Đánh giá kết quả điều trị trật khớp cùng đòn mãn tính bằng tái tạo dây chằng quạ đòn từ gân ghép tự thân
Mở đầu: Có rất nhiều phương pháp điều trị phẫu thuật cho trật khớp cùng đòn.
Các phương pháp cố định bằng kim loại và tái tạo không theo giải phẫu có nhiều biến
chứng và tỉ lệ thất bại cao. Gần đây các phương pháp tái tạo dây chằng quạ đòn theo
giải phẫu để đạt được kết quả lâm sàng tối ưu được tập trung nghiên cứu. Phẫu thuật
cho các trường hợp trật khớp cùng đòn độ III, IV, V mãn tính là một thách thức khó
khăn do dây chằng quạ đòn và dây chằng cùng đòn khả năng lành kém sau 3 tuần chấn
thương (mãn tính)
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá kết quả điều trị trật khớp cùng đòn mãn tính bằng tái tạo dây chằng quạ đòn từ gân ghép tự thân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả điều trị trật khớp cùng đòn mãn tính bằng tái tạo dây chằng quạ đòn từ gân ghép tự thân
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 19 - 9/2019 42 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TRẬT KHỚP CÙNG ĐÒN MÃN TÍNH BẰNG TÁI TẠO DÂY CHẰNG QUẠ ĐÒN TỪ GÂN GHÉP TỰ THÂN Vũ Xuân Thành1, Lê Chí Dũng2 TÓM TẮT Mở đầu: Có rất nhiều phương pháp điều trị phẫu thuật cho trật khớp cùng đòn. Các phương pháp cố định bằng kim loại và tái tạo không theo giải phẫu có nhiều biến chứng và tỉ lệ thất bại cao. Gần đây các phương pháp tái tạo dây chằng quạ đòn theo giải phẫu để đạt được kết quả lâm sàng tối ưu được tập trung nghiên cứu. Phẫu thuật cho các trường hợp trật khớp cùng đòn độ III, IV, V mãn tính là một thách thức khó khăn do dây chằng quạ đòn và dây chằng cùng đòn khả năng lành kém sau 3 tuần chấn thương (mãn tính). Mục tiêu: Đánh giá kết quả X quang, chức năng các biến chứng và các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả chức năng của các trường hợp trật khớp cùng đòn độ III, IV, V mãn tính được điều trị bằng phẫu thuật tái tạo dây chằng quạ đòn theo giải phẫu bằng gân ghép tự thân. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiền cứu 110 ca trật khớp cùng đòn (94 nam, 16 nữ; tuổi trung bình 40,0 từ 19-79 tuổi) mãn tính được điều trị bằng tái tạo dây chằng quạ đòn theo giải phẫu bằng gân ghép tự thân (gân gấp nông ngón 3) và xuyên kim Kirschner cố định khớp cùng đòn hoặc không. Đánh giá kết quả chức năng, X quang trước mổ, sau mổ và tại thời điểm theo dõi cuối cùng và các biến chứng. Đánh giá kết quả chức năng gồm thang điểm đau, thang điểm Constant và 4 mức độ hài lòng. Đánh giá hậu quả của việc lấy gân gấp nông ngón III làm gân ghép bằng đo sức cầm nắm bàn tay và đánh giá biên độ vận động TAM. 1 Đại học Y dược TP.HCM 2 Bệnh viện Sài Gòn ITO Người phản hồi (Corresponding): Vũ Xuân Thành ([email protected]) Ngày nhận bài: 11/7/2019, ngày phản biện: 20/7/2019 Ngày bài báo được đăng: 30/9/2019 CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 43 Kết quả: Có 67 ca độ III, 9 case độ IV và 34 case độ V Thời gian theo dõi trung bình 50,2 tháng ( từ 17-90 tháng). Thang điểm đau VAS và Constant cải thiện từ 5,03 (từ 2,6-8,2) và 64,0 (từ 47-78) trước mổ còn 0,83 (từ 0,2-2,1) và tăng lên 93,1 (từ 76- 100) tại thời điểm theo dõi cuối cùng (p<0,01). Mức độ Constant so với tay lành: 108 ca (98,2%) rất tốt, 2 ca (1,8%) tốt. Tất cả đều hài lòng hoặc rất hài lòng. Có 9 ca mất nắn (8,2%) và có ảnh hưởng đến kết quả chức năng (p<0,05), 4 ca gãy kim và 1 gãy ca gãy xương đòn ngay đường hầm xương. Sức cầm nắm bàn tay bị tổn thương và lấy gân gấp nông ngón III để làm gân ghép trung bình là 34,7 kg; tay lành là 35,9 kg (p>0,05). Thang điểm TAM có 87 ca xuất sắc (75,5%) và 23 ca tốt (24,5%) và có ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của bệnh nhân (p<0,05). Kết luận: Phương pháp tái tạo dây chằng quạ đòn theo giải phẫu bằng gân gấp nông ngón III cho các trường hợp trật khớp cùng đòn mãn tính cho kết quả chức năng rất tốt 98,2% và tốt 1,8%; kết quả X quang mất nắn khớp 8,2 % và có ảnh hưởng đến kết quả chức năng (p<0,05); Sức cầm nắm bàn tay bị tổn thương (cũng là tay lấy gân gấp nông ngón III để làm gân ghép) trung bình là 34,7 kg; tay lành là 35,9 kg (p>0,05). Thang điểm TAM có 87 ca xuất sắc (75,5%) và 23 ca tốt (24,5%) và có ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của bệnh nhân (p<0,05). Từ khoá: Khớp cùng đòn, ghép tự thân, tái tạo dây chằng quạ đòn theo giải phẫu. EVALUATING THE RESULT OF CHRONIC ACROMIOCLAVICULAR JOINT DISLOCATION TREATED BY THE ANATOMICAL CORACOCLAVICULAR LIGAMENTS RECONTRUCTION USING A TENDINOUS AUTOGRAFT ABSTRACT Background: Numerous procedures have been described for the operative management of acromioclavicular (AC) dislocation. Some of these techniques, including hardware fixation and non-anatomical reconstructions, are associated with serious complications and high failure rates. Recently, AC joint reconstruction techniques have focused on anatomical restoration of the coracoclavicular (CC) ligaments to achieve optimal clinical outcomes. Surgery treatment for chronic AC joint dislocation Rockwood type III, IV, V is a difficult challenge due to CC and AC ligaments having poor healing ability after 3 weeks of injury (chronic). Objectives: To assess the radiological results, functional outcomes, complications and factors affecting the functional outcome of chronic AC joint dislocation Rockwood type III, IV, V treated by anatomic coracoclavicular ligament reconstruction using TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 19 - 9/2019 44 tendinous autograft. Method: Prospective description 110 cases of chronic AC joint dislocation (94 men, 16 women; a mean age of 40.0, 19-79 years old) were treated by anatomic coracoclavicular ligament reconstruction using tendinous autograft (Flexor digitorum superficialis middle tendon) and Kirschner needle fixed AC joint (if necessary). Evaluating functional, radiological results at preoperative, postoperative and final follow-up and complications. Evaluate functional results including a visual analog scale (VAS) for pain, the Constant score, and an overall 4-part satisfaction scale. Evaluating the consequences of using flexor digitorum superficialis middle tendon by measuring the grip strength of hand and TAM scale. Result: There are 67 cases of Rockwood type III, 9 cases of type IV and 34 case of type V. The mean follow-up time is 50.2 months (17-90 months). VAS and Constant score showed significant improvements from preoperative 5.03 (2.6-8.2) and 64.0 (47- 78) to 0.83 (0.2-2.1) and 93.1 (76-100) at final follow-up time, respectively (p < 0,01). Constant score compared with the healthy shoulder: 108 cases (98.2%) are very good, 2 cases (1.8%) are good. All patients are satisfied or very satisfied. There were 9 cases of loss of reduction (8.2%) and had an effect on functional outcomes (p <0.05), 4 cases of broken Kirschner wire and 1 case of clavical fracture at the bone tunnel. The mean grip strength of hand of injured shoulder using flexor digitorum superficialis middle tendon is 34.7 kg; the mean grip strength of healthy shoulders is 35.9 kg (p> 0.05). TAM has 87 excellent cases (75.5%) and 23 cases (24.5%) and affects the satisfaction level of patients (p <0.05). Conclusion: The method of anatomic coracoclavicular ligament reconstruction using Flexor digitorum superficialis middle tendon for the cases of chronic AC joint dislocation have very good function of 98.2% and good of 1.8%; Radiological results of loss of reduction is 8.2% and had an effect on functional outcomes (p <0.05); The grip strength of hand of the injured side (using flexor digitorum superficialis middle tendon) is an average of 34.7 kg; the grip of healthy sides is 35.9 kg (p> 0.05). TAM has 87 excellent cases (75.5%) and 23 good cases (24.5%) and affects the satisfaction level of patients (p <0.05). Keywords: Acromioclavicular joint, autograft, anatomical coracoclavicular ligament reconstruction. CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 45 ĐẶT VẤN ĐỀ Trật khớp cùng đòn(TKCĐ) xảy ra do lực đập trực tiếp lên vai với cánh tay khép hoặc do gián tiếp té ngã trên cánh tay duỗi vì vậy TKCĐ là loại chấn thương thường gặp, đặc biệt ở người trẻ do va chạm trong thể thao (7,12,19,32). Tổn thương khớp cùng đòn chiếm khoảng 40% tới 50% toàn bộ tổn thương vai do thể thao (21, 31). Hiện nay tại Việt Nam do tình hình tai nạn giao thông tăng lên đặc biệt là xe gắn máy 2 bánh gây té đập vai gây ra nhiều tổn thương khớp cùng đòn. Việc điều trị chấn thương TKCĐ tùy theo mức độ nghiêm trọng của chấn thương, với chấn thương độ I và II hầu như được điều trị không phẫu thuật với mong muốn phục hồi lại đầy đủ biên độ động và không đau sau vài tuần chấn thương.(11) Cũng có sự đồng thuận cho rằng các chấn thương độ IV, V và VI cần được điều trị bằng phẫu thuật.(11) Việc điều trị các chấn thương độ III thì ít rõ ràng hơn, với bằng chứng hiện tại cho thấy cả không phẫu thuật và điều trị phẫu thuật có kết quả tương tự.(11)Sự thiếu hụt chức năng sau khi đã được điều trị không phẫu thuật ban đầu cho độ III dường như là một dấu hiệu để chỉ định can thiệp phẫu thuật.(11) Đến nay có hơn 60 phương pháp phẫu thuật điều trị TKCĐ. Nhiều phương pháp ban đầu là nắn và cố định bằng kim loại (17). Thật không may là những kỹ thuật này thường có biến chứng do dụng cụ kim loại gây ra mà phải lấy bỏ và kết quả sau cùng không cao (17). Có nhiều phương pháp phẫu thuật mô mềm được báo cáo với mục đích tái tạo lại chức năng của dây chằng quạ đòn và hoặc dây chằng cùng đòn bị đứt. Những phương pháp này bao gồm tạo hình dây chằng (4), chuyển cơ(4) và tái tạo dây chằng từ mô tự thân, đồng loại hoặc nhân tạo(4). Tạo hình dây chằng là chuyển vị trí của một dây chằng phổ biến là phương pháp Weaver-Dunn và những cải biên, chuyển vị trí bám của dây chằng quạ cùng tại mỏm cùng lên trên xương đòn. Sự khó khăn của các phương pháp này là duy trì sự nắn khớp bởi vì dây chằng được chuyển thì không mạnh bằng và không tái tạo giải phẫu bình thường như dây chằng quạ đòn tự nhiên. Điều này dẫn tới sự phát triển của phương pháp tái tạo dây chằng quạ đòn như giải phẫu với mục đích tái tạo giải phẫu dây chằng quạ đòn sử dụng mô ghép đủ mạnh (4). Có nhiều nghiên cứu cơ sinh học chứng tỏ rằng tái tạo dây chằng quạ đòn theo giải phẫu với gân ghép tự do thì vững và mạnh hơn và tái tạo gần với chức năng của dây chằng quạ đòn hơn (10,18,22,25,30). Yoo và cộng sự năm 2010 (36) nghiên cứu động học trên xác cho kết quả: Phương pháp tái tạo dây chằng quạ đòn với mảnh ghép luồn qua 3 đường hầm xương thì hồi phục gần với động học của vai tự nhiên hơn. Điều trị trật khớp cùng đòn mãn tính vẫn còn nhiều khó khăn. Cách tiếp cận điều trị cho mất vững khớp cùng đòn mãn tính nên khác với trật khớp cùng đòn TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 19 - 9/2019 46 cấp tính. Trong thời kì cấp tính, dây chằng cùng đòn và dây chằng quạ đòn vẫn có khả năng lành nên kỹ thuật mổ tập trung vào phục hồi trục của dây chằng rách khi chờ quá trình lành mô (6). Mặt khác, khi dây chằng quạ đòn và dây chằng cùng đòn mất khả năng lành trong 3 tuần sau chấn thương (6), việc điều trị trật khớp cùng đòn mãn tính bắt buộc phải có sự hỗ trợ sinh học cũng như cố định cơ học (6). Tại Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu tổng kết của tác giả khác về điều trị trật khớp cùng đòn bằng tái tạo dây chằng quạ đòn 2 bó theo giải phẫu và dùng gân ghép tự thân và càng chưa có một báo cáo nào về kết quả phẫu thuật chỉ cho các trường hợp trật khớp cùng đòn mãn tính. Mục tiêu nhằm đánh giá kết quả điều trị trật khớp cùng đòn độ III, IV, V mãn tính bằng mổ nắn trật, tái tạo dây chằng quạ đòn 2 bó theo giải phẫu từ gân tự thân về: kết quả X quang, kết quả chức năng, các biến chứng và các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả chức năng. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Các bệnh nhân ≥ 18 tuổi đến khám và điều trị tại khoa chi trên bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hình tp Hồ Chí Minh từ tháng 12/2010 đến tháng 6/2014 bị trật khớp cùng đòn độ III sau khi điều trị bảo tồn vẫn còn đau và hoặc giảm chức năng và hoặc không hài lòng và độ IV, V mãn tính sau 3 tuần 2. Phương pháp nghiên cứu: mô tả tiền cứu Phương pháp phẫu thuật: Bệnh nhân nửa nằm nửa ngồi, tê vùng liên cơ bậc thang hoặc mê mask thanh quản hoặc mê nội khí quản. Bờ trong xương bả vai sát mép bàn mổ, kê một gối nhỏ bên dưới. Đường rạch da bắt đầu ở bờ sau xương đòn và phía trong khớp cùng đòn khoảng 3,5 cm, kéo dài xuống dưới tới mỏm quạ theo đường Langer. Có thể kéo dài đường mổ ra sau ngoài nếu cần. Rạch tới lớp cân thang-delta, bóc tách vạt da ngay trên lớp cân này. Cắt cân thang-delta ngay ranh giới giữa bám tận của cơ thang mặt sau xương đòn và nguyên ủy cơ delta mặt trước xương đòn, tách cân để bộc lộ 1/3 ngoài xương đòn, cắt mô mềm bộc lộ khớp cùng đòn, lấy hết mô xơ nếu có, cắt bỏ sụn chêm rách. Khoan 2 đường hầm xương tại vị trí giải phẫu 2 bó dây chằng quạ đòn tại xương đòn: Vị trí: Đường hầm bó conoid: 40-45mm phía trong khớp cùng đòn và sát bờ sau xương đòn. Ngoài ra có thể sờ thấy lồi củ conoid ở mặt dưới xương đòn. Đường hầm bó trapezoid: phía ngoài đường hầm bó conoid 20-25mm. Đường hầm tại mỏm quạ: điểm vào phía trong sát gốc mỏm quạ hướng ra trước ngoài. CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 47 Khoan đường kính bằng đường kính gân làm dây chằng tái tạo cộng với 2 hoặc 3 sợi chỉ bện không tan (fiber) số 2 (thường là 4,0 – 4,5mm). Gân làm dây chằng tái tạo có thể lấy từ gân gan tay dài 2 bên, hoặc gân gấp nông ngón 3. Luồn dây chằng tái tạo và 2 sợi chỉ Fiber số 2 qua 3 đường hầm, sử dụng dụng cụ hỗ trợ. Nắn khớp cùng đòn: nếu nắn nhẹ nhàng thì không xuyên kim Kirschner từ mỏm cùng qua xương đòn để cố định khớp. Cột 2 sợi chỉ Fiber, cột và may dây chằng tái tạo trên 1/3 ngoài xương đòn. Bó dây chằng qua đường hầm conoid kéo ra ngoài may vào mô mềm hoặc xuyên xương ở mỏm cùng vai để tái tạo phần trên dây chằng cùng đòn. Sau mổ bệnh nhân được mang đai vai chi trên. Chương trình tập vật lý trị liệu: Trong 6-8 tuần đầu mang đai vai chi trên, chỉ bỏ ra khi tập. 4-6 tuần đầu tập gấp duỗi khuỷu, đưa vai trước sau và dang vai dưới 900. Sau 4-6 tuần tập lấy lại biên độ thụ động khớp vai nếu không xuyên kim Sau 6 tuần tập lấy lại biên độ chủ động khớp vai nếu không xuyên kim. Kim Kirschner được rút sau 10-12 tuần. Trở lại công việc sau 3 tháng. Có thể chơi thể thao lại sau 6 tháng. Cánh theo dõi đánh giá kết quả và thu thập số liệu Tất cả dữ liệu được thu thập tiến cứu, được lưu trữ trong bệnh án mẫu để phân tích. Dữ liệu nhân khẩu học bao gồm các đặc điểm nhân khẩu học của bệnh nhân (tuổi, giới tính, vai thuận), nghề nghiệp, tiền sử phẫu thuật (phương pháp phẫu thuật trước đây trên vai bị thương) và đặc điểm chấn thương (nguyên nhân và cơ chế chấn thương, phân độ Rockwood, thời gian từ lúc chấn thương đến khi được phẫu thuật). Dữ liệu phẫu thuật bao gồm: đường kính các đường hầm xương, có cắt đầu ngoài xương đòn hay không và cắt bao nhiêu mm, các biến chứng phẫu thuật. Dữ liệu kết quả X quang bệnh nhân được chụp phim thẳng, tư thế nách cả 2 khớp cùng đòn. Đánh giá 2 chỉ số: khoảng cách quạ đòn (CC distance) trên phim thẳng, khoảng cách cùng đòn (AC distance) trên phim nách. Mất nắn khớp được xác định trên X-quang khi khoảng cách CC của vai bị thương tăng > 25% hoặc/ và AC di lệch ra trước hoặc ra sau > 50% bề rộng đầu ngoài xương đòn so với bên bình thường. Đánh giá vào thời điểm trước mổ, sau mổ và lần theo dõi cuối cùng. Đánh giá chức năng: dựa vào thang điểm đau VAS, Constant scores (so với vai lành nếu >30: xấu, 21-30: trung bình, 11-20: tốt, < 11: rất tốt)(6) được đánh giá vào thời điểm trước mổ và lần theo dõi cuối cùng. Và 4 bậc TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 19 - 9/2019 48 hài lòng của bệnh nhân(rất hài lòng =1, hài lòng =2, hài lòng ... ương đòn so với bên bình thường Chúng tôi chỉ có 9 ca (8,2%) (p<0.01) có sự mất nắn khớp lên trên trong nghiên cứu của chúng tôi. Nhiều yếu tố có thể góp phần gây ra sự mất nắn khớp này. Đầu tiên, mô ghép tự thân trải qua 4 giai đoạn sau khi cấy ghép: hoại tử, phân bố lại mạch, tăng sinh tế bào, và tái tạo mô(5). Tuy nhiên, sau khi kết hợp, mô ghép gân tự thân đã được chứng minh là mất đi sức mạnh ban đầu của chúng, cho thấy chỉ còn 30% đến 40% giới hạn lực kéo đứt(5). Mô ghép gân cơ gấp nông ngón III của chúng tôi phải trải qua quá trình này sau khi cố định. Tuy CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 53 nhiên, chúng tôi có dùng chỉ khâu đa sợi không tan đồng thời để duy trì sự nắn khớp trong giai đoạn hoại tử và tái tuần hoàn mạch máu gân ghép. Điều thứ hai, việc lựa chọn mô ghép, như gân cơ gấp nông ngón III, có thể không được tối ưu. Chúng tôi đã nghiên cứu là gân cơ gấp nông ngón III tương đương gân cơ bán gân về giới hạn lực kéo đứt và độ giãn dài để đứt. Mặc dù gân cơ gân cơ bán gân có giới hạn lực kéo đứt tương đương với các dây chằng quạ đòn ban đầu, độ giãn dài để đứt của nó lớn hơn đáng kể so với dây chằng quạ đòn ban đầu.(5) Một nghiên cứu cơ sinh học khác cho thấy hầu hết các hư hỏng của cấu trúc này xảy ra khi kéo dài mô ghép.(5) Hơn nữa, chúng tôi nghĩ rằng việc kéo giãn dần mô ghép là không thể tránh khỏi vì áp lực liên tục từ trọng lượng của cánh tay bị tổn thương khớp cùng đòn Nhưng có nhiều tiêu chuẩn mất nắn khớp theo mỗi tác giả (bảng 1). Sự không nhất quán này làm cho việc so sánh kết quả khách quan giữa các nghiên cứu là khó khăn. Các tiêu chuẩn sự mất nắn của chúng tôi nghiêm ngặt hơn so với nhiều nghiên cứu khác bởi vì chúng tôi quan tâm đến hiệu quả của mô ghép gân duy trì việc nắn khớp tổn thương mãn tính. Phát hiện của chúng tôi, cũng như những nghiên cứu trước đây, có thể gợi ý rằng mô ghép gân tự thân không thể ngăn ngừa một số trường hợp sự mất nắn khớp. Bảng 1: Các tiêu chuẩn mất nắn khớp và thất bại của các tác giả (17) Tác giả (Năm công bố) Tiêu chuẩn mất nắn khớp và thất bại Greiner và cộng sự (2009) Khoảng cách CC > 100% so với bên lành Murena và cộng sự (2009) Khoảng cách CC > 150% so với bên lành Ladermann và cộng sự (2011) Di lệch lên trên >50% so với bên lành Jensen và cộng sự (2013) Mất nắn khớp >8mm sau phẫu thuật Glanzmann và cộng sự (2013) Khoảng cách CC >2mm ở mặt phẳng trán khi chịu áp lực từ trước ra sau Vascellari và cộng sự (2015) Khoảng cách CC > 25% so với bên lành Struhl and Wolfson (2015) Khoảng cách CC > 2mm so với bên lành Rosslenbroich và cộng sự (2015) Di lệch lên trên > 50% chiều rộng xương đòn Shin và Kim (2015) Khoảng cách CC >50% so với sau phẫu thuật Schliemann và cộng sự (2015) Khoảng cách CC >50% chiều rộng xương đòn Eisenstein và cộng sự (2016) Xương đòn di lệch >6mm so với sau phẫu thuật Takase và Yamamoto (2016) Khoảng cách CC >25% so với bên lành Spencer và cộng sự (2016) Khoảng cách CC >5mm so với sau khi phẫu thuật Tauber và cộng sự (2016) Khoảng cách CC >25% so với sau khi phẫu thuật TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 19 - 9/2019 54 Marcheggiani Muc- cioli và cộng sự (2016) Dịch chuyển xương đòn >0.25 tỷ lệ khớp AC Garofalo và cộng sự (2017) Dịch chuyển lên trên >50% chiều rộng xương đòn Choi và cộng sự (2017) Khoảng cách CC >25% so với bên đối diện Một bài học từ nghiên cứu này là tầm quan trọng của việc nắn quá mức khi phẫu thuật. Chúng tôi thấy các ca nắn quá mức tại thời điểm phẫu thuật có tỉ lệ mất nắn tại thời điểm theo dõi cuối cùng thấp hơn so với các ca khác (P < 0,01). Salzmann và cộng sự (5) cũng quan sát thấy kết quả tương tự sau khi cố định với hai lỗ khoan nhờ nội soi với một hệ thống nút vỏ; Choi NH và cộng sự (5) cũng quan sát thấy kết quả tương tự sau khi cố định với sử dụng gân cơ bán gân luồn dưới mỏm quạ và 1 lỗ khoan trên xương đòn. Mẹo phẫu thuật này có thể được áp dụng cho tất cả các kỹ thuật phẫu thuật trong TKCĐ. Ưu điểm của kỹ thuật nắn quá mức cần được nghiên cứu thêm. Kết quả của chúng tôi cho thấy rằng sự mất nắn khớp ảnh hưởng đến chức năng vai cuối cùng, khác với các nghiên cứu khác. Shin và cộng sự(5) đã báo cáo không có sự khác biệt về điểm số Constant giữa các nhóm có và không bị mất nắn khớp. Murena và cộng sự(5) đã cho thấy điểm trung bình Constant là 97 ở 16 bệnh nhân, mặc dù một phần tư số bệnh nhân bị mất nắn khớp. Do đó, một số bác sĩ phẫu thuật có thể không xem việc mất nắn khớp như một thất bại điều trị hoặc biến chứng nếu bệnh nhân hài lòng và đã trở lại hoạt động bình thường với đầy đủ chức năng. Tuy nhiên, việc vẫn còn bán trật khớp hoặc trật khớp hoàn toàn là sự thất bại của việc điều trị do gây ra biến dạng và ảnh hưởng xấu đến động học của chuyển động của xương bả vai, (5) chúng tôi vẫn tin rằng sự mất nắn khớp là một trong những kết quả quan trọng nhất sau khi điều trị TKCĐ. - Các ca gãy đinh: Có 4 ca gãy đinh sau 6- 8 tuần sau mổ, nhưng 3 ca này kết quả X quang cuối cùng không mất nắn và phần đinh vẫn ở trong 1/3 ngoài xương đòn và kết quả chức năng đều rất tốt. - Ca gãy xương đòn và mỏm quạ: chúng tôi có 1 ca gãy xương đòn tại đường hầm xương bó thang: Bn Lê Văn L. sau mổ 11 tuần bn ngồi sau xe máy té đập vai bị gãy xương đòn ngay đường hầm bó thang và trật lại khớp cùng đòn. Bn được chúng tôi mổ nắn tái tạo lại dây chằng quạ đòn dùng gân gấp nông tay bên lành (bên trật đã lấy để làm gân tái tạo trong mổ lần đầu) và xuyên 2 kim Kirschner cố định khớp cùng đòn và ổ gãy, sau 6 tháng rút kim. Theo dõi cuối cùng kết quả sau 4 năm xương gãy lành, khớp cùng đòn mất nắn ít (bán trật, CC hơn 2mm so bên lành), kết quả chức năng rất tốt. Milewski(26) báo cáo có 3 trường hợp bn 26, 45 và 48 tuổi gãy xương đòn trong 27 ca tái tạo dây chằng quạ đòn, tất cả các ca sử dụng gân cơ chày trước đồng loại, với đường kính đường hầm xương CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 55 là 5,6,7 mm. Martetschlager(23) báo cáo 2/55 trường hợp bị gãy xương đòn. Tất cả các ca cũng sử dụng gân cơ chày trước đồng loại, đường kính đường hầm xương 6mm, 2 bn có tuổi là 21 và 55. Millett PJ và cs (27) báo cáo có 2/31 ca gãy đầu ngoài xương đòn ngay đường hầm và các đường hầm xương đều khoan đường kính 6,0mm. Chỉ có Choi NH và cs(5) có 3/30 gãy đầu ngoài xương đòn ngay tại lỗ khoan mặc dù chỉ khoan đường kính 4.5mm và tác giả không nói rõ nguyên nhân. Dumont(13) nghiên cứu thực nghiệm trên sawbone thấy rằng đường hầm xương 5mm trên xương đòn gây ra giảm sức chịu lực gây ra gãy xương so với mẫu bình thường. Không có sự khác biệt giữa 1 hay 2 đường hầm cũng như có hoặc không có vít chẹn đường hầm. Các ca của chúng tôi đều có đường kính đường hầm xương trên xương đòn ≤ 4,5mm nên chỉ có 1 ca gãy xương ngay đường hầm có thể do bệnh nhân té ngã với lực mạnh và với một người có xương đòn bình thường cũng có thể gãy. Trong số 13 nghiên cứu gần đây đã báo cáo về các biến chứng sau tái tạo dây chằng quạ đòn theo giải phẫu với mô ghép sinh học (Bảng 2), tỷ lệ biến chứng chung là 39,8% (103 trong số 259 bệnh nhân). Hậu quả lớn nhất của các biến chứng này bao gồm đứt mô ghép, hỏng thiết bị cứng và gãy xương đòn hoặc mỏm quạ thông qua các đường hầm xương. 7. Việc chúng tôi lấy gân gấp nông ngón III có ảnh hưởng đến chức năng bàn tay hay không? Toàn bộ bệnh nhân thường trong 3-6 tháng đầu có than phiền là ngón III tay lấy gân gập nông cảm giác hơi yếu, có trường hợp đau nhẹ. Nhưng sau 6 tháng thì tất cả đều không có than phiền gì đáng kể, vẫn làm việc sinh hoạt bình thường từ công việc nhẹ nhàng như nội trợ, viết, đánh máy đến công việc nặng phải sử dụng sức mạnh bàn tay như bốc vác, làm nông. Chúng tôi có dùng thang điểm gồm TAM, sức cầm nắm bàn tay và đánh giá 4 mức độ hài lòng của bệnh nhân thì ngoài đánh giá vùng vai của bệnh nhân mà được mổ tái tạo dây chằng quạ đòn thì còn đánh giá ảnh hưởng của việc lấy gân gấp nông ngón III. Và kết quả không có bệnh nhân nào không hài lòng hoặc chỉ hài lòng một phần. Có những ca chỉ mức độ hài lòng thay vì rất hài lòng vì ngón tay lấy gân bị co nhẹ. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 19 - 9/2019 56 Bảng 2: Tóm tắt các kết quả và biến chứng được báo cáo sau khi thực hiện tái tạo dây chằng quạ đòn theo giải phẫu bằng mô ghép sinh học Tác giả Năm Số vai Tuổi Cấp tính/ mãn tính Kỹ thuật Mổ lại và biến chứng Theo dõi Tình trạng trước phẫu thuật Kết quả sau phẫu thuật Nicholas và cs (28) 2007 9 41.4 (28-63) NR Mở NR 23.7 tháng (15- 46) NR Điểm ASES: 96 Điểm SST: 11.9 Tauber và cs(30) 2009 12 41.6 (24-58) NR Mở LOR (1): té ngã sau 2 tuần phẫu thuật 34.9 tháng (24- 44) Điểm ASES: 74 Điểm Constant: 71 Điểm ASES: 96 Điểm Constant: 93 Carofino và Mazzocca(33) 2010 17 44 ± 14 NR Mở LOR (1) Nhiểm trùng (1) Viêm khớp AC (1) 21 tháng (6-61) Điểm ASES: 52 Điểm SST: 7.1 Điểm Constant: 66.6 Điểm ASES: 92 Điểm SST: 11.8 Điểm Constant: 94.7 Yoo và cs.(34) 2010 21 39.8 (18-70) 17/04 Mở Nhiễm trùng bề mặt (3) 33 tháng (18- 47) NR Điểm SANE: 94.4 Đánh giá độ đau VAS: 1.9 Điểm Constant: 84.7 Điểm UCLA score: 30.0 Yoo và cs(35) 2011 13 27.8 (18-41) 13/0 A-A LOR (3) 17 tháng (12- 26) Đánh giá độ đau VAS: 7.9 Điểm Constant: 73.4 Đánh giá độ đau VAS: 1.2 Điểm Constant: 96.6 Milewski và cs.(26) 2012 27 33.7 (19-54) Sep-18 Mở/A-A LOR (7) Gãy xương đòn (3) Gãy mỏm quạ (2) Khác (2) NA NA NA Cook và cs.(8) 2012 10 25.9 (20-49) NR A-A LOR (8): hỏng thiết bị cứng (7) và gãy xương mỏm quạ (1) 9.7 tháng NR Xuất sắc: 5 Trung bình: 1 Kém: 4 Cook và cs.(9) 2013 28 26.5 (19-40) May-23 Mở/A-A LOR (8): tất cả chấn thương mãn tính Tối thiểu 12 tháng NR Đi nghĩa vụ quân sự lại: 84% Martetschlä và cs.(23) 2013 46 43.6 (18-71) 31/26 Mở/A-A LOR (7): 4 ca đứt mô ghép, 2 gãy xương đòn, và 1 hư phần cứng, Biến chứng khác (6) 28,8 tháng (12- 68,4) Điểm ASES: 57.5 Điểm SF- 12 PCS: 45 Điểm ASES: 91 Điểm SF-12 PCS: 56 Điểm SANE: 89 Điểm QuickDASH: 7 Mức độ hài lòng: 9 Fauci và cs.(15) 2013 20 36 T 4.3 0/20 Mở LOR (7) Viêm khớp AC (12) Tiêu xương đòn (13) Tối thiểu 48 tháng Điểm Constant: 43.5 Điểm Constant: 94.2 Điểm UCLA: 18.2 Mức độ hài lòng: 3.9 CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 57 Jensen và cs.(20) 2013 16 41.8 (21-60) 0/16 A-A, thêm mô ghép cho mặt phẳng ngang Sửa đổi (2) Đau phần cứng (10) 13 tháng (4-27) NR Điểm Constant: 84 Đánh giá độ đau VAS: 4.6 Điểm SST: 9 Mardani-Kivi và cs.(24) 2013 18 33.4 T 11.2 NR Mở, Xuyên thêm kim Kirschner để cố định Nhiễm trùng chỗ xuyên kim(10) 25.7 tháng (12- 49) NR Điểm Constant: 92 Đánh giá độ đau VAS: 0 Millett JP và cs(27) 2015 31 43,9 (21-71) Mở/A-A 7 bệnh nhân phải mổ lại: mô ghép bị đứt/suy yếu (2), gãy xương đòn (2), phì đại đầu ngoài xương đòn (2) và viêm dính khớp vai(1) 42 tháng (24- 74,4) Điểm ASES: 58.9 Điểm SF- 12 PCS: 45,1 Những bệnh nhân không yêu cầu mổ lại: Điểm ASES trung bình là 93,8, điểm SANE trung bình là 89,1 và điểm QuickDASH trung bình là 5,6, với mức độ hài lòng của bệnh nhân trung bình là 9/10 Chúng tôi 2019 110 40,0 (19-79) 0/110 Mở, Xuyên thêm kim Kirschner cố định cùng đòn hoặc không LOR(9) Gãy kim(4) Gãy xương đòn(1) 54,2 tháng (17- 90) VAS: 5,03 (từ 2,6-8,2) Constant: 64,0 (từ 47-78) VAS: 0,83 (từ 0,2-2,1) Constant: 93,1 (từ 76-100) A-A: hỗ trợ nội soi; AC: khớp cùng đòn; ACCR: tái tạo theo giải phẫu dây chằng quạ đòn; ASES: điểm ASES; LOR: mất khớp nắn; NA: không áp dụng; NR: không báo cáo; QuickDASH: Điểm QuickDASH; SANE: điểm SANE; SF-12 PCS: điểm SF-12 PCS ; SST: test vai đơn giản; UCLA: thang điếm đo của Đại học California, Los Angeles; VAS: thang đo trực quan về đau. KẾT LUẬN Với phương pháp tái tạo dây chằng quạ đòn theo giải phẫu bằng gân ghép tự thân (gân gấp nông) cho 110 trường hợp trật khớp cùng đòn mãn tính cho kết quả chức năng rất tốt 98,2% và tốt 1,8%; kết quả X quang mất nắn khớp chỉ 8,2 % và có ảnh hưởng đến kết quả chức năng (p<0,05); Sức cầm nắm bàn tay bị tổn thương (cũng là tay lấy gân gấp nông ngón III để làm gân ghép) trung bình là 34,7 kg khác biệt không có ý nghĩa với tay lành là 35,9 kg (p>0,05). Thang điểm TAM có 87 ca xuất sắc (75,5%) và 23 ca tốt (24,5%) và có ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của bệnh nhân (p<0,05). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Barth J et al (2015). Prognostic factors to succeed in surgical treatment of chronicacromioclavicular dislocations. Orthop Traumatol Surg Res. Dec;101(8 Suppl):S305-11. 2. Beaver, A.B., B.G. Parks, TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 19 - 9/2019 58 and R.Y. Hinton (2013). Biomechanical analysis of distal clavicle excision with acromioclavicular joint reconstruction. Am J Sports Med,. 41(7):p. 1684-8. 3. Beitzel, K., et al (2012). Sequential resection of the distal clavicle and its effects on horizontal acromioclavicular joint translation. Am J Sports Med, 40(3): p. 681-5. 4. Carofino BC, Mazzocca AD (2010). The anatomic coracoclavicular ligament reconstruction: surgical technique and indications. J Shoulder Elbow Surg, 19(2 Suppl):37-46. 5. Choi NH et al (2017). Loss of reduction and complications of coracoclavicular ligament reconstruction with autogenous tendon graft in acute acromioclavicular dislocations. J Shoulder Elbow Surg. Apr; 26(4): 692-698. 6. Domos P et al (2017). Current practice in the management of Rockwood type III acromioclavicular joint dislocations-National survey. J Orthop Surg (Hong Kong).May-Aug; 25(2) 7. Dumont GD (2013). Impact of tunnels and tenodesis screws on clavicle fracture: A biomechanical study of varying coracoclavicular ligament reconstruction techniques. Arthroscopy, 29: p. 1604- 1607.) 8. Gowd AK et al (2018). Current Concepts in the Operative Management of Acromioclavicular Dislocations: A Systematic Review and Meta-analysis of Operative Techniques. Am J Sports Med. Oct 1. 9. Natera-Cisneros L and Reiriz JS (2017). Management of chronic unstable acromioclavicular joint injuries. J Orthop Traumatol. Dec; 18(4): 305–318. 10. Yoo YS, Seo YJ, Noh KC, Patro BP, Kim DY (2011). Arthroscopically assisted anatomical coracoclavicular ligament reconstruction using tendon graft. Int Orthop; 35: 1025-1030. 11. Yoo YS, Tsai AG, Ranawat AS, Bansal M, Fu FH, Rodosky MW, et al(2010). A biomechanical analysis of the native coracoclavicular ligaments and their influence on a new reconstruction using a coracoid tunnel and free tendon graft. Arthroscopy, 26:1153–1161.
File đính kèm:
danh_gia_ket_qua_dieu_tri_trat_khop_cung_don_man_tinh_bang_t.pdf

