Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật nội soi ung thư thanh quản giai đoạn T1N0M0 tại Bệnh viện Ung bướu Hà Nội

Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cắt lớp vi tính (CLVT) và đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi ung thư

thanh quản (UTTQ) T1N0M0.

Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 41 bệnh nhân UTTQ T1N0M0 từ 01/2014 đến 01/2018

tại bệnh viện Ung Bướu Hà Nội.

Kết quả: UTTQ đều ở thanh môn. Đa số UTTQ tổn thương dạng sùi (85,3%). Lát cắt rìa có 4,8% BN có

MBH dương tính. 70,7% bệnh nhân được phẫu thuật mở khí quản chủ động và nội soi cắt thanh quản.

Biến chứng chảy máu và tràn khí dưới da chiếm 2,4%. Tỷ lệ tái phát và di căn vùng đều là 2,4%.

Kết luận: Phương pháp phẫu thuật nội soi cắt thanh quản cho thấy kết quả khả quan với tỷ lệ biến chứng

và di căn thấp.

pdf 6 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật nội soi ung thư thanh quản giai đoạn T1N0M0 tại Bệnh viện Ung bướu Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật nội soi ung thư thanh quản giai đoạn T1N0M0 tại Bệnh viện Ung bướu Hà Nội

Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật nội soi ung thư thanh quản giai đoạn T1N0M0 tại Bệnh viện Ung bướu Hà Nội
ĐẦU VÀ CỔ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
64 
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT NỘI SOI 
UNG THƯ THANH QUẢN GIAI ĐOẠN T1N0M0 
TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU HÀ NỘI 
ĐÀM TRỌNG NGHĨA1, BÙI THANH HÙNG2 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cắt lớp vi tính (CLVT) và đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi ung thư 
thanh quản (UTTQ) T1N0M0. 
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 41 bệnh nhân UTTQ T1N0M0 từ 01/2014 đến 01/2018 
tại bệnh viện Ung Bướu Hà Nội. 
Kết quả: UTTQ đều ở thanh môn. Đa số UTTQ tổn thương dạng sùi (85,3%). Lát cắt rìa có 4,8% BN có 
MBH dương tính. 70,7% bệnh nhân được phẫu thuật mở khí quản chủ động và nội soi cắt thanh quản. 
Biến chứng chảy máu và tràn khí dưới da chiếm 2,4%. Tỷ lệ tái phát và di cĕn vùng đều là 2,4%. 
Kết luận: Phương pháp phẫu thuật nội soi cắt thanh quản cho thấy kết quả khả quan với tỷ lệ biến chứng 
và di cĕn thấp. 
ABSTRACT 
Assess the results of endoscopic surgery forthe treatment of laryngological cancer T1N0M0 
at Hanoi Oncology Hospital 
Objective: To study clinical, CT Scanner features of laryngeal carcinoma T1N0M0 and result of surgery. 
Method: Performing cross sectional study on 41 patients diagnosis with T1N0M0 and cutting of the larynx 
section from 01/2014 to 01/2018 at Hanoi Oncology Hospital. 
Result: The laryngeal cancer is all in the glottis and tumor in the vocal. Most laryngeal cancer lesions in the 
form of the larynx (85.3%).Cutting edge having 4.8% of patients with positive pathohistography. 70.7% of 
patients are actively administered tracheoscopic and endoscopic laryngoscopy. Complications of bleeding and 
subcutaneous gasesaccounted for 2.4%. The incidence of relapse and regional metamigrations is 2.4%. 
Conclusion: Laparoscopic surgical methods of laryngoscopy indicate a possible outcome with a low rate of 
complications and metamigrations. 
1
 TS.BS. Khoa Phẫu thuật đầu cổ - Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội 
2
 ThS.BS. Khoa Phẫu thuật đầu cổ - Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư thanh quản là một khối u ác tính xuất 
phát chủ yếu từ lớp biểu mô thanh quản. Đây là loại 
ung thư đứng hàng thứ 8 trong các ung thư ác tính 
hay gặp nhất và đứng hàng thứ hai trong các khối u 
ác tính đường hô hấp, sau ung thư phổi. Ở Việt 
Nam, trong số các ung thư vùng đầu cổ, ung thư 
thanh quản đứng hàng thứ 2 sau ung thư vòm mũi 
họng[1,2,3]. Ung thư thanh quản gặp ở nam giới nhiều 
hơn nữ giới với tỉ lệ khác nhau ở từng nước, 
Việt Nam khoảng 10/1[4,5], đa phần ung thư thanh 
quản xuất phát từ vùng thanh môn (90%). Nhóm tuổi 
hay gặp nhất từ 40 tuổi đến 70 tuổi. Thuốc lá và 
rượu được xem như là yếu tố nguy cơ chính của 
ung thư thanh quản[6,7]. Điều trị ung thư thanh quản 
hiện nay chủ yếu là phẫu thuật và tia xạ, trong đó 
phẫu thuật vẫn giữ vai trò quan trọng. Đối với ung 
thư thanh quản giai đoạn sớm hiện nay ở Việt Nam, 
điều trị chủ yếu là phẫu thuật với xu hướng phẫu 
thuật bảo tồn chức nĕng của thanh quản, bao gồm 
chức nĕng phát âm và chức nĕng nuốt. Tuy nhiên, 
việc điều trị phẫu thuật luôn gặp mẫu thuẫn giữa 
mục tiêu lấy hết bệnh tích và khả nĕng giữ được 
chức nĕng của thanh quản. Nhiều phương pháp 
phẫu thuật bảo tồn thanh quản khác nhau đã được 
nghiên cứu và phát triển và phẫu thuật nội soi cũng 
ĐẦU VÀ CỔ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
65 
là một hướng đi có nhiều ưu điểm vượt trội. Từ nĕm 
2011 đến nay, Khoa Ngoại Đầu cổ - Bệnh viện Ung 
Bướu Hà Nội đã tiến hành phẫu thuật cắt thanh 
quản bảo tồn với những bệnh nhân UTTQ giai đoạn 
sớm, mang lại kết quả rất tốt về bảo tồn chức nĕng 
thanh quản, kết quả về ung thư học, ít biến chứng. 
Để đánh giá một cách đầy đủ hơn về phương pháp 
phẫu thuật, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: 
“Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật nội soi ung thư 
thanh quản giai đoạn T1N0M0 tại Bệnh viện Ung 
Bướu Hà Nội” với hai mục tiêu: 
1. Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cắt lớp vi 
tính ung thư thanh quản giai đoạn T1N0M0. 
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật nội cắt thanh 
quản tại Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội từ 2014-2018. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định UTTQ giai 
đoạn T1N0M0 và điều trị phẫu thuật nội soi thanh 
quản. 
Tiêu chuẩn lựa chọn 
+ Được chẩn đoán UTTQ giai đoạn T1 tầng 
thanh môn (qua lâm sàng, nội soi, CLVT), phù hợp 
chỉ định và được phẫu thuật nội soi. 
+ Kết quả giải mô bệnh học là ung thư thanh 
quản biểu mô vảy. 
Thời gian và địa điểm nghiên cứu 
Từ 01/2014 đến 01/2018 tại bệnh viện Ung 
Bướu Hà Nội. 
Phương pháp nghiên cứu 
Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu 
thuận tiện 41 bệnh nhân. 
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. 
Xử lý và phân tích số liệu 
Mô tả tần suất, tỷ lệ phần trĕm và mối liên quan, 
tương quan bằng phần mềm thống kê SPSS 16.0. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Đặc điểm lâm sàng và CLVT 
Tuổi, giới 
Tổng số 41 bệnh nhân được chẩn đoán xác 
định UTTQ giai đoạn T1N0M0 và điều trị phẫu thuật 
nội soi tham gia vào nghiên cứu. Trong đó, nam giới 
chiếm 92,7% và độ tuổi trung bình của bệnh nhân là 
56 tuổi, lứa tuổi hay gặp nhất là từ 51-60 chiếm 
48,8%. 
Yếu tố nguy cơ 
Bảng 1. Yếu tố nguy cơ 
Yếu tố nguy cơ Tần số Tỉ lệ % 
Hút thuốc 27 65,9 
Uống rượu 14 34,1 
Hút thuốc và uống rượu 13 31,7 
U nhú (Papilloma) 2 4,9 
Loạn sản, bạch sản 2 4,9 
Tia xạ 0 0 
Phần lớn bệnh nhân có yếu tố nguy cơ là hút 
thuốc lá (65,9%) và uống rượu (34,1%) và cả 2 là 
31,7%. 
Vị trí và hình thái tổn thương trên nội soi 
Bảng 2. Vị trí và hình thái tổn thương khi nội soi 
(n = 41) 
Nội dung n % 
Vị trí tổn thương khi nội soi 
1/3 Trước 19 46,3 
1/3 Giữa 22 53,7 
1/3 Sau 8 19,5 
Mép trước 7 17,1 
Hình thái tổn thương khi nội soi n % 
U sùi 35 85,3 
Bạch sản/TNĐ 3 7,3 
U dạng polyp 1 2,4 
U dạng nhú 2 4,8 
Khi soi phóng đại bằng nội soi cho thấy tổn 
thương ung thư khu trú ở dây thanh với 53,7% ở 1/3 
giữa chiếm tỉ lệ lớn nhất và u sùi là hình thái tổn 
thương chủ yếu trong UTTQ (85,3%) và u sùi tổn 
thương dạng bạch sản trên nền thâm nhiễm đỏ 
(7,3%). 
Vị trí tổn thương trên CLVT 
Bảng 3. Vị trí tổn thương trên CLVT (n = 41) 
Vị trí n % 
Thanh môn 41 100 
Vị trí khác 0 0 
Tổng 41 100 
Vị trí tổn thương u trên CLVT đều ở thanh môn, 
không có dấu hiệu xâm lấn sang vị trí khác. 
ĐẦU VÀ CỔ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
66 
Phân độ tổn thương theo TNM 
Bảng 4. Phân độ tổn thương trước mổ (n = 41) 
Phân độ n % 
T1aNoMo 34 82,9 
T1bNoMo 7 17,1 
Đa phần UTTQ là T1aNoMo (82,9%), chỉ 7 
trường hợp T1b (17,1%) 
Kết quả phẫu thuật 
Phương pháp phẫu thuật 
Bảng 5. Phương pháp phẫu thuật và (n = 41) 
Phương pháp phẫu thuật n % 
Mở khí quản + nội soi vi phẫu 29 70,7 
Nội soi vi phẫu 12 29,1 
Phần lớn bệnh nhân được phẫu thuật nội soi vi 
phẫu thanh quản có mở khí quản (70,7%). 
Kết quả mô học lát cắt rìa sau mổ 
Bảng 6. Kết quả mô học lát cắt rìa sau mổ 
Kết quả mô học lát cắt rìa n % 
Âm tính 39 95,2 
Dương tính 2 4,8 
Phần lớn kết quả mô học lát cắt rìa âm tính 
(95,2%), có 4,8% trường hợp có kết quả mô bệnh 
học lát cắt rìa sau mổ dương tính. 
Biến chứng sau phẫu thuật 
Bảng 7. Biến chứng sau phẫu thuật (n = 41) 
Biến chứng sau phẫu thuật n % 
Có 2 4,8 
Không 39 95,2 
Tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật thấp (4,8%) 
bao gồm 1 trường hợp chảy máu và 1 trường hợp 
tràn khí dưới da. 
Đánh giá chức nĕng và thời gian nằm viện 
Bảng 8. Đánh giá chức nĕng và thời gian nằm viện 
Đánh giá chức nĕng và thời gian nằm viện Ngày 
Thời gian cho ĕn thử bằng miệng 8,5 ± 2,7 
Thời gian rút sonde ĕn 11,8 ± 5,3 
Thời gian rút canuyn 15,1 ± 7,3 
Thời gian nằm viện 10,3 ± 8,0 
Sau phẫu thuật, thời gian cho ĕn thử bằng 
miệng, thời gian rút sonde ĕn, thời gian rút canuyn 
sau phẫu thuật và thời gian nằm viện trung bình lần 
lượt trung bình là 8 ngày,12 ngày; 15 ngày,10 ngày. 
Đánh giá khả nĕng phát âm, 100% có giọng nói hiểu 
được rõ lời. 
Điều trị bổ trợ sau phẫu thuật và tái phát 
Bảng 9. Điều trị bổ trợ sau phẫu thuật và tái phát 
di cĕn (n = 41) 
Nội dung n % 
Điều trị bổ trợ sau phẫu thuật 
Xạ trị 4 9.8 
Không xạ trị 37 91.2 
Tái phát di cĕn 
Di cĕn hạch 2 4,8 
Tái phát tại chỗ 2 4,8 
Có 9,8% bệnh nhân được điều trị tiếp bằng 
xạ trị. 
Có 4,8% tái phát tại chỗ sau 8 tháng, 4,8% di 
cĕn hạch cổ cùng bên và chưa phát hiện trường hợp 
nào di cĕn xa. 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm lâm sàng và cắt lớp vi tính. 
Trong 41 bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi 
thấy tuổi mắc trung bình của bệnh nhân là 56 trong 
đó nhóm tuổi từ 51 - 60 chiếm tới 48,8%. Bệnh nhân 
nam chiếm đa số, chỉ có 3 bệnh nhân là nữ với tỉ lệ 
12,7/1. Kết quả này phù họp với nghiên cứu khác 
của các tác giả trong nước như Bùi Thế Anh[1], 
Các công bố trước đây cho thấy UTTQ có liên quan 
chặt chẽ tới thói quen hút thuốc và uống rượu. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 65,9% bệnh 
nhân có tiền sử hút thuốc, 34,1% có tiền sử uống 
rượu và 31,7% có tiền sử vừa hút thuốc vừa uống 
rượu. Kết quả này tương tự nghiên cứu của Phạm 
Vĕn Hữu[9]. 
Khi nội soi cho thấy khối u ở vị trí 1/3 giữa dây 
thanh chiếm 53,7%. Việc dùng ống cứng chỉ cho 
chúng ta cái từ phía trên xuống, chỉ quan sát được ở 
một khoảng cách nhất định, nên chủ yếu đánh giá 
được tổn thương thượng thanh môn và thanh môn, 
hạn chế đánh giá tổn thương hạ thanh môn, buồng 
Morgani và mép trước nểu chân sụn nắp lồi nhiều 
vào lòng thanh quản.Tuy nhiên lại đánh giá về sự di 
động của dây thanh rất tốt. 
Qua thĕm khám bằng nội soi, chúng tôi gặp đa 
số tổn thương đại thể khối u UTTQ ở dạng sùi 
(85,3%) và các dạng khác (14,7%). Hình thái u thâm 
nhiễm cũng là thể khó chẩn đoán, chúng tôi không 
gặp trưòng hợp nào trong số các bệnh nhân UTTQ. 
ĐẦU VÀ CỔ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
67 
Phạm Vĕn Hữu cũng phát hiện có 83,33% sổ bệnh 
nhân UTTQ có hình ảnh tổn thương dạng u sùi. 
Ngoài ra nhóm nghiên cứu còn gặp một số hình thái 
tổn thương khác như: bạch sản/ TNĐ (3 trường 
họp), u dạng polyp (1 trường họp) và u dạng nhú 
(1 trường họp). Kết quả này cho thấy cần phải làm 
mô bệnh học với tất cả các u lành tính dây thanh để 
tránh bỏ sót tổn thương ác tính[9]. 
Việc phân độ tổn thương tại chỗ hiện nay cần 
phối hợp nhiều phương pháp thĕm khám khác nhau. 
Kết hợp thĕm khám lâm sàng và hình ảnh chụp 
CLVT, chúng tôi nhận thấy có 34 bệnh nhân (82,9%) 
có UTTQ T1a; có 7 bệnh nhân (17,1%) ở giai đoạn 
Tlb. Nghiên cứu của Nguyễn Vĩnh Toàn cho thấy, 
dù khám trên lâm sàng có hiệu quả nhất định trong 
chẩn đoán giai đoạn T của khối u UTTQ nhưng vẫn 
cần phải dựa vào thông tin từ hình ảnh CLVT. 
Trong nghiên cứu của Nguyễn Vĩnh Toàn, 11 bệnh 
nhân được đánh giá là T1 trên lâm sàng, sau khi 
đượckiểm tra chụp CLVT thấy chỉ có 9 trường hợp 
là đúng (81,8%). Còn 1 trường hợp đã chuyển sang 
giai đoạn T2 thậm chí có một bệnh nhân sang giai 
đoạn T3 do ở bệnh nhân này tổn thương đã xâm lấn 
vào khoang cạnh thanh môn cho dù di động dây 
thanh vẫn bình thưòng và đã thay đổi hẳn phương 
pháp điều trị. Từ chỗ chỉ định cắt dây thanh trên 
lâm sàng, qua đánh giá CLVT bệnh nhân phải cắt bỏ 
thanh quản toàn phần[3]. Sự không phù hợp này có 
thể được giải thích, qua thĕm khám lâm sàng và nội 
soi chúng ta chỉ quan sát được bề mặt của tổn 
thương, sự di động của thanh quản, không thể đánh 
giá được sự xâm nhập sâu của khối u vì vậy chụp 
CLVT với những lớp cắt mỏng, và sự tái tạo chính 
xác không gian 3 chiều để đánh giá mức độ xâm lấn 
của khối u, giúp chúng ta đánh giá được sự lan tràn 
của bệnh đúng với giai đoạn của khối u. Tuy nhiên 
trong nghiên cứu của chúng tôi, phân độ T trên lâm 
sàng phù hợp với hình ảnh CLVT. 
Mô bệnh học lát cắt rìa và hạch: Chúng tôi tiến 
hành cắt lại các mảnh tổ chức vùng rìa để làm mô 
bệnh học. Phẫu thuật viên chỉ có thể đánh giá sự 
xâm lấn của khối u ở mức đại thể mà không thể 
đánh giá được ở mức vi thể, nhất là những tổn 
thương vi xâm nhập vì vậy một nguyên tắc cơ bản 
trong phẫu thuật ung thư nói chung, ung thư thanh 
quản và ung thư hạ họng nói riêng là sau khi phẫu 
thuật lấy bỏ bệnh tích ung thư cần phải sinh thiết 
xung quanh diện cắt còn lại (hay vùng rìa) để làm 
giải phẫu bệnh giúp xác định phẫu thuật đã lấy hết 
bệnh tích ở mức độ vi thể hay còn sót lại bệnh tích. 
Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ gặp 2 BN có kết 
quả dương tính của diện cắt, các trường hợp còn lại 
có đều kết quả mô học vùng rìa âm tính. Hai bệnh 
nhân này chúng tôi chỉ định xạ trị hậu phẫu bổ trợ. 
Điều này cho thấy khả nĕng lấy hết tổn thương ung 
thư của phương pháp nội soi đối với giai đoạn T1 là 
rất cao. Đồng thời các xét nghiệm mô bệnh học này 
hỗ trợ đắc lực cho quá trình phẫu thuật cũng như áp 
dụng phưong pháp điều trị bổ sung bằng tia xạ hoặc 
hóa chất sau mổ, kịp thời khắc phục các thiểu sót 
trong phẫu thuật. Ở giai đoạn sớm hơn của UTTQ 
như T1, các phẫu thuật dễ dàng hơn trong việc loại 
bỏ khối u và khả nĕng tái phát ung thư do cắt còn 
sót tổ chức ung thư thấp. Tuy nhiên, việc kiểm tra 
sót tổ chức ác tính bằng mô bệnh học lát cắt rìa vẫn 
hết sức hũư ích để kéo dài cuộc sổng người bệnh. 
Kết quả phẫu thuật 
Các bệnh nhân tham gia trong nghiên cứu này 
đều được tiến hành phẫu thuật cắt thanh quản qua 
nội soi. Trong số 41 bệnh nhân được phẫu thuật, có 
29 bệnh nhân được mở khí quản chủ động. Đây là 
những bệnh nhân trên hình ảnh soi thanh quản, u 
khá lớn và/ hoặc lan qua mép trước nên chúng tôi 
chủ động mở khí quản và gây mê qua canuyn để 
phẫu trường rộng rãi và dự phòng tai biến sau mổ 
như chảy máu, khó thở Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, các bệnh nhân đều ở giai đoạn T1 và trên 
thĕm khám lâm sàng và CLVT đều không phát hiện 
có hạch di cĕn hay nghi ngờ. Vì vậy chúng tôi không 
tiến hành vét hạch đối với các bệnh nhân này. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ gặp 1 
trường hợp biến chứng là chảy máu sau mổ vào 
ngày thứ 6 và 1 trường hợp tràn khí dưới da mức độ 
nhẹ và đã được xử trí. Nguyên nhân là do trong quả 
trình phẫu thuật vùng mép trước chúng tôi đã sử 
dụng dao điện nhiều, gây tổn thương sâu, khi bong 
giả mạc dễ chảy máu. Biến chứng chảy máu là biến 
chứng nguy hiểm, chảy máu có thể gây máu tràn 
vào đường thở, bệnh nhân tử vong nếu không được 
xử trí đúng và kịp thời. Chính vì biến chứng này, đòi 
hỏi cơ sở phải có hệ thống theo dõi tốt, các nhân 
viên y tế phải được làm quen. Bệnh nhân tràn khí 
dưới da cũng chỉ gặp ở dưới da vùng cổ quanh chân 
canuyn. Bệnh nhân được theo dõi sát và không thấy 
triệu chứng tĕng lên và hết sau 2 ngày. Các biến 
chứng khác như khó thở, nhiễm trùng, viêm phổi, 
dò, đều không xuất hiện. Xuất hiện biến chứng 
sau phẫu thuật không chỉ phụ thuộc vào tính chất, 
giai đoạn bệnh, kinh nghiệm của phẫu thuật viên, mà 
còn bị ảnh hưởng bởi phương pháp và phương tiện 
phẫu thuật. Phạm Vĕn Hữu tiến hành phẫu thuật 
UTTQ giai đoạn Tis, trong nghiên cứu này không 
gặp trường hợp chảy máu, tuy nhiên gặp 5 trường 
hợp khó thở do phù nề vùng diện cắt làm hẹp khe 
thanh môn phải tiến hành mở khí quản[9]. Nghiên 
cứu hồi cứu của Ganly và cộng sự (2009) trên 150 
bệnh nhân cắt bán phần thanh quản do UTTQ bởi 
ung thư tế bào vẩy được phẫu thuật từ 1984 đến 
1998 cho thấy tỉ lệ biến chứng sau phẫu thuật lên tới 
11% tổng số bệnh nhân phẫu thuật. Tỉ lệ biến chứng 
ĐẦU VÀ CỔ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
68 
cũng phụ thuộc nhiều vào quá trình chiếu xạ trước 
phẫu thuật tại chỗ gây nên tổn thương, hình thành 
lỗ rò...[8]. 
Chức nĕng nuốt: chúng tôi cho bệnh nhân ĕn 
thử rất sớm, thời gian bắt đầu cho ĕn thử bằng 
miệng trong phạm vi 5-13 ngày, với thời gian trung 
bình là 8,5 ngày, thời gian rút sonde ĕn trên nhóm 
bệnh nhân này trung bình là 11,8 ngày; với thời gian 
ngắn nhất là 7 ngày, dài nhất lên tới 18 ngày. Nghiên 
cứu của chúng tôi thấp hơn so với các nghiên cứu 
khác trên bệnh nhân UTTQ như 34 bệnh nhân trong 
nghiên cứu của Lawson: thời gian nuốt chất đặc sau 
phẫu thuật là 9 ngày, uống nước là 12 ngày[10], trong 
nghiên cứu của Yu và cộng sự trên139 bệnh nhân 
thì thời gian rút sonde ĕn trung bình là 15 ngày[11]. 
Điều này có thể được giải thích là do bệnh nhân của 
chúng tôi đều được phẫu thuật nội soi nên thời gian 
hồi phục sẽ ngắn hơn và khả nĕng hồi phục sẽ tốt 
hơn.Thời gian rút canuyn: sau phẫu thuật trung bình 
dài 15,1 ngày với phạm vi dao động từ 8 - 41 ngày. 
Ngắn hơn so với một số tác giả Lawson là 14 ngày 
với cùng giai đoạn phẫu thuật UTTQ[10]. Yu và cộng 
sự nghiên cứu trên 139 bệnh nhân UTTQ giai đoạn 
TI và T2 được phẫu thuật theo phương pháp Tucker. 
Kết quả cho thấy 100% bệnh nhân có thể rút canuyn 
với thời gian trung bình 10 ngày[11]. Việc rút canuyn 
sớm giúp bệnh nhân sớm hồi phục phản xạ ho, khả 
nĕng nói. Do vậy, để rút ngắn thời gian đặt canuyn 
cần kết hợp nhiều yếu tố, đem lại sự phục hồi chức 
nĕng sớm cho người bệnh. Có một số trường hợp 
cần tia xạ bổ sung sau mổ, chúng tôi chủ trương lưu 
lại canuyn đề phòng khó thở do thanh quản bị phù 
nề trong quá trình tia xạ. Đây là những trường hợp 
không tính vào nhóm khó rút canuyn. Chức nĕng 
phát âm: đa phần các bệnh nhân có được giọng nói 
thỏa đáng, phát âm có thể hiểu được lời qua phỏng 
vấn trực tiếp và đàm thoại điện thoại. Các bệnh nhân 
này có thể hòa nhập tốt với cuộc sống. Điều này 
cũng phù hợp với nghiên cứu trên 139 bệnh nhân 
UTTQ của Yu và cộng sự: có 121 bệnh nhân (87%) 
có giọng nói thỏa đáng, 18 bệnh nhân (13%) có 
giọng nói trung bình. 
Thời gian nằm viện: thời gian nằm viện trung 
bình của nhóm bệnh nhân UTTQ là 10,1 ngày với 
phạm vi từ 8-17 ngày. Thời gian này ngắn hơn khá 
nhiều so với các nghiên cứu khác trên thế giới như 
nhóm bệnh nhân UTTQ của Lawson có thời gian 
điều trị trung bình là 16 ngày[10]. Điều này được giải 
thích do bệnh nhân của chúng tôi hồi phục rất tốt 
sau mổ. Khi các chức nĕng của bệnh nhân như ĕn 
và thở tốt, chúng tôi cho bệnh nhân ra viện. 
Trong 41 bệnh nhân được phẫu thuật chúng tôi 
cho xạ trị sau phẫu thuật 4 trường hợp, trong đó có 
2 trường hợp MBH lát cắt rìa dương tính. Những 
trường hợp còn lại tùy thuộc vào đánh giá của phẫu 
thuật viên trong lúc mổ mà quyết định có tia xạ hay 
không. Chỉ định xạ trị phối hợp sau mổ theo chúng 
tôi là một chỉ định khó khĕn, chưa có tiêu chí rõ ràng, 
nhất là khi hạch cổ đều âm tính và mô bệnh học 
vùng rìa cũng âm tính. Những trường hợp này chủ 
yếu chúng tôi dựa vào mức độ tổn thương tại chỗ, 
khi khối u lớn, khối u thâm nhiễm sâu, để chỉ định 
phối hợp tia xạ sau mổ. Trong 41 bệnh nhân theo 
đánh giá sơ bộ của chúng tôi thì không có bệnh 
nhân nào có di cĕn xa. Chỉ có 2 trường hợp tái phát 
sau phẫu thuật 8 tháng, chúng tôi đã tiến hành phẫu 
thuật cắt thanh quản bán phần NVH và cho tia xạ 
sau phẫu thuật. Có 2 trường hợp di cĕn hạch cổ 
cùng bên sau 6 tháng, chúng tôi đã nội soi để đánh 
giá và bấm sinh thiết nhưng không thấy dấu hiện tái 
phát khối u vì vậy chúng tôi chỉ quyết định NVH chức 
nĕng bên di cĕn, sau đó cho xạ trị phối hợp và theo 
dõi sát bệnh nhân. 
KẾT LUẬN 
Đặc điểm lâm sàng và CLVT: bệnh gặp chủ yếu 
ở nam giới tuổi trung niên, liên quan nhiều đến 2 yếu 
tố nguy cơ là hút thuốc và uống rượu. Kết quả nội 
soi cho thấy UTTQ đều ở thanh môn. Trên CLVT 
thấy 100% khối u ở dây thanh. Đa số UTTQ có tổn 
thương dạng sùi (85,3%). Không phát hiện được 
dấu hiệu hạch trên lâm sàng và CLVT. 
Kết quả phẫu thuật: khả nĕng lấy hết bệnh tích 
cao với tỉ lệ lắt cắt rìa âm tính là 95,2%, ít gặp biến 
chứng và thời gian hồi phục ngắn, bảo tồn được tối 
đa chức nĕng thanh quản, tỉ lệ tái phát thấp. 
Như vậy, phẫu thuật nội soi là phương pháp an 
toàn và mang lại hiệu quả rất lớn trong điều trị ung 
thư thanh quản giai đoạn sớm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bùi Thế Anh (2005). “Đối chiếu biểu hiện của 
Galectin-3 với đặc điểm lâm sàng và mô bệnh 
học của ung thư thanh quản-hạ họng”. Luận vĕn 
Bác sỹ nội trú bệnh viện, Đại học Y Hà Nội. 
2. Đỗ Xuân Anh (2007). “Nghiên cứu hình thái học 
u biểu mô dây thanh”. Luận vĕn thạc sỹ y học, 
ĐHY Hà Nội. 
3. Nguyễn Vĩnh Toàn (2007). “Nghiên cứu đặc 
điểm lâm sàng, chụp cắt lớp vi tính của tổn 
thương ung thư thanh quản đối chiếu với phẫu 
thuật”. Luận vĕn Bác sỹ nội trú bệnh viên. 
ĐHY Hà Nội. 
4. Nguyễn Khắc Hùng (2003). “Bệnh giọng thanh 
quản và một số yếu tố nguy cơ ở giáo viên tiểu 
học huyện Đại Từ-Tỉnh Thái Nguyên”. Luận vĕn 
thạc sỹ y học, ĐHY Hà Nội. 
ĐẦU VÀ CỔ 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
69 
5. Ngô Ngọc Liễn (2000). Ung Thư Thanh Quản. 
Giản yếu tai mũi họng. Tập III. NXB Y học Hà 
Nội. 
6. Silver.C.E (1981). “Historical Aspects” .Surgery 
for cancer of the Larynx and relatedstructures 
.pp1-9. 
7. Silver.C.E (1981). “Conservation Surgery for 
Glottic Carcinoma” .Surgery for cancer of 
theLarynx and related structures. Edited by Carl 
E.Silver,M.D ,p83-113 P483 – 533. 
8. Ganly I, Patel SG, Matsuo J, et al., (2009), 
“Analysis of postoperative complications of open 
partial laryngectomy”. Head & Neck.3 1(3): 338 - 
45. 
9. Phạm Vĕn Hữu, (2008), “Nghiên cứu hình thái 
lâm sàng, nội soi và đối chiếu với kết quả phẫu 
thuật của ung thư thanh quản giai đoạn sớm”. 
Luận vĕn tốt nghiệp bác sỹ nội trú, Trường Đại 
học Y Hà Nội. 
10. Lawson G, Jamart J, Remade M (2001), 
Improving the functionaloutcome of Tucker's 
reconstructive laryngectomy. Head &Neck. 
23(10):871 - 8. 
11. Yup, Antoine G, Bruno G (2005), ‘‘Partial vertical 
laryngectomywith epiglottis reconstruction-
Tucker technique”. Lin Chuang Er BiY anH ouK 
eZ aZ hi. 19(9):389 - 91, 393. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_ket_qua_dieu_tri_phau_thuat_noi_soi_ung_thu_thanh_q.pdf