Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật nội soi ung thư thanh quản giai đoạn T1N0M0 tại Bệnh viện Ung bướu Hà Nội
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cắt lớp vi tính (CLVT) và đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi ung thư
thanh quản (UTTQ) T1N0M0.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 41 bệnh nhân UTTQ T1N0M0 từ 01/2014 đến 01/2018
tại bệnh viện Ung Bướu Hà Nội.
Kết quả: UTTQ đều ở thanh môn. Đa số UTTQ tổn thương dạng sùi (85,3%). Lát cắt rìa có 4,8% BN có
MBH dương tính. 70,7% bệnh nhân được phẫu thuật mở khí quản chủ động và nội soi cắt thanh quản.
Biến chứng chảy máu và tràn khí dưới da chiếm 2,4%. Tỷ lệ tái phát và di căn vùng đều là 2,4%.
Kết luận: Phương pháp phẫu thuật nội soi cắt thanh quản cho thấy kết quả khả quan với tỷ lệ biến chứng
và di căn thấp.
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật nội soi ung thư thanh quản giai đoạn T1N0M0 tại Bệnh viện Ung bướu Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật nội soi ung thư thanh quản giai đoạn T1N0M0 tại Bệnh viện Ung bướu Hà Nội
ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 64 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT NỘI SOI UNG THƯ THANH QUẢN GIAI ĐOẠN T1N0M0 TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU HÀ NỘI ĐÀM TRỌNG NGHĨA1, BÙI THANH HÙNG2 TÓM TẮT Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cắt lớp vi tính (CLVT) và đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi ung thư thanh quản (UTTQ) T1N0M0. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 41 bệnh nhân UTTQ T1N0M0 từ 01/2014 đến 01/2018 tại bệnh viện Ung Bướu Hà Nội. Kết quả: UTTQ đều ở thanh môn. Đa số UTTQ tổn thương dạng sùi (85,3%). Lát cắt rìa có 4,8% BN có MBH dương tính. 70,7% bệnh nhân được phẫu thuật mở khí quản chủ động và nội soi cắt thanh quản. Biến chứng chảy máu và tràn khí dưới da chiếm 2,4%. Tỷ lệ tái phát và di cĕn vùng đều là 2,4%. Kết luận: Phương pháp phẫu thuật nội soi cắt thanh quản cho thấy kết quả khả quan với tỷ lệ biến chứng và di cĕn thấp. ABSTRACT Assess the results of endoscopic surgery forthe treatment of laryngological cancer T1N0M0 at Hanoi Oncology Hospital Objective: To study clinical, CT Scanner features of laryngeal carcinoma T1N0M0 and result of surgery. Method: Performing cross sectional study on 41 patients diagnosis with T1N0M0 and cutting of the larynx section from 01/2014 to 01/2018 at Hanoi Oncology Hospital. Result: The laryngeal cancer is all in the glottis and tumor in the vocal. Most laryngeal cancer lesions in the form of the larynx (85.3%).Cutting edge having 4.8% of patients with positive pathohistography. 70.7% of patients are actively administered tracheoscopic and endoscopic laryngoscopy. Complications of bleeding and subcutaneous gasesaccounted for 2.4%. The incidence of relapse and regional metamigrations is 2.4%. Conclusion: Laparoscopic surgical methods of laryngoscopy indicate a possible outcome with a low rate of complications and metamigrations. 1 TS.BS. Khoa Phẫu thuật đầu cổ - Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội 2 ThS.BS. Khoa Phẫu thuật đầu cổ - Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư thanh quản là một khối u ác tính xuất phát chủ yếu từ lớp biểu mô thanh quản. Đây là loại ung thư đứng hàng thứ 8 trong các ung thư ác tính hay gặp nhất và đứng hàng thứ hai trong các khối u ác tính đường hô hấp, sau ung thư phổi. Ở Việt Nam, trong số các ung thư vùng đầu cổ, ung thư thanh quản đứng hàng thứ 2 sau ung thư vòm mũi họng[1,2,3]. Ung thư thanh quản gặp ở nam giới nhiều hơn nữ giới với tỉ lệ khác nhau ở từng nước, Việt Nam khoảng 10/1[4,5], đa phần ung thư thanh quản xuất phát từ vùng thanh môn (90%). Nhóm tuổi hay gặp nhất từ 40 tuổi đến 70 tuổi. Thuốc lá và rượu được xem như là yếu tố nguy cơ chính của ung thư thanh quản[6,7]. Điều trị ung thư thanh quản hiện nay chủ yếu là phẫu thuật và tia xạ, trong đó phẫu thuật vẫn giữ vai trò quan trọng. Đối với ung thư thanh quản giai đoạn sớm hiện nay ở Việt Nam, điều trị chủ yếu là phẫu thuật với xu hướng phẫu thuật bảo tồn chức nĕng của thanh quản, bao gồm chức nĕng phát âm và chức nĕng nuốt. Tuy nhiên, việc điều trị phẫu thuật luôn gặp mẫu thuẫn giữa mục tiêu lấy hết bệnh tích và khả nĕng giữ được chức nĕng của thanh quản. Nhiều phương pháp phẫu thuật bảo tồn thanh quản khác nhau đã được nghiên cứu và phát triển và phẫu thuật nội soi cũng ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 65 là một hướng đi có nhiều ưu điểm vượt trội. Từ nĕm 2011 đến nay, Khoa Ngoại Đầu cổ - Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội đã tiến hành phẫu thuật cắt thanh quản bảo tồn với những bệnh nhân UTTQ giai đoạn sớm, mang lại kết quả rất tốt về bảo tồn chức nĕng thanh quản, kết quả về ung thư học, ít biến chứng. Để đánh giá một cách đầy đủ hơn về phương pháp phẫu thuật, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật nội soi ung thư thanh quản giai đoạn T1N0M0 tại Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội” với hai mục tiêu: 1. Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cắt lớp vi tính ung thư thanh quản giai đoạn T1N0M0. 2. Đánh giá kết quả phẫu thuật nội cắt thanh quản tại Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội từ 2014-2018. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân được chẩn đoán xác định UTTQ giai đoạn T1N0M0 và điều trị phẫu thuật nội soi thanh quản. Tiêu chuẩn lựa chọn + Được chẩn đoán UTTQ giai đoạn T1 tầng thanh môn (qua lâm sàng, nội soi, CLVT), phù hợp chỉ định và được phẫu thuật nội soi. + Kết quả giải mô bệnh học là ung thư thanh quản biểu mô vảy. Thời gian và địa điểm nghiên cứu Từ 01/2014 đến 01/2018 tại bệnh viện Ung Bướu Hà Nội. Phương pháp nghiên cứu Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện 41 bệnh nhân. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Xử lý và phân tích số liệu Mô tả tần suất, tỷ lệ phần trĕm và mối liên quan, tương quan bằng phần mềm thống kê SPSS 16.0. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Đặc điểm lâm sàng và CLVT Tuổi, giới Tổng số 41 bệnh nhân được chẩn đoán xác định UTTQ giai đoạn T1N0M0 và điều trị phẫu thuật nội soi tham gia vào nghiên cứu. Trong đó, nam giới chiếm 92,7% và độ tuổi trung bình của bệnh nhân là 56 tuổi, lứa tuổi hay gặp nhất là từ 51-60 chiếm 48,8%. Yếu tố nguy cơ Bảng 1. Yếu tố nguy cơ Yếu tố nguy cơ Tần số Tỉ lệ % Hút thuốc 27 65,9 Uống rượu 14 34,1 Hút thuốc và uống rượu 13 31,7 U nhú (Papilloma) 2 4,9 Loạn sản, bạch sản 2 4,9 Tia xạ 0 0 Phần lớn bệnh nhân có yếu tố nguy cơ là hút thuốc lá (65,9%) và uống rượu (34,1%) và cả 2 là 31,7%. Vị trí và hình thái tổn thương trên nội soi Bảng 2. Vị trí và hình thái tổn thương khi nội soi (n = 41) Nội dung n % Vị trí tổn thương khi nội soi 1/3 Trước 19 46,3 1/3 Giữa 22 53,7 1/3 Sau 8 19,5 Mép trước 7 17,1 Hình thái tổn thương khi nội soi n % U sùi 35 85,3 Bạch sản/TNĐ 3 7,3 U dạng polyp 1 2,4 U dạng nhú 2 4,8 Khi soi phóng đại bằng nội soi cho thấy tổn thương ung thư khu trú ở dây thanh với 53,7% ở 1/3 giữa chiếm tỉ lệ lớn nhất và u sùi là hình thái tổn thương chủ yếu trong UTTQ (85,3%) và u sùi tổn thương dạng bạch sản trên nền thâm nhiễm đỏ (7,3%). Vị trí tổn thương trên CLVT Bảng 3. Vị trí tổn thương trên CLVT (n = 41) Vị trí n % Thanh môn 41 100 Vị trí khác 0 0 Tổng 41 100 Vị trí tổn thương u trên CLVT đều ở thanh môn, không có dấu hiệu xâm lấn sang vị trí khác. ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 66 Phân độ tổn thương theo TNM Bảng 4. Phân độ tổn thương trước mổ (n = 41) Phân độ n % T1aNoMo 34 82,9 T1bNoMo 7 17,1 Đa phần UTTQ là T1aNoMo (82,9%), chỉ 7 trường hợp T1b (17,1%) Kết quả phẫu thuật Phương pháp phẫu thuật Bảng 5. Phương pháp phẫu thuật và (n = 41) Phương pháp phẫu thuật n % Mở khí quản + nội soi vi phẫu 29 70,7 Nội soi vi phẫu 12 29,1 Phần lớn bệnh nhân được phẫu thuật nội soi vi phẫu thanh quản có mở khí quản (70,7%). Kết quả mô học lát cắt rìa sau mổ Bảng 6. Kết quả mô học lát cắt rìa sau mổ Kết quả mô học lát cắt rìa n % Âm tính 39 95,2 Dương tính 2 4,8 Phần lớn kết quả mô học lát cắt rìa âm tính (95,2%), có 4,8% trường hợp có kết quả mô bệnh học lát cắt rìa sau mổ dương tính. Biến chứng sau phẫu thuật Bảng 7. Biến chứng sau phẫu thuật (n = 41) Biến chứng sau phẫu thuật n % Có 2 4,8 Không 39 95,2 Tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật thấp (4,8%) bao gồm 1 trường hợp chảy máu và 1 trường hợp tràn khí dưới da. Đánh giá chức nĕng và thời gian nằm viện Bảng 8. Đánh giá chức nĕng và thời gian nằm viện Đánh giá chức nĕng và thời gian nằm viện Ngày Thời gian cho ĕn thử bằng miệng 8,5 ± 2,7 Thời gian rút sonde ĕn 11,8 ± 5,3 Thời gian rút canuyn 15,1 ± 7,3 Thời gian nằm viện 10,3 ± 8,0 Sau phẫu thuật, thời gian cho ĕn thử bằng miệng, thời gian rút sonde ĕn, thời gian rút canuyn sau phẫu thuật và thời gian nằm viện trung bình lần lượt trung bình là 8 ngày,12 ngày; 15 ngày,10 ngày. Đánh giá khả nĕng phát âm, 100% có giọng nói hiểu được rõ lời. Điều trị bổ trợ sau phẫu thuật và tái phát Bảng 9. Điều trị bổ trợ sau phẫu thuật và tái phát di cĕn (n = 41) Nội dung n % Điều trị bổ trợ sau phẫu thuật Xạ trị 4 9.8 Không xạ trị 37 91.2 Tái phát di cĕn Di cĕn hạch 2 4,8 Tái phát tại chỗ 2 4,8 Có 9,8% bệnh nhân được điều trị tiếp bằng xạ trị. Có 4,8% tái phát tại chỗ sau 8 tháng, 4,8% di cĕn hạch cổ cùng bên và chưa phát hiện trường hợp nào di cĕn xa. BÀN LUẬN Đặc điểm lâm sàng và cắt lớp vi tính. Trong 41 bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi thấy tuổi mắc trung bình của bệnh nhân là 56 trong đó nhóm tuổi từ 51 - 60 chiếm tới 48,8%. Bệnh nhân nam chiếm đa số, chỉ có 3 bệnh nhân là nữ với tỉ lệ 12,7/1. Kết quả này phù họp với nghiên cứu khác của các tác giả trong nước như Bùi Thế Anh[1], Các công bố trước đây cho thấy UTTQ có liên quan chặt chẽ tới thói quen hút thuốc và uống rượu. Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 65,9% bệnh nhân có tiền sử hút thuốc, 34,1% có tiền sử uống rượu và 31,7% có tiền sử vừa hút thuốc vừa uống rượu. Kết quả này tương tự nghiên cứu của Phạm Vĕn Hữu[9]. Khi nội soi cho thấy khối u ở vị trí 1/3 giữa dây thanh chiếm 53,7%. Việc dùng ống cứng chỉ cho chúng ta cái từ phía trên xuống, chỉ quan sát được ở một khoảng cách nhất định, nên chủ yếu đánh giá được tổn thương thượng thanh môn và thanh môn, hạn chế đánh giá tổn thương hạ thanh môn, buồng Morgani và mép trước nểu chân sụn nắp lồi nhiều vào lòng thanh quản.Tuy nhiên lại đánh giá về sự di động của dây thanh rất tốt. Qua thĕm khám bằng nội soi, chúng tôi gặp đa số tổn thương đại thể khối u UTTQ ở dạng sùi (85,3%) và các dạng khác (14,7%). Hình thái u thâm nhiễm cũng là thể khó chẩn đoán, chúng tôi không gặp trưòng hợp nào trong số các bệnh nhân UTTQ. ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 67 Phạm Vĕn Hữu cũng phát hiện có 83,33% sổ bệnh nhân UTTQ có hình ảnh tổn thương dạng u sùi. Ngoài ra nhóm nghiên cứu còn gặp một số hình thái tổn thương khác như: bạch sản/ TNĐ (3 trường họp), u dạng polyp (1 trường họp) và u dạng nhú (1 trường họp). Kết quả này cho thấy cần phải làm mô bệnh học với tất cả các u lành tính dây thanh để tránh bỏ sót tổn thương ác tính[9]. Việc phân độ tổn thương tại chỗ hiện nay cần phối hợp nhiều phương pháp thĕm khám khác nhau. Kết hợp thĕm khám lâm sàng và hình ảnh chụp CLVT, chúng tôi nhận thấy có 34 bệnh nhân (82,9%) có UTTQ T1a; có 7 bệnh nhân (17,1%) ở giai đoạn Tlb. Nghiên cứu của Nguyễn Vĩnh Toàn cho thấy, dù khám trên lâm sàng có hiệu quả nhất định trong chẩn đoán giai đoạn T của khối u UTTQ nhưng vẫn cần phải dựa vào thông tin từ hình ảnh CLVT. Trong nghiên cứu của Nguyễn Vĩnh Toàn, 11 bệnh nhân được đánh giá là T1 trên lâm sàng, sau khi đượckiểm tra chụp CLVT thấy chỉ có 9 trường hợp là đúng (81,8%). Còn 1 trường hợp đã chuyển sang giai đoạn T2 thậm chí có một bệnh nhân sang giai đoạn T3 do ở bệnh nhân này tổn thương đã xâm lấn vào khoang cạnh thanh môn cho dù di động dây thanh vẫn bình thưòng và đã thay đổi hẳn phương pháp điều trị. Từ chỗ chỉ định cắt dây thanh trên lâm sàng, qua đánh giá CLVT bệnh nhân phải cắt bỏ thanh quản toàn phần[3]. Sự không phù hợp này có thể được giải thích, qua thĕm khám lâm sàng và nội soi chúng ta chỉ quan sát được bề mặt của tổn thương, sự di động của thanh quản, không thể đánh giá được sự xâm nhập sâu của khối u vì vậy chụp CLVT với những lớp cắt mỏng, và sự tái tạo chính xác không gian 3 chiều để đánh giá mức độ xâm lấn của khối u, giúp chúng ta đánh giá được sự lan tràn của bệnh đúng với giai đoạn của khối u. Tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi, phân độ T trên lâm sàng phù hợp với hình ảnh CLVT. Mô bệnh học lát cắt rìa và hạch: Chúng tôi tiến hành cắt lại các mảnh tổ chức vùng rìa để làm mô bệnh học. Phẫu thuật viên chỉ có thể đánh giá sự xâm lấn của khối u ở mức đại thể mà không thể đánh giá được ở mức vi thể, nhất là những tổn thương vi xâm nhập vì vậy một nguyên tắc cơ bản trong phẫu thuật ung thư nói chung, ung thư thanh quản và ung thư hạ họng nói riêng là sau khi phẫu thuật lấy bỏ bệnh tích ung thư cần phải sinh thiết xung quanh diện cắt còn lại (hay vùng rìa) để làm giải phẫu bệnh giúp xác định phẫu thuật đã lấy hết bệnh tích ở mức độ vi thể hay còn sót lại bệnh tích. Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ gặp 2 BN có kết quả dương tính của diện cắt, các trường hợp còn lại có đều kết quả mô học vùng rìa âm tính. Hai bệnh nhân này chúng tôi chỉ định xạ trị hậu phẫu bổ trợ. Điều này cho thấy khả nĕng lấy hết tổn thương ung thư của phương pháp nội soi đối với giai đoạn T1 là rất cao. Đồng thời các xét nghiệm mô bệnh học này hỗ trợ đắc lực cho quá trình phẫu thuật cũng như áp dụng phưong pháp điều trị bổ sung bằng tia xạ hoặc hóa chất sau mổ, kịp thời khắc phục các thiểu sót trong phẫu thuật. Ở giai đoạn sớm hơn của UTTQ như T1, các phẫu thuật dễ dàng hơn trong việc loại bỏ khối u và khả nĕng tái phát ung thư do cắt còn sót tổ chức ung thư thấp. Tuy nhiên, việc kiểm tra sót tổ chức ác tính bằng mô bệnh học lát cắt rìa vẫn hết sức hũư ích để kéo dài cuộc sổng người bệnh. Kết quả phẫu thuật Các bệnh nhân tham gia trong nghiên cứu này đều được tiến hành phẫu thuật cắt thanh quản qua nội soi. Trong số 41 bệnh nhân được phẫu thuật, có 29 bệnh nhân được mở khí quản chủ động. Đây là những bệnh nhân trên hình ảnh soi thanh quản, u khá lớn và/ hoặc lan qua mép trước nên chúng tôi chủ động mở khí quản và gây mê qua canuyn để phẫu trường rộng rãi và dự phòng tai biến sau mổ như chảy máu, khó thở Trong nghiên cứu của chúng tôi, các bệnh nhân đều ở giai đoạn T1 và trên thĕm khám lâm sàng và CLVT đều không phát hiện có hạch di cĕn hay nghi ngờ. Vì vậy chúng tôi không tiến hành vét hạch đối với các bệnh nhân này. Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ gặp 1 trường hợp biến chứng là chảy máu sau mổ vào ngày thứ 6 và 1 trường hợp tràn khí dưới da mức độ nhẹ và đã được xử trí. Nguyên nhân là do trong quả trình phẫu thuật vùng mép trước chúng tôi đã sử dụng dao điện nhiều, gây tổn thương sâu, khi bong giả mạc dễ chảy máu. Biến chứng chảy máu là biến chứng nguy hiểm, chảy máu có thể gây máu tràn vào đường thở, bệnh nhân tử vong nếu không được xử trí đúng và kịp thời. Chính vì biến chứng này, đòi hỏi cơ sở phải có hệ thống theo dõi tốt, các nhân viên y tế phải được làm quen. Bệnh nhân tràn khí dưới da cũng chỉ gặp ở dưới da vùng cổ quanh chân canuyn. Bệnh nhân được theo dõi sát và không thấy triệu chứng tĕng lên và hết sau 2 ngày. Các biến chứng khác như khó thở, nhiễm trùng, viêm phổi, dò, đều không xuất hiện. Xuất hiện biến chứng sau phẫu thuật không chỉ phụ thuộc vào tính chất, giai đoạn bệnh, kinh nghiệm của phẫu thuật viên, mà còn bị ảnh hưởng bởi phương pháp và phương tiện phẫu thuật. Phạm Vĕn Hữu tiến hành phẫu thuật UTTQ giai đoạn Tis, trong nghiên cứu này không gặp trường hợp chảy máu, tuy nhiên gặp 5 trường hợp khó thở do phù nề vùng diện cắt làm hẹp khe thanh môn phải tiến hành mở khí quản[9]. Nghiên cứu hồi cứu của Ganly và cộng sự (2009) trên 150 bệnh nhân cắt bán phần thanh quản do UTTQ bởi ung thư tế bào vẩy được phẫu thuật từ 1984 đến 1998 cho thấy tỉ lệ biến chứng sau phẫu thuật lên tới 11% tổng số bệnh nhân phẫu thuật. Tỉ lệ biến chứng ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 68 cũng phụ thuộc nhiều vào quá trình chiếu xạ trước phẫu thuật tại chỗ gây nên tổn thương, hình thành lỗ rò...[8]. Chức nĕng nuốt: chúng tôi cho bệnh nhân ĕn thử rất sớm, thời gian bắt đầu cho ĕn thử bằng miệng trong phạm vi 5-13 ngày, với thời gian trung bình là 8,5 ngày, thời gian rút sonde ĕn trên nhóm bệnh nhân này trung bình là 11,8 ngày; với thời gian ngắn nhất là 7 ngày, dài nhất lên tới 18 ngày. Nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với các nghiên cứu khác trên bệnh nhân UTTQ như 34 bệnh nhân trong nghiên cứu của Lawson: thời gian nuốt chất đặc sau phẫu thuật là 9 ngày, uống nước là 12 ngày[10], trong nghiên cứu của Yu và cộng sự trên139 bệnh nhân thì thời gian rút sonde ĕn trung bình là 15 ngày[11]. Điều này có thể được giải thích là do bệnh nhân của chúng tôi đều được phẫu thuật nội soi nên thời gian hồi phục sẽ ngắn hơn và khả nĕng hồi phục sẽ tốt hơn.Thời gian rút canuyn: sau phẫu thuật trung bình dài 15,1 ngày với phạm vi dao động từ 8 - 41 ngày. Ngắn hơn so với một số tác giả Lawson là 14 ngày với cùng giai đoạn phẫu thuật UTTQ[10]. Yu và cộng sự nghiên cứu trên 139 bệnh nhân UTTQ giai đoạn TI và T2 được phẫu thuật theo phương pháp Tucker. Kết quả cho thấy 100% bệnh nhân có thể rút canuyn với thời gian trung bình 10 ngày[11]. Việc rút canuyn sớm giúp bệnh nhân sớm hồi phục phản xạ ho, khả nĕng nói. Do vậy, để rút ngắn thời gian đặt canuyn cần kết hợp nhiều yếu tố, đem lại sự phục hồi chức nĕng sớm cho người bệnh. Có một số trường hợp cần tia xạ bổ sung sau mổ, chúng tôi chủ trương lưu lại canuyn đề phòng khó thở do thanh quản bị phù nề trong quá trình tia xạ. Đây là những trường hợp không tính vào nhóm khó rút canuyn. Chức nĕng phát âm: đa phần các bệnh nhân có được giọng nói thỏa đáng, phát âm có thể hiểu được lời qua phỏng vấn trực tiếp và đàm thoại điện thoại. Các bệnh nhân này có thể hòa nhập tốt với cuộc sống. Điều này cũng phù hợp với nghiên cứu trên 139 bệnh nhân UTTQ của Yu và cộng sự: có 121 bệnh nhân (87%) có giọng nói thỏa đáng, 18 bệnh nhân (13%) có giọng nói trung bình. Thời gian nằm viện: thời gian nằm viện trung bình của nhóm bệnh nhân UTTQ là 10,1 ngày với phạm vi từ 8-17 ngày. Thời gian này ngắn hơn khá nhiều so với các nghiên cứu khác trên thế giới như nhóm bệnh nhân UTTQ của Lawson có thời gian điều trị trung bình là 16 ngày[10]. Điều này được giải thích do bệnh nhân của chúng tôi hồi phục rất tốt sau mổ. Khi các chức nĕng của bệnh nhân như ĕn và thở tốt, chúng tôi cho bệnh nhân ra viện. Trong 41 bệnh nhân được phẫu thuật chúng tôi cho xạ trị sau phẫu thuật 4 trường hợp, trong đó có 2 trường hợp MBH lát cắt rìa dương tính. Những trường hợp còn lại tùy thuộc vào đánh giá của phẫu thuật viên trong lúc mổ mà quyết định có tia xạ hay không. Chỉ định xạ trị phối hợp sau mổ theo chúng tôi là một chỉ định khó khĕn, chưa có tiêu chí rõ ràng, nhất là khi hạch cổ đều âm tính và mô bệnh học vùng rìa cũng âm tính. Những trường hợp này chủ yếu chúng tôi dựa vào mức độ tổn thương tại chỗ, khi khối u lớn, khối u thâm nhiễm sâu, để chỉ định phối hợp tia xạ sau mổ. Trong 41 bệnh nhân theo đánh giá sơ bộ của chúng tôi thì không có bệnh nhân nào có di cĕn xa. Chỉ có 2 trường hợp tái phát sau phẫu thuật 8 tháng, chúng tôi đã tiến hành phẫu thuật cắt thanh quản bán phần NVH và cho tia xạ sau phẫu thuật. Có 2 trường hợp di cĕn hạch cổ cùng bên sau 6 tháng, chúng tôi đã nội soi để đánh giá và bấm sinh thiết nhưng không thấy dấu hiện tái phát khối u vì vậy chúng tôi chỉ quyết định NVH chức nĕng bên di cĕn, sau đó cho xạ trị phối hợp và theo dõi sát bệnh nhân. KẾT LUẬN Đặc điểm lâm sàng và CLVT: bệnh gặp chủ yếu ở nam giới tuổi trung niên, liên quan nhiều đến 2 yếu tố nguy cơ là hút thuốc và uống rượu. Kết quả nội soi cho thấy UTTQ đều ở thanh môn. Trên CLVT thấy 100% khối u ở dây thanh. Đa số UTTQ có tổn thương dạng sùi (85,3%). Không phát hiện được dấu hiệu hạch trên lâm sàng và CLVT. Kết quả phẫu thuật: khả nĕng lấy hết bệnh tích cao với tỉ lệ lắt cắt rìa âm tính là 95,2%, ít gặp biến chứng và thời gian hồi phục ngắn, bảo tồn được tối đa chức nĕng thanh quản, tỉ lệ tái phát thấp. Như vậy, phẫu thuật nội soi là phương pháp an toàn và mang lại hiệu quả rất lớn trong điều trị ung thư thanh quản giai đoạn sớm. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Thế Anh (2005). “Đối chiếu biểu hiện của Galectin-3 với đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học của ung thư thanh quản-hạ họng”. Luận vĕn Bác sỹ nội trú bệnh viện, Đại học Y Hà Nội. 2. Đỗ Xuân Anh (2007). “Nghiên cứu hình thái học u biểu mô dây thanh”. Luận vĕn thạc sỹ y học, ĐHY Hà Nội. 3. Nguyễn Vĩnh Toàn (2007). “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, chụp cắt lớp vi tính của tổn thương ung thư thanh quản đối chiếu với phẫu thuật”. Luận vĕn Bác sỹ nội trú bệnh viên. ĐHY Hà Nội. 4. Nguyễn Khắc Hùng (2003). “Bệnh giọng thanh quản và một số yếu tố nguy cơ ở giáo viên tiểu học huyện Đại Từ-Tỉnh Thái Nguyên”. Luận vĕn thạc sỹ y học, ĐHY Hà Nội. ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 69 5. Ngô Ngọc Liễn (2000). Ung Thư Thanh Quản. Giản yếu tai mũi họng. Tập III. NXB Y học Hà Nội. 6. Silver.C.E (1981). “Historical Aspects” .Surgery for cancer of the Larynx and relatedstructures .pp1-9. 7. Silver.C.E (1981). “Conservation Surgery for Glottic Carcinoma” .Surgery for cancer of theLarynx and related structures. Edited by Carl E.Silver,M.D ,p83-113 P483 – 533. 8. Ganly I, Patel SG, Matsuo J, et al., (2009), “Analysis of postoperative complications of open partial laryngectomy”. Head & Neck.3 1(3): 338 - 45. 9. Phạm Vĕn Hữu, (2008), “Nghiên cứu hình thái lâm sàng, nội soi và đối chiếu với kết quả phẫu thuật của ung thư thanh quản giai đoạn sớm”. Luận vĕn tốt nghiệp bác sỹ nội trú, Trường Đại học Y Hà Nội. 10. Lawson G, Jamart J, Remade M (2001), Improving the functionaloutcome of Tucker's reconstructive laryngectomy. Head &Neck. 23(10):871 - 8. 11. Yup, Antoine G, Bruno G (2005), ‘‘Partial vertical laryngectomywith epiglottis reconstruction- Tucker technique”. Lin Chuang Er BiY anH ouK eZ aZ hi. 19(9):389 - 91, 393.
File đính kèm:
danh_gia_ket_qua_dieu_tri_phau_thuat_noi_soi_ung_thu_thanh_q.pdf

