Đánh giá kết quả điều trị thoái hóa khớp gối tiên phát bằng phẫu thuật nội soi tạo tổn thương dưới sụn và ghép khối tế bào gốc tủy xương tự thân
Từ tháng 11/2011-10/2013 chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu ứng điều trị thoái
hóa khớp gối (THKG) bằng nội soi tạo tổn thương dưới sụn (microfracture) kết
hợp ghép khối tế bào gốc tủy xương tự thân (TBGTXTT) cho 46 bệnh nhân.
Mục tiêu: 1) Nghiên cứu một số chỉ số của khối TBG tủy xương tự thân của
bệnh nhân THKG và 2) Đánh giá hiệu quả sử dụng TBGTXTT kết hợp nội soi
tạo tổn thương dưới sụn điều trị THKG. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
46 bệnh nhân THKG tiên phát giai đoạn 2 và 3, được mổ nội soi làm sạch khớp,
tạo tổn thương dưới sụn và ghép khối TBGTXTT lấy từ xương chậu. Khối TBG
được tách bằng phương pháp ly tâm tỷ trọng. Xác định thành phần TBG tạo máu
CD43(+) bằng phương pháp tế bào dòng chảy, xác định TBG trung mô bằng kỹ
thuật nuôi cấy cụm nguyên bào sợi CFU-F. Đánh giá cải thiện lâm sàng bằng
điểm VAS và thang điểm KOOS. Đánh giá phục hồi sụn khớp bằng chụp phim
MRI, qua thang điểm Noyes score và đo thể tích sụn trước và sau mổ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả điều trị thoái hóa khớp gối tiên phát bằng phẫu thuật nội soi tạo tổn thương dưới sụn và ghép khối tế bào gốc tủy xương tự thân
Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp 127 Dương Đình Toàn Viện CTCH, Bệnh viện HN Việt Đức ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THOÁI HÓA KHỚP GỐI TIÊN PHÁT BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI TẠO TỔN THƯƠNG DƯỚI SỤN VÀ GHÉP KHỐI TẾ BÀO GỐC TỦY XƯƠNG TỰ THÂN EFFECTIVE TREATMENT OF KNEE OSTEOARTHRITIS BY ARTHROSCOPIC SUBCHONDRAL DRILLING AND AUTOLOGOUS BONE MARROW STEM CELLS INJECTION TÓM TẮT Từ tháng 11/2011-10/2013 chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu ứng điều trị thoái hóa khớp gối (THKG) bằng nội soi tạo tổn thương dưới sụn (microfracture) kết hợp ghép khối tế bào gốc tủy xương tự thân (TBGTXTT) cho 46 bệnh nhân. Mục tiêu: 1) Nghiên cứu một số chỉ số của khối TBG tủy xương tự thân của bệnh nhân THKG và 2) Đánh giá hiệu quả sử dụng TBGTXTT kết hợp nội soi tạo tổn thương dưới sụn điều trị THKG. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 46 bệnh nhân THKG tiên phát giai đoạn 2 và 3, được mổ nội soi làm sạch khớp, tạo tổn thương dưới sụn và ghép khối TBGTXTT lấy từ xương chậu. Khối TBG được tách bằng phương pháp ly tâm tỷ trọng. Xác định thành phần TBG tạo máu CD43(+) bằng phương pháp tế bào dòng chảy, xác định TBG trung mô bằng kỹ thuật nuôi cấy cụm nguyên bào sợi CFU-F. Đánh giá cải thiện lâm sàng bằng điểm VAS và thang điểm KOOS. Đánh giá phục hồi sụn khớp bằng chụp phim MRI, qua thang điểm Noyes score và đo thể tích sụn trước và sau mổ. Kết quả: số lượng TBG CD34(+) trung bình là 8,15 x 106, số lượng tế bào tạo cụm CFU-F trung bình là 33,34 x103 được tiêm cho mỗi bệnh nhân. Điểm đau VAS trung bình khi vận động gối giảm từ 5,58 trước mổ xuống 1,7 sau mổ 24 tháng. Điểm KOOS trước mổ trung bình 36,34, tăng lên 74,62 sau mổ 24 tháng. Trên phim MRI, điểm Noyes score giảm từ 11,85 xuống 6,72, thể tích sụn tăng từ 0,4512 cm3 lên 0,5462 cm3 sau mổ 12-24 tháng. Kết luận: Đây là một phương pháp điều trị THKG ít xâm lấn, có hiệu quả cải thiện lâm sàng, liên quan đến vai trò tăng sinh biệt hóa của TBG trong phục hồi sụn khớp tổn thương. Từ khóa: thoái hóa khớp gối, nội soi khớp gối, ghép tế bào gốc. Duong Dinh Toan SUMMARY Background: From 11/2011 to 10/2013, forty-six patients with forty-six knee osteoarthritis (KOA) underwent Arthroscopic Subchondral Drilling (microfracture) in combination with Autologous Bone Marrow Stem cells (ABMSCs) injection. Objectives: 1) Investigate some indexes of ABMSCs block of patients with KOA and 2) Evaluate the initial results of KOA’s treatment by ASD and ABMSCs injection. Subjects and Methods: Forty-six primary KOA TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 128 underwent ASD in combination with ABMSCs injection from pelvis. Most of knees had grade 3 cartilage lesions. Results: The number of CD34(+) cells obtained in Autologous Bone Marrow blocks average 8,15 ± 0,67 x106. The number of cells that create clusters of CFU-F average 33,34 ± 39,98 x103. In the follow-up time after surgery as early as 6 weeks, the longest was 24 weeks, all forty-six patients started showing signs of clinical improvement, there were no case of infection complications, postoperative adhesive knee. Conclusion: This is a new method of treating KOA, safe, minimally invasive and effective long-term, due to stem cell can regenerate and differentiate into chondrocyte, help repair damaged cartilage.. Keyword: Osteoarthritis, bone marrow stem cell, arthroscopy, microfracture I. ĐẶT VẤN ĐỀ Thoái hóa khớp gối (THKG) là bệnh thường gặp trong nhóm bệnh lý mãn tính của khớp. Tổn thương đặc trưng là sự bào mòn và bong gãy lớp sụn khớp[1]. Phẫu thuật thay khớp gối là phương pháp tối ưu cho bệnh nhân lớn tuổi (>70 tuổi), khi THKG đã ở mức độ nặng. Tuy nhiên ở bệnh nhân còn trẻ tuổi hoặc bệnh nhân có tuổi nhưng THKG mức độ vừa, vấn đề thay khớp còn cân nhắc. Trong những năm gần đây, ứng dụng tế bào gốc (TBG) điều trị THKG đã mở ra nhiều triển vọng, có thể tránh được hoặc đẩy lùi thời gian thay khớp. Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu ứng dụng thành công phương pháp này [2],[ 3]. Tại bệnh viện Việt Đức, với sự phối hợp của khoa Huyết học Bệnh viện TWQĐ 108, từ tháng 11/2011- 10/2013 chúng tôi đã điều trị cho 46 bệnh nhân THKG tiên phát ở giai đoạn 2 và 3 bằng microfracture kết hợp ghép khối TBGTXTT. Mục tiêu nghiên cứu: 1) Nghiên cứu một số chỉ số của khối tế bào gốc tủy xương tự thân (TBGTXTT) của bệnh nhân THKG và 2) Đánh giá hiệu quả sử dụng TBGTXTT kết hợp nội soi tạo tổn thương dưới sụn điều trị THKG. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu: Lựa chọn 46 bệnh nhân THKG tiên phát, giai đoạn 2-3[4], tuổi từ 40 đến 70, không mắc các bệnh: viêm nhiễm cấp và mạn tính, bệnh rối loạn cầm- đông máu, đái đường thể nặng 2.2. Phương pháp nghiên cứu - Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả tiến cứu, can thiệp lâm sàng cắt ngang, có theo dõi dọc . - Các bước tiến hành: 1) lấy dịch tủy xương, làm tủy đồ và tách khối TBG, xác định số lượng TBG thu được: - Lấy dịch TX: chọc hút từ 2 gai chậu sau trên, lấy khoảng 120 mL cho mỗi BN - Tủy đồ: tất cả BN đều được xét nghiệm tủy đồ theo phương pháp kinh điển (từ 2 ml dịch hút tủy xương đầu tiên) - Khối TBG được tách bằng phương pháp ly tâm tỷ trọng. Sau tách khối TBG được cô đặc thành 10ml. - Xác định thành phần TBG tạo máu CD43(+) bằng phương pháp tế bào dòng chảy, xác định TBG trung mô bằng kỹ thuật nuôi cấy cụm nguyên bào sợi CFU-F. 2) Nội soi khớp làm sạch, tạo tổn thương dưới sụn (microfracture). - Xử lý số liệu: bằng phương pháp thống kê y học, sử dụng phần mềm Stata 12.0 - Đánh giá kết quả lâm sàng theo VAS (visual analog scal) [5], KOOS (Knee Injury and Osteoarthritis Outcome Score) [6]. Đánh giá phục hồi sụn khớp bằng chụp MRI (theo điểm Noyes và đo thể tích sụn) [13]. 2.3. Địa điểm, thời gian nghiên cứu: - Nghiên cứu được tiến hành tại bệnh viện Việt Đức và khoa Huyết học Bệnh viện Trung ương quân đội 108 từ tháng 11/2011- 10 /2013. - Đạo đức nghiên cứu: đề tài đã được hội đồng y đức của bệnh viện thông qua. 2.4. Các chỉ tiêu nghiên cứu: Một số chỉ số của khối TBGTX: 1) đặc điểm tủy đồ, Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp 129 2) số lượng tế bào có nhân, tế bào đơn nhân, số lượng và tỷ lệ tế bào CD34(+) và số lượng tiểu trong khối TBGTX, 3) số lượng tế bào tạo cụm CFU-F trong khối TBGTX. Kết quả nghiên cứu: 1) thay đổi điểm VAS, KOOS sau điều trị, tương quan giữa số lượng tế bào CD34(+), số lượng tế bào tạo cụm CFU-F với điểm KOOS tăng sau điều trị, 2) các biến chứng. III. KẾT QUẢ Qua nghiên cứu trên 46 bệnh nhân THKG tiên phát, tuổi trung bình 54,82, kết quả như sau: 3.1. Tủy đồ và một số chỉ số TB trong khối TBG của tủy xương (TBGTX) thu được sau chiết tách. Bảng 3.1. Đặc điểm tủy đồ của nhóm nghiên cứu (N=46) Chỉ số TB Đơn vị Giá trị trung bình Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất Số lượng TB có nhân G/L 69,03 ± 49,86 20 255 TB đơn nhân G/L 23,86 ± 11,68 8,7 67,3 % 38,05 ± 7,13 23,8 53,6 TB đa nhân G/L 45,39 ± 38,53 10,5 197,7 % 61,87 ± 7,42 46,4 76,2 Tỷ lệ TB CD34(+) G/L 0,56 ± 0,93 0,07 5,73 % 0,71 ± 0,78 0,24 0,57 HC T/L 3,95 ± 0,61 1,2 5,06 HST g/L 128,54 ± 19,49 43 164 HCT L/L 0,35 ± 0,05 0,11 0,44 TC G/L 267,02 ± 88,02 101 576 Bảng 3.2. Số lượng các loại TB trong khối TBG của tủy xương thu được sau chiết tách (N=46): Tế bào của khối TBGTX Đơn vị Giá trị trung bình Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất TB có nhân G/L 66,33 (±46,12) 6,4 225 TB đơn nhân G/L 34,83 (±15,86) 4,7 68,6 % 60,05 (±14,98) 30,2 89,6 Tỷ lệ TB CD34(+) % 1,44 (±0,67) 0,44 3,18 SL TB CD34(+) x106 8,15 (±5,5) 1,1 22,78 TC G/L 468,26 (±306,24) 30 1300 Tỷ lệ TB sống % 95,67 (±1,33) 93 99 Nhận xét: thống kê từ bảng 3.1 cho thấy, số lượng tế bào có nhân tủy xương trung bình là 69,03G/L, tỷ lệ tế bào CD34(+) trung bình 0,71%. Các thành phần tế bào khác của tủy xương đều phân bố trong giới hạn bình thường. Nhận xét: Nồng độ tế bào có nhân trong khối TBG trung bình là 66,33 G/L. Tỷ lệ tế bào CD34(+) trong khối TBG tăng cao hơn so với trước tách. Tổng số lượng tế bào CD34(+) được bơm vào khớp gối trung bình là 8,15 x 106. Số lượng tiểu cầu (TC) được tiêm vào khớp gối trung bình là 468,26G/L. TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 130 Bảng 3.3. Số lượng tế bào tạo cụm CFU-F (n=41 ) Giá trị trung bình Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất Cụm CFU-F/106 tế bào 43,17 7 140 Cụm CFU-F/ml khối TBGTX 3336,83 283,9 22698 TB cụm CFU-F được bơm vào khớp gối 33343,88 2838 226980 Nhận xét: Số lượng cụm CFU-F thu được khi nuôi cấy từ 1x106 tế bào trong khối TBGTX trung bình là 43,17 (7-140). Số lượng cụm tế bào CFU-F thu được khi nuôi cấy từ 1 ml khối TBGTX trung bình là 3336,83. Số lượng tế bào tạo cụm CFU-F được bơm vào khớp gối trung bình là 33343,88. 3.2. Kết quả điều trị 3.3.1. Các biến chứng Trong thời gian sau mổ và theo dõi lâu nhất 36 tháng, không có trường hợp nào gặp biến chứng 3.3.2. Cải thiện tình trạng đau • Thay đổi điểm VAS Biểu đồ 3.1. Thay đổi điểm VAS trước và sau mổ. Nhận xét: Ở trạng thái vận động, sau mổ 4 tuần, điểm VAS gần như không thay đổi (p>0,05). Tại các thời điểm theo dõi sau mổ 6, 12, 18 và 24 tháng, điểm VAS đều giảm so với trước mổ (p<0,05). Ở trạng thái nghỉ ngơi, điểm VAS giảm ngay từ tháng đầu tiên sau mổ (p<0,05). Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp 131 Biểu đồ 3.2. Thay đổi điểm KOOS trước và sau mổ Biểu đồ 3.3. Thay đổi điểm KOOS trung bình chung sau mổ • Thay đổi điểm KOOS Nhận xét: Từ biểu đồ 3.2 cho thấy, chức năng khớp gối được cải thiện rõ rệt từ 6, 12, 18 và 24 tháng sau mổ (p<0,05). Điểm KOOS trung bình trước mổ và sau mổ được biểu thị dưới dạng biểu đồ dưới đây: Nhận xét: điểm KOOS trung bình chung tăng rõ rệt (p<0,001) sau mỗi thời điểm đánh giá. TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 132 • Tương quan giữa điểm KOOS tăng và số lượng TBG tiêm vào khớp gối Biểu đồ 3.4. tương quan giữa điểm KOOS tăng và số lượng TB CD34(+) được tiêm vào khớp gối Biểu đồ 3.5. tương quan giữa điểm KOOS tăng và số lượng TB tạo cụm CFU-F) được tiêm vào khớp gối Nhận xét: từ biểu đồ 3.4 cho thấy, điểm KOOS tăng tỷ lệ thuận với số lượng tế bào CD34(+) với r=0.19. Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp 133 Nhận xét: Từ biểu đồ 3.5 cho thấy, có mối tương quan tỷ lệ thuận giữa điểm KOOS tăng và số lượng tế bào tạo cụm CFU-F bơm vào khớp ( r=0,75) Bảng 3.5. Phục hồi sụn khớp sau mổ 12-24 tháng đánh giá trên phim MRI Trước mổ Sau mổ 12-24 tháng P Điểm Noyes trung bình 11,85 (±1,46) (N= 46) 6,72 (±1,50) (n= 36) <0,001 Thể tích sụn trung bình (cm3) 0,4512 (±0,2629) (n= 21) 0,5462 (±0,2901) (n= 21) <0,001 Nhận xét: Điểm Noyes trung bình trước mổ là 11,85, sau mổ là 6,72, thể tích sụn trung bình trước mổ là 0,4512cm3, sau mổ là 0,5462cm3, so với trước mổ, sau mổ cả hai chỉ số đều cải thiện (P<0,001). IV. BÀN LUẬN • Đặc điểm thành phần tế bào và chất lượng khối tế bào gốc Tế bào gốc (TBG) là một loại tế bào duy nhất có cả hai khả năng đặc biệt: có thể tự tái tạo mới, sinh ra những tế bào giống hệt chúng và có thể tự biệt hoá thành các loại tế bào chuyên biệt trong những điều kiện nhất định. Tuy nhiên, TBG khá giống bạch cầu cả về hình dáng và một số tính chất khi nuôi cấy vì thế rất khó phân biệt và nhận ra chúng bằng hình thái học [7]. Năm 1988, Weissman và cộng sự đã xác định được những marker bề mặt của TBG tạo máu ở chuột và năm 1992 đã phát hiện ra những marker tương tự của TBG tạo máu ở người [8]. Những marker này được ký hiệu là CD (cluster designation), có bản chất là các protein bề mặt có thể gắn với những kháng thể đơn dòng đặc hiệu. Tính chất này được sử dụng làm nguyên lý để phát hiện TBG. Hiện nay, phân tử CD34 trên bề mặt tế bào là một marker chủ yếu để xác định TBG tạo máu. Sau quy trình chiết tách cô đặc, khối tế bào đơn nhân giàu TBG (được gọi là khối TBG) của tủy xương được huyền dịch trong 10 ml huyết thanh mặn đẳng trương và được bơm vào khớp gối trong vòng 1-2 giờ (đảm bảo việc gây tê tủy sống vẫn còn tác dụng). Trước khi ghép cho bệnh nhân, khối TBG được lấy mẫu để tiến hành các xét nghiệm kiểm tra vi khuẩn học và xác định các thành phần tế bào và tỷ lệ tế bào còn sống. Kết quả 100% các mẫu khối TBG được cấy khuẩn cấy nấm đều âm tính (bảng 3.2), chứng tỏ các qui trình thu gom DTX, qui trình xử lý chiết tách cô đặc khối TBG được đảm bảo vô khuẩn tuyệt đối, khối TBG được bơm vào khớp gối đảm bảo an toàn về mặt vi khuẩn học. Trong thực tế điều trị, chúng tôi vẫn dùng kháng sinh như các trường hợp phẫu thuật nội soi khớp gối khác và kết quả là không gặp trường hợp nào bị nhiễm trùngsau mổ. Các nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Khánh [9], Nguyễn Thanh Bình [10], không gặp trường hợp nào nhiễm khuẩn tại vị trí ghép TBG. ‒ Số lượng tế bào có nhân, các thành phần tế bào và tỷ lệ tế bào sống trong khối TBG. Việc đếm số lượng tế bào giúp mang lại những thông tin hữu ích về nồng độ tế bào trong một mililitre, tổng số lượng tế bào thu được của quá trình chọc hút thu gom dịch tủy xương cũng như của khối tế bào đơn nhân thu được sau khi xử lý cô đặc. Kết quả ở bảng 3.2 cho thấy, trong khối TBG thu được có nồng độ tế bào có nhân trung bình là 66,33 ± 46,12 G/l, trong đó tế bào đơn nhân chiếm đa số (60,05 ± 14,98%); nồng độ tiểu cầu trung bình là 468,26 ± 306,24G/l, số tiểu cầu trong khối TBG có vai trò tham gia hoạt hóa sự tăng sinh, biệt hóa của TBG sau khi bơm vào khớp gối [11]. Khi đối chiếu với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Mạnh Khánh và cộng sự chúng tôi thấy kết quả nghiên cứu của chúng tôi có sự tương đồng về số lượng tế bào có nhân, số lượng tiểu cầu và tỷ lệ thành phần tế bào đơn nhân trong khối tế bào gốc tủy xương sau tách (xem bảng 4.1). TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 134 Bảng 4.1. So sánh kết quả nghiên cứu của chúng tôi với một số nhóm tác giả khác về thành phần tế bào có nhân, đơn nhân và tiểu cầu trong khối TBGTX Thành phần tế bào Đơn vị Nguyễn Mạnh Khánh (n=65) Nguyễn Thanh Bình (n=112) Chúng tôi (n=46) TB có nhân G/L 44,5 ± 26,0 47,36 ± 30,12 66,33 ± 46,12 TB đơn nhân % 59,0 ± 13,8% 58,31 ± 14,18 60,05 ± 14,98 Tiểu cầu G/L 337,17 ± 217,73 468,26 ± 306,24 Tỷ lệ tế bào còn sống trong khối TBG được ghép cho bệnh nhân là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng của khối TBG. Quá trình xử lý DTX ngoài cơ thể để tách chiết và thu gom các TBG có thể gây hư hại và làm chết một số tế bào. Do đó chúng tôi tiến hành xác định tỷ lệ tế bào còn sống trong khối TBG trước khi ghép cho bệnh nhân bằng phương pháp loại trừ thuốc nhuộm xanh trypan, dựa trên nguyên lý các tế bào sống có màng còn nguyên vẹn nên không ngấm thuốc nhuộm xanh trypan và sáng màu khi soi tươi trên kính hiển vi quang học, trong khi các tế bào chết bị ngấm xanh trypan nên bắt màu xanh. Tiến hànhkỹ thuật này chỉmất 10 - 20 phút. Kết quả ở Bảng 3.2 cho thấy tỷ lệ tế bào sống trong khối TBG của chúng tôi trung bình là 95,67±1,33 (93-99%). Tỷ lệ này cho thấy quá trình tách chiết cô đặc dịch tủy xương của chúng tôi đã đảm bảo được sự toàn vẹn và sống sót của tế bào trong khối TBG sản phẩm. Kết quả của chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu kháccủa Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Mạnh Khánh [9],[10]. ‒ Thành phần TBG tạo máu và TBG trung mô trong khối TBG TBG tạo máu (HSC) là loại TBG của tủy xương được nghiên cứu ứng dụng từ khá lâu trong điều trị các bệnh lý của cơ quan tạo máu và hỗ trợ điều trị một số bệnh ung thư của tổ chức rắn. Gần đây, người ta đã phát hiện ra khả năng biệt hóa “mềm dẻo” của TBG tạo máu, đó là khả năng chuyển biệt hóa (transdifferentiation) [7], nhờ đó các nghiên cứu ứng dụng TBG tạo máu trong điều trị tái tạo các cơ quan tổ chức rắn bắt đầu được tiến hành. Nhiều nghiên cứu trên động vật thực nghiệm và thử nghiệm tiền lâm sàng trên người, các tác giả đã chứng minh TBG tạo máu có khả năng chuyển biệt hóa thành các tế bào có nguồn gốc khác nhau như tế bào thần kinh, cơ tim, xương, sụn khớp [2],[3],[9] TBG trung mô (MSC) là những tế bào đệm của tủy xương, dưới các tác động kích thích của các yếu tố phát triển, TBG trung mô có thể biệt hóa thành các tế vào có nguồn gốc trung mô, trong đó có tế bào sụn khớp. Thành phần TBG trung mô được chúng tôi xác định bằng nuôi cấy cụm, theo đó mỗi TBG trung mô sau nuôi cấy trong 2 tuần sẽ mọc một cụm CFU-F [98]. Dựa vào số cụm CFU-F để xác định được số TBG trung mô được bơm vào khớp gối. Đối chiếu kết quả nghiên cứu của chúng tôi với các tác giả Nguyễn Mạnh Khánh, Nguyễn Thái Bình và cộng sự thấy rằng tỷ lệ tế bào CD34(+), số cụm CFU-F/106 tế bào của khối TBG là tương đương. Số cụm CFU-F/ ml khối TBG của chúng tôi gần gấp 3 lần so với Nguyễn Thanh Bình và Nguyễn Mạnh Khánh vì thể tích cô đặc khối TBG của chúng tôi là 10ml, trong khi đó thể tích cô đặc khối TBG của Nguyễn Thanh Bình và Nguyễn Mạnh Khánh là 30ml (xem bảng 4.2). Bảng 4.2. So sánh kết quả nghiên cứu của chúng tôi với một số nhóm tác giả khác về thành phần tế bào CD34(+), số cụm CFU-F trong khối TBGTX NC TB Nguyễn Thanh Bình Nguyễn Mạnh Khánh Chúng tôi Tỷ lệ tế bào CD34(+) 1,231 ± 0,69% 1,3 ± 0,5% 1,44 ± 0,67%. Cụm CFU-F/106 tế bào 53,43 (11-112) 25 (15-39) 43,17 (7-140) Cụm CFU-F/ml khối TBGTX 1746,99 (96,8-5946,6) 1026 (364-1996) 3336,83 (283,9-22698) Phần 2: Phẫu thuật nội soi và thay khớp 135 • Vai trò của tạo tổn thương dưới sụn và quá trình biệt hóa của TBG Mục đích của phẫu thuật nội soi tạo tổn thương dưới sụn thứ nhất là làm sạch khớp, thứ hai là tạo các tổn thương mới tại vùng khuyết sụn, tạo môi trường vi môi cho tế bào gốc bám dính, tăng sinh và biệt hóa. Shapiro và cộng sự [12] nghiên cứu trên 112 thỏ được gây tổn thương dưới sụn và ghép TBGTX, diễn biến quá trình tạo sụn được đánh giá tại nhiều thời điểm. Kết quả cho thấy, vài ngày đầu cục huyết khối tan dần, để lại các sợi fibrin sắp xếp thành vòm phủ đầy vùng khuyết sụn. TBG bám dính theo trục sợi huyết và di chuyển hướng tâm trên vùng khuyết sụn. Bằng chứng đầu tiên của sự phục hồi sụn mới là sự xuất hiện chất ngoại bào của mô sụn bằng hiện tượng bắt màu thuốc nhuộm safranin-O ở ngày thứ 10. Sang tuần thứ 3 tế bào sụn bắt đầu xuất hiện xung quanh chu vi vùng khuyết sụn, tại đáy của vùng khuyết sụn, các nguyên bào sụn sắp xếp thành lớp. Từ tuần thứ 12-24 số lượng tế bào sụn phát triển mạnh, ranh giới sụn lành và sụn mới mờ dần, các sợi collagen, proteoglycan tăng sinh, các sợi xơ bị phá hủy. Từ tuần thứ 36 - 48 lớp sụn hyaline bền vững hoàn chỉnh. Trên mô học, các thành phần của sụn sắp xếp theo 4 lớp, trong đó tế bào sụn càng biệt hóa càng tập trung gần bề mặt của sụn (lớp 1), nguyên bào sụn và tế bào sụn biệt hóa thấp nằm gần phía đáy. Tiểu cầu được cho là yếu tố kích thích TBG tăng sinh và biệt hóa khi các hạt α được ly giải, tạo ra các cytokine và yếu tố tăng trưởng (GF). Trong khối TBG tiêm vào khớp gối có số lượng tiểu cầu trung bình là 468,26 G/L (bảng 3.2). • Hiệu quả lâm sàng Diễn biến sau mổ không có trường hợp nào bị các biến chứng như tụ máu, chảy máu tại vị trí lấy DTX, hay nhiễm trùng tại khớp gối. Trong quy trình nghiên cứu của chúng tôi từ chọc hút lấy DTX, tách chiết khối TBG, nội soi khớp và tiêm TBG vào khớp gối đều được đảm bảo vô trùng tuyệt đối. Khối TBG khi tiêm vào khớp chúng tôi đều cho nuôi cấy và âm tính với vi khuẩn, nấm. Thời gian lấy DTX và nội soi khớp cũng ảnh hưởng đến kết quả điều trị, theo đó thời gian càng ngắn thì nguy cơ nhiễm trùng càng thấp. Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian lấy DTX trung bình 11,17 phút, thời gian nội soi khớp gối trung bình 43,72 phút. Diễn biến toàn thân sau tiêm TBG vào khớp gối của tất cả các bệnh nhân đều ổn định, chúng tôi không gặp trường hợp nào bị sốc hay phản ứng sốt sau ghép. Đây cũng là một ưu điểm của ghép khối TBGTX tự thân do tránh được các nguy cơ của phản ứng thải ghép. Mặt khác, tiêm khối TBGTX vào khớp phần nào an toàn hơn tiêm vào tổ chức trong cấy ghép ở các cơ quan khác của cơ thể. Phản ứng tại chỗ như tấy đỏ hay viêm da, ngứa không có trường hợp nào được ghi nhận. Thời gian đánh giá kết quả sau mổ dài nhất sau 24 tháng (58,7%), thấy rằng không có bệnh nhân nào có dấu hiệu đau hay bất kỳ một than phiền nào tại vị trí lấy DTX. Tại khớp gối, không có trường hợp nào có dấu hiệu nhiễm trùng hay xơ dính khớp. Hai vết sẹo mổ nhỏ vài milimet không ảnh hưởng đến chức năng và thẩm mỹ của khớp. Có thể thấy rằng nội soi tạo tổn thương dưới sụn và ghép khối TBGTX điều trị THKG là phương pháp an toàn và ít xâm lấn. Tình trạng đau gối ở trạng thái nghỉ ngơi được cải thiện ngay sau mổ 1 tháng, với điểm VAS trung bình từ 2,77 xuống 2,37 (p<0,05). Ở trạng thái vận động, tình trạng đau không thay đổi sau một tháng (p>0,05) (biểu đồ 1). Đau gối ở trạng thái nghỉ ngơi được cải thiện sớm sau mổ được giải thích do vai trò của rửa khớp qua nội soi. Rửa khớp có thể cải thiện lâm sàng nhờ loại bỏ được các mảnh dị vật nhỏ do quá trình bào mòn của sụn khớp gây ra, loại bỏ các cytokines gây viêm màng hoạt dịch. Bắt đầu từ tháng thứ 6 trở đi tình trạng đau gối được cải thiện rõ rệt so với trước mổ ở cả hai trạng thái vận động và nghỉ ngơi. Theo Shapiro, tình trạng đau ở giai đoạn này được cải thiện do sụn khớp được phục hồi. Về chức năng khớp gối, chúng tôi đánh giá dựa vào thang điểm KOOS (Knee Injury and Osteoarthritis Outcome Score). Điểm KOOS trung bình chung sau mổ tăng rõ rệt thể hiện chức năng khớp gối cải thiện tốt (biểu đồ 3.3). Khi xét riêng rẽ từng biểu hiện chức năng khớp gối, mức độ cải thiện chậm nhất là khả năng chơi thể thao (biểu đồ 3.2). Chất lượng cuộc sống (CLCS) được đánh giá trước mổ có điểm số trung bình khá thấp là 31,25, điều này cho thấy bệnh THKG ảnh hưởng lớn đến CLCS của người bệnh. Sau mổ trên 24 tháng (27 bệnh nhân), điểm số về CLCS ở mức 78,24/100. Như vậy CLCS đã được cải thiện rõ rệt sau mổ. Liên quan giữa số lượng tế bào CD34(+) và số lượng cụm CFU-F tiêm vào khớp gối với kết quả cải thiện lâm sàng sau mổ 12 tháng thấy rằng, số điểm KOOS tương quan tỷ lệ thuận với số lượng tế bào CD34(+)(r=0,19) và số lượng cụm CFU-F (r=0,75) (biểu đồ 3.4 và 3.5), điều này cho thấy vai trò của TBG trung mô trong tái TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2016 136 tạo, phục hồi sụn khớp đã cải thiện đáng kể chức năng khớp gối. Đánh giá phục hồi sụn khớp sau mổ trên phim CHT thấy rằng, trước mổ điểm Noyes trung bình là 11,85; thể tích sụn trung bình đo được tại một diện khớp có mức độ tổn thương sụn nặng nhất là 0,4512 cm3, sau mổ 12-24 tháng, điểm Noyes trung bình là 6,72; thể tích sụn đo được trung bình là 0,5462 cm3, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,001 (bảng 3.5). Điều này chứng minh hiệu quả phục hồi sụn khớp của phương pháp điều trị. Tuy nhiên cách đánh giá bằng phim CHT của chúng tôi mới chỉ dừng lại ở hình thái, không đánh giá được cấu trúc sụn sinh học của sụn mới. Để đánh giá cấu trúc sinh học của sụn mới xem có giống sụn hyaline không, phải chụp CHT có tiêm gadolinium-enhanced có trì hoãn, với chuỗi xung T1ρ để nhận biết được độ tập trung của thành phần glycosaminogly, chuỗi xung T2 sẽ nhận biết được thành phần collagen của sụn khớp [13]. Trong nghiên cứu của chúng tôi không thể áp dụng phương pháp này vì thời gian chụp mỗi bệnh nhân có thể kéo dài hàng tiếng đồng hồ. Mặt khác phương pháp này chưa phổ biến tại Việt Nam. V. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu ứng dụng điều trị cho 46 bệnh nhân THKG độ II và độ III bằng nội soi tạo tổn thương dưới sụn kết hợp ghép khối tế bào gốc tủy xương tự thân chúng tôi rút ra một số kết luận sau: - Bệnh nhân có tuổi trung bình: 54,82 tuổi, có thành phần và tỷ lệ tế bào tủy xương nằm trong giới hạn của người trưởng thành bình thường. Khối TBGTX thu được sau khi tách từ 120 ml dịch tủy xương tự thân và cô đặc thành 10ml, được tiêm vào khớp gối có tổng số tế bào CD34(+) trung bình là 8,15 ± 5,5 x 106 và tổng số tế bào tạo cụm CFU-F trung bình là 33 ± 39 x103. - Kết quả cải thiện lâm sàng khá rõ, sau mổ 1 tháng tình trạng đau gối ở trạng thái nghỉ ngơi đã cải thiện. Ở trạng thái vận động, đánh giá ở các thời điểm sau mổ 6,12,18 và 24 tháng đều cải thiện rõ rệt theo thời gian; điểm KOOS tăng dần tại các thời điểm đánh giá; chức năng khớp gối được hồi phục; điểm Noyes trước mổ trung bình là 11,85, sau mổ 12-24 tháng giảm xuống trung bình còn 6,72, thể tích sụn tăng trung bình từ 0,4512 cm3 lên 0,5462 cm3. Tài liệu tham khảo 1. Trần Ngọc Ân (1995). Hư khớp và hư cột sống, bệnh thấp khớp. nhà xuất bản y học. NXB Y học: tr. 193-209. 2. Lim Wey Wen (2010). A clinical study shows that it is possible to regenerate cartilage in damaged joints using patients’ own blood stem cells. Arthroscopy Journal of Arthrosopic and Related Surgery, 26(12): A1-A15 3. Wakitani S., Okabe, S. (2009). Safety of autologous bone marrow-derived mesenchymal stem cell transplantation for cartilage repair in 41 patients with 45 joints followed for up to 11 years and 5 months. J Tissue Eng Regen Med, 5(2): p. 146-50. 4. Kellgren J. H. Lawrence J. S (1957). “Radiologic assessment of osteoarthritis”, Ann. Rheum Dis., vol. 16, pp. 494–501 5. Gillian A. Hawker et al, (2011). Measures of adult pain. Arthritis Care & Research: 63(11): p. S240-S252 6. Lohmander LS, Ekdahl C (1998). Knee Injury and Osteoarthritis Outcome Score (KOOS). J Orthop Sports Phys Ther. 1998 Aug;28(2):88-96 7. Nguyễn Thị Thu Hà và cộng sự (2006). Tế bào gốc tạo máu. Tạp chí y dược lâm sàng BV 108. 1(1): tr. 13-17. 8. Takafumi Yokota, Kenji Oritani, and Stefan Butz (1998). Markers for Hematopoietic Stem Cells:Histories and Recent Achievements. Blood Rev. 95: p. 2813-2820. 9. Nguyễn Mạnh Khánh (2001), Nghiên cứu ứng dụng ghép tế bào gốc tuỷ xương tự thân điều trị chậm liền xương, khớp giả thân xương chày. Luận án Tiến sỹ Y học. 10. Nguyễn Thanh Bình (2011). Nghiên cứu đặc tính và hiệu quả của khối tế bào gốc tự thân từ tuỷ xương trong điều trị một số tổn thương xương, khớp. Luận án Tiến sỹ Y học, p. 69. 11. Burnouf, T., et al (2013). Blood-derived biomaterials and platelet growth factors in regenerative medicine. Blood Rev. 27(2): p. 77-89. 12. Shapiro, F., S. Koide, and M.J. Glimcher (1993). Cell origin and differentiation in the repair of full-thickness defects of articular cartilage. J Bone Joint Surg Am. 75(4): p. 532-53. 13. Reed, M.E., et al (2013). 3.0-Tesla MRI and arthroscopy for assessment of knee articular cartilage lesions. Orthopedics, 36(8): p. e1060-4.
File đính kèm:
danh_gia_ket_qua_dieu_tri_thoai_hoa_khop_goi_tien_phat_bang.pdf

