của siêu âm. Nghiên cứu khác của Bilchik 2001 chỉ ra rằng đốt gan kết hợp phẫu thuật mở hoặc nội soi cho những bệnh nhân có khối u gan đa ổ, kích thước lớn sẽ đạt hiệu quả tối ưu. Tháng 8/2002 tại khoa Tiêu hóa Bệnh viện Bạch Mai, phương pháp điều trị ung thư gan bằng nhiệt sóng cao tần được tiến hành cho khá nhiều bệnh nhân. Tháng 3/2003, Lê Lộc thực hiện điều trị khối u gan và di cĕn gan lên tới trên 10cm bằng RFA qua mổ mở không có biến chứng, đạt kết quả tốt[1,2,3,4]. Bệnh viện Thanh Nhàn đã ứng dụng sóng cao tần điều trị u gan và di cĕn gan qua da dưới hướng dẫn của siêu âm và kết hợp phẫu thuật từ nĕm 2010 bước đầu cho kết quả khả quan. Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả điều trị u bằng sóng cao tần tại Bệnh viện Thanh Nhàn từ 01/2016 - 12/2018. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Gồm 30 bệnh nhân ung thư gan nguyên phát, đa ổ và kích thước lớn được điều trị đốt khối ung thư gan bằng nhiệt sóng cao tần đa điện cực kết hợp với phẫu thuật tại Bệnh viện Thanh Nhàn từ tháng 01/2016 đến tháng 12/2018. TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 289 Mẫu nghiên cứu gồm Nhóm 1: Các trường hợp được điều trị bằng sóng cao tần kết hợp siêu âm. Nhóm 2: Các trường hợp điều trị bằng sóng cao tần kết hợp phẫu thuật nội soi. Nghiên cứu hồi cứu, mô tả cắt ngang, không đối chứng. Các số liệu xử lý trên phần mềm SPSS 20.0. Thời gian sống thêm được tính theo phương pháp Kaplan - Meier. KẾT QUẢ Đặc điểm RFA Bảng 1. Cách thức tiếp cận u Cách thức N % RFA qua NS 08 26,7 RFA qua SA 21 70,0 RFA mở (SA) 01 3,3 ∑ 30 100 Bảng 2. Can thiệp phối hợp Can thiệp N % Cắt túi mật 03 10 Mở OMC lấy sỏi 02 6,7 Dẫn lưu túi mật 05 16,7 Cầm máu khối u gan vỡ 01 3,3 Bảng 3. Thay đổi u trên CTScanner sau đốt Chỉ số N % Vùng đốt bao trùm ngoài khối u > 1cm 25 62,5 Vùng đốt bao trùm khối u 15 37,5 Vùng đốt bao không bao trùm hết khối u 00 00 ∑ 40 100 Bảng 4. Tai biến của RF Tai biến N % Chảy máu 02 6,7 Thủng tạng rỗng 00 00 Tràn dịch màng phổi 01 3,3 Vỡ u 00 00 Suy gan 01 3,3 Kết quả tái khám và thời gian sống sau mổ Bảng 5. Kết quả cắt lớp vi tính Hình ảnh N % 1 tháng 3 tháng 1 tháng 3 tháng Vùng hoại tử vượt quá u 1m 21 16 70 69,6 Vùng hoại tử không vượt quá u 09 07 30 30,4 Còn u chưa hoại tử 00 00 00 00 N 30 23 100 100 Bảng 6. Thời gian sống sau mổ Thời gian N % <3 tháng 00 00 3 - 6 tháng 02 6,7 6 - 12 tháng 09 30,0 >12 tháng 19 63,3 Trung bình 12,9 tháng BÀN LUẬN Trong nghiên cứu của chúng tôi chia làm 2 nhóm là nhóm PTNS (26,7%) và nhóm RFA qua siêu âm có navigation 21/30 trường hợp (70%), có một trường hợp nội soi chuyển mở vì tình trạng ổ bụng dính. Theo nghiên cứu của tác giả Zenichi Morise (2014) có 34 trường hợp RFA qua nội soi thời gian sống trung bình 16,9 ± 8,3 tháng, không có tử vong liên quan đến các biến chứng phẫu thuật, sống thêm 14,7 ± 6,9 tháng, tỷ lệ tái phát trong gan 61,8%. Phẫu thuật nội soi RFA là phương pháp xâm lấn tối thiểu ít gây rối loạn chức nĕng gan[5]. Có 22 khối u chỉ với một lần RF chiếm 55%, 13 khối u với 2 lần RF (32,5%), tỷ lệ nhóm u có từ 3 lần RF là 12,5% đây là các khối u lớn. Theo nghiên cứu của tác giả Yamakado K. Nakasuka A (2003) thì với u có kích thước từ 5 - 7cm cần ít nhất 2 lần đốt để đảm bảo vùng hoại tử vượt quá u ngay cả với kim đa điện cực[6]. Thời gian RF trung bình của nhóm u dưới 5cm là 18 ± 2,3 phút, nhóm u 5 - 7cm là 25 ± 5,1 phút và nhóm u trên 7cm là 33 ± 6.4 phút. Tác giả Shiina S, Teratani T (2005)với 52 trường hợp có khối u dưới 5cm, nhiệt độ tối đa thường duy trì trong 8 phút 1 lần và tiếp tục đốt sóng sau khi rút kim lên 1,5cm, thời gian đốt sóng trung bình là 14,1 ± 8,2 (8 - 48 phút). So với các tác giả khác thời gian trung bình của chúng tôi thấp hơn do sử dụng đầu đốt đa điện cực. TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 290 Trong 8 trường hợp có can thiệp phối hợp, 02 trường hợp có sỏi mật được cắt túi mật mở ống mật chủ lấy sỏi dẫn lưu Kehr, 05 trường hợp xơ gan Child B có vàng da tĕng Bilirubin trước mổ nhiều chúng tôi chủ động dẫn lưu túi mật để giảm nguy cơ ứ mật gây suy gan. Ngoài ra có 1 trường hợp u gan vỡ trên nền gan xơ Child B không thể cắt gan chúng tôi phẫu thuật cầm máu và đốt u gan, nhận xét trong mổ cho thấy RFA không những làm đông vón mô u mà còn giúp tĕng khả nĕng cầm máu. Theo các tác giả Murakami T., Imai Y., Okada M., et al. (2011) chụp cắt lớp vi tính thường được tiến hành ngay sau khi đốt nhiệt và ở các thời điểm sau 1, 3, 6, 9, 12 tháng trong nĕm đầu tiên, 6 tháng 1 lần ở những nĕm sau. Tuy vậy nhằm đánh giá sớm hiệu quả điều trị các trường hợp được chụp CT Scanner sau khi đốt sóng cao tần 5 ngày. Có 18 trường hợp (60%) không ngấm thuốc, vùng đốt bao trùm ngoài khối u và 12 trường hợp (40%) vùng đốt bao trùm hết khối u[7]. Tỷ lệ tai biến của hai nhóm phẫu thuật mở và phẫu thuật nội soi là không có sự khác biệt, có 2 trường hợp chảy máu trong bao gan chiếm 6.7%, 1 trường hợp bị tràn dịch màng phổi và một trường hợp suy gan. Với trường hợp suy gan trường hợp có kích thước u lớn 9cm vùng trung tâm hạ phân thùy 8a và 8b, chúng tôi phải thực hiện RF 3 lần. Sau mổ 1 ngày ALT, AST tĕng cao trên 800U/ml, bilirubin tĕng >400µmol/l, Prothrombin giảm dưới 30%. Trước mổ trường hợp có xơ gan Child B nhưng các chỉ số chỉ dao động dưới 10% quanh ngưỡng. Nghiên cứu của tác giả Đào Vĕn Long với 105 trường hợp RF thì có 5 trường hợp có tai biến tỷ lệ 5%, trong đó có trường hợp bị áp xe gan. Koda M, Ueki M và cộng sự (2004) đã đốt sóng 3554 khối u cho 2320 trường hợp cho thấy tỉ lệ tai biến là 2,2%, bao gồm sốc nhiễm khuẩn, thủng ruột, suy tạng và chảy máu. Tỷ lệ tử vong là 0,3%. Tỷ lệ tai biến của tác giả Riccardo L (Italia) điều trị cho 187 trường hợp và Curley S với 304 trường hợp là 2%[8]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của Hechelhammer L và CS trên 137 trường hợp UTTBG (kích thước u trung bình 6,36 ± 1,1cm) đạt đáp ứng hoàn toàn đốt u bằng sóng cao tần theo dõi sau 5 nĕm thấy tỷ lệ sống thêm không tái phát chỉ có 8,9%. Tỷ lệ tái phát tại chỗ là 48/137 (35,1%), tỷ lệ tái phát khối mới là 39/137 (28.5%) với thời gian tái phát trung bình 13 tháng (4 - 32 tháng). Đặc biệt tái phát tĕng cao ở các trường hợp có u gan >5cm trước điều trị[9]. Về cắt lớp vi tính: Tại thời điểm 1 tháng tái khám có đủ 30 trường hợp được chụp thì có 21 trường hợp hoại tử vượt quá u (70%), 9 trường hợp (30%) hoại tử khối u, không có trường hợp nào còn u. Tại thời điểm 3 tháng sau ra viện chúng tôi chưa thấy xác nhận hình ảnh cắt lớp về sự xuất hiện của u gan tái phát hay u mới. Tại thời điểm 6 tháng chúng tôi phát hiện thấy khối u ở 2 trường hợp, trường hợp thứ nhất u có kích thước 12mm x 9mm ở hạ phân thùy 4 trong khi khối u cũ ở hạ phân thùy 8, trường hợp thứ hai u có kích thước 8mm x 13mm, ở hạ phân thùy 5 và u cũ ở hạ phân thùy 4. Các trường hợp này được điều trị giảm nhẹ và điều trị bổ trợ. Về nguyên nhân tái phát cả hai trường hợp này đều có xơ gan do viêm gan, một trường hợp viêm gan B và một trường hợp viêm gan B, C kết hợp. Theo tác giả Dhanasekaran R có 34 trường hợp RF qua nội soi thời gian sống trung bình 16,9 ± 28,3 tháng, không có tử vong liên quan đến các biến chứng phẫu thuật, sống thêm 14,7 ± 6,9 tháng, tỷ lệ tái phát trong gan 61.8%[10]. Nghiên cứu của các tác giả Prajapati HJ (2012) RFA122 lần với ung thư gan nguyên phát không cắt được từ tháng 04/1997 - 2/2006. Thời gian từ khi chẩn đoán đến khi thực hiện RF là 2 tháng (1 - 4.2), thời gian sống trung bình kaplan-meier là 26 tháng trong đó Child A là 28 tháng, Child B là 15 tháng, Child C là 05 tháng. Trong nghiên cứu của chúng tôi thời gian sống trung bình sau mổ là 12.9 ± 5.3 tháng, ngắn nhất là 4.5 tháng. Có 2 trường hợp (6.7%) thời gian sống từ 3 - 6 tháng, 6 trường hợp (20%) từ 6 - 12 tháng, 13 trường hợp (43.3%) trên 12 tháng. KẾT LUẬN Kết quả sống thêm lâu dài là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả của một phương pháp điều trị trong ung thư. Đối với ung thư tế bào gan phẫu thuật cắt gan hoặc ghép gan vẫn là phương pháp điều trị tối ưu nhất mang lại hiệu quả sống thêm cho người bệnh. Tuy nhiên số trường hợp phù hợp với các chỉ định điều trị này còn thấp chính vì vậy, đốt nhiệt u bằng sống cao tần là phương pháp khả thi cho các trường hợp ung thư tế bào gan không còn chỉ định phẫu thuật. Thực tế phương pháp phẫu thuật đốt nhiệt u bằng sóng cao tần đã và đang ngày càng được áp dụng rộng rãi ở nước ta trong điều trị ung thư tế bào gan từ các bệnh viện tuyến tỉnh đến trung ương. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Rossi S, Di Stasi M, Buscarini E, Quaretti P, Garbagnati F, Squassante L, et al (1996). Percutaneous RF interstitial thermal ablation in the treatment of hepatic cancer. AJR 167: 759 - 68. TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 291 2. Bilchik AJ, Rose DM, Allegra DP, Bostick PJ, Hsueh E, Morton DL (1999). Radiofrequency ablation: a minimally invasive with multiple applications. Cancer J Sci Am 5:356 - 61. 3. Lê Lộc, PhanThanh Hải (2004). Bước đầu điều trị ung thư gan nguyên phát và thứ phát bằng Radiofrequency. Y học Việt nam 297. 19 - 23. 4. Lê Lộc, Hoàng Trọng Nhật Phương. (2007), Đốt nhiệt cao tần trên đường cắt gan ung thư làm giảm lượng máu mất trong mổ. Tạp chí Gan mật Việt nam sè 1-2007. 54 - 58. 5. Zenichi Morise (2014), "Recent advances in the surgical treatment of hepatocellular carcinoma", World Journal of Gastroenterology. 20(39), pp. 14381 - 1392. 6. Yamakado K. Nakasuka A et al (2003). Combination therapy with radiofrequency ablation and transcatheter chemoembolization for the treatmenf of hepatocellular carcinoma: Short term recurrences and survival. Oncology. 11: 105 - 109. 7. Murakami T., Imai Y., Okada M., et al. (2011), "Ultrasonography, Computed Tomography and Magnetic Resonance Imaging of Hepatocellular Carcinoma: Toward Improved Treatment Decisions", Oncology, 81(s1), pp. 86 - 99. 8. Koda M, Ueki M (2004). The influence on liver parenchymal function and complications of radiofrequency ablation or the combination with transcatheter arterial embolization for hepatocellular carcinoma. Hepatology Research. 29. 18 - 23. 9. Hechelhammer L., Pfiffner R., Marincek B., Pfammatter T. (2008). Ablation percutanée par radiofréquence de tumeurs du foie, du rein et des poumons. Forum Med Suisse 8(38): 710 - 712. 10. Dhanasekaran R., Kooby DA., Staley CA, et al. (2009), "Prognostic factors for survival in patients with unresectable hepatocellular carcinoma undergoing chemoembolization with doxorubicin drug-eluting beads: a preliminary study", Hpb, 12(3), pp. 174 - 180.
File đính kèm:
danh_gia_ket_qua_dieu_tri_u_gan_nguyen_phat_bang_song_cao_ta.pdf

