Đánh giá kết quả điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi bằng nẹp khóa tại Bệnh viện Quân Y 103
Gãy liên mấu chuyển xương đùi chiếm tỷ lệ 55% các gãy đầu trên xương đùi,
hay gặp ở người cao tuổi, nữ nhiều hơn nam, nẹp khóa là phương tiện mới được
áp dụng cho điều trị gãy xương vùng LMC tại Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu: là 41 bệnh nhân gãy LMC xương đùi, có 32 BN nam
(78%) và 9 BN nữ (22%); tuổi nhỏ nhất là 25, lớn nhất là 95, trung bình là 61,29
± 19,07 tuổi; thời gian theo dõi trung bình 11,86 tháng.
Kết quả : theo điểm Harris, rất tốt 8/28BN (28,6%), tốt 9/28BN (32,1%),
trung bình 9/28BN (32,1%), kém 2/28BN (7,1%); biến chứng có 2BN (1 gãy nẹp,
1vít xuyên thủng cổ chỏm).
Kết luận: sử dụng nẹp khóa để điều trị trong gãy LMC nhóm A1.3, A2, A3, gãy
ở người cao tuổi cho kết quả tốt.
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá kết quả điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi bằng nẹp khóa tại Bệnh viện Quân Y 103", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi bằng nẹp khóa tại Bệnh viện Quân Y 103
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016 62 Tóm tắt: Gãy liên mấu chuyển xương đùi chiếm tỷ lệ 55% các gãy đầu trên xương đùi, hay gặp ở người cao tuổi, nữ nhiều hơn nam, nẹp khóa là phương tiện mới được áp dụng cho điều trị gãy xương vùng LMC tại Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu: là 41 bệnh nhân gãy LMC xương đùi, có 32 BN nam (78%) và 9 BN nữ (22%); tuổi nhỏ nhất là 25, lớn nhất là 95, trung bình là 61,29 ± 19,07 tuổi; thời gian theo dõi trung bình 11,86 tháng. Kết quả : theo điểm Harris, rất tốt 8/28BN (28,6%), tốt 9/28BN (32,1%), trung bình 9/28BN (32,1%), kém 2/28BN (7,1%); biến chứng có 2BN (1 gãy nẹp, 1vít xuyên thủng cổ chỏm). Kết luận: sử dụng nẹp khóa để điều trị trong gãy LMC nhóm A1.3, A2, A3, gãy ở người cao tuổi cho kết quả tốt. Từ khóa: nẹp khóa, liên mấu chuyển xương đùi, thủng cổ chỏm. EVALUATING THE RESULTS OF THE TREATMENT INTERTROCHANTERIC FRACTURE BY LOCKING - PLATE AT THE MILITARY HOSPITAL 103 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ GÃY LIÊN MẤU CHUYỂN XƯƠNG ĐÙI BẰNG NẸP KHÓA TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103 Đoàn Mạnh Linh1, Nguyễn Thông Phán2 Nguyễn Đức Thọ2, Nguyễn Anh Dương2, Nguyễn Văn Tân2 (1) Học viện Quân y (2) Bệnh viện Quân y 175 Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Thông Phán ([email protected]) Ngày nhận bài: 10/12/2016. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 27/12/2016. Ngày bài báo được đăng: 30/12/2016 CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 63 Abstract: the intertrochanteric fractures accounted 55% proportion of the femoral proximal fractures, a high percentage of the elderly, mostly was women. The locking – plate was the new instrument applied for the treatment intertrochanteric fracture in Viet Nam. Material study: 41 patients were underwent intertrochanteric fracture, 32 men (78%), 9 women (22%), the youngest was 25 years old and the oldest was 95 years old, the average age was 61,29 ± 19,07; the average follow-up time was 11,86 months. Results: Following Harris score, the very good result was 8/28 patients (28,6 %), the good result was 9/28 (32,1%), the fair result was 9/28 (32,1 % ), 2/28 (7,1%) had poor results; 02 complications (01 plate fracture and 01 femoral head cut-out). Conclusion: The locking - plate could be used for treating intertrochanteric fractures with group A1.3, A2, A3 (AO classification), in the elderly, give the good result. Key words: locking plate, intertrochanteric fracture, cut - out. ĐẶT VẤN ĐỀ Gãy liên chuyển xương đùi (LMC) khá phổ biến, chiếm 55% các gãy đầu trên xương đùi, gặp ở mọi lứa tuổi nhưng hay gặp ở người cao tuổi và nữ gặp nhiều hơn nam, [6]. Ngày nay gãy LMC có tần xuất ngày càng tăng do tuổi thọ tăng. Có rất nhiều phương pháp phẫu thuật kết xương trong điều trị gãy LMC như: kết hợp xương bằng đinh 3 cạnh của Smith Petersen (1930), đinh Ender (1976), nẹp vis ép trượt Medoff (1991), nẹp DHS, DCS, đinh Gamma (1985), nẹp vít khóa, thay khớp háng. Mỗi phương pháp đều có chỉ định, ưu điểm và nhược điểm riêng. Tại khoa Chấn thương chỉnh hình - Bệnh viện Quân y 103 kỹ thuật kết hợp xương bằng nẹp khóa điều trị cho một số trường hợp gãy kín LMC được áp dụng từ 2014. Xong chưa có công trình nghiên cứu nào đánh giá kết quả điều trị của phương pháp này. Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá kết quả điều trị gãy kín liên mấu chuyển xương đùi bằng kết hợp xương nẹp khóa tại Bệnh viện Quân y 103”. Nhằm 2 mục TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016 64 tiêu: 1. Đánh giá kết quả điều trị gãy kín liên mấu chuyển xương đùi bằng phương pháp kết hợp xương nẹp khóa tại Bệnh viện Quân y 103. 2. Rút ra một số nhận xét về chỉ định và kĩ thuật của phương pháp. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Gồm 41 bệnh nhân gãy kín liên mấu chuyển xương đùi được điều trị phẫu thuật kết hợp xương nẹp khóa tại khoa Chấn thương chỉnh hình - Bệnh viện Quân y 103 trong thời gian từ tháng 1/2014 đến tháng 6/2016. * Các tiêu chuẩn chọn bệnh nhân. - Tuổi trên 18. - Gãy kín LMC do chấn thương (TNGT, TNLĐ, TNSH, TNTT). - Được điều trị phẫu thuật kết xương nẹp khóa. - Có đầy đủ hồ sơ bệnh án, phim X-quang. - Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu. * Các tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân. - Tuổi dưới 18. - Gãy xương hở, gãy xương bệnh lý. - Gãy xương ở chi thể đã có sẵn các di chứng chấn thương làm ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. - Có bệnh toàn thân không cho phép phẫu thuật. - Không đủ hồ sơ bệnh án. - Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu. 2. Phương pháp nghiên cứu. Nghiên cứu mô tả, thiết kế nghiên cứu cắt ngang, không nhóm chứng, bao gồm nghiên cứu hồi cứu và tiến cứu. + Nghiên cứu hồi cứu: từ 1/2014 đến 7/2015, gồm 12BN. + Nghiên cứu tiến cứu: từ 8/2015 đến 6/2016, gồm 29BN. 3. Các chỉ số nghiên cứu. 3.1. Các đặc điểm chung. - Tuổi, giới, nguyên nhân gây gãy xương. - Thời gian từ lúc bị tai nạn đến lúc vào viện, thời gian từ lúc vào viện đến lúc được phẫu thuật. - Chẩn đoán tổn thương, tổn thương kết hợp, bệnh lý toàn thân. - Phân loại gãy LMC theo AO, CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 65 độ loãng xương theo Singh. - Phương pháp điều trị: lượng máu truyền, phương pháp vô cảm, sử dụng bàn chỉnh hình, loại nẹp, vít, màn hình tăng sáng, phương tiện kết xương. 3.2. Đánh giá kết quả gần (3 tháng sau mổ). - Tai biến trong mổ. - Biến chứng toàn thân sau mổ. - Diễn biến tại vết mổ. - Kết quả x-quang sau mổ: kết quả phục hồi hình thể giải phẫu, góc cổ thân, vị trí nẹp vít. - Chiều dài chi. - Thời gian nằm viện. - Các bất thường sau khi ra viện. 3.3. Đánh giá kết quả xa (≥ 9 tháng sau mổ). - Tình trạng ngắn chi, tình trạng đau và dáng đi. - Biên độ vận động gấp khớp háng. - Kết quả liền xương, góc cổ thân, tình trạng nẹp vít. - Biến chứng xa sau mổ: tử vong, khớp giả, tiêu chỏm, viêm xương. - Đánh giá kết quả chung theo thang điểm khớp háng Harris [13] với tổng số điểm là 100, dựa trên 10 tiêu chuẩn: đau, dáng đi, dùng dụng cụ hỗ trợ, khoảng cách đi được, khả năng ngồi, khả năng tham gia giao thông công cộng, khả năng lên cầu thang, khả năng đi giày tất, biến dạng khớp, biên độ vận động khớp: 4. Phương pháp xử lý số liệu. - Số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê y học bằng SPSS 18.0. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 1. Đặc điểm dịch tễ Trong 41 bệnh nhân, có 32 BN nam (chiếm 78%) và 9 BN nữ (chiếm 22%). Tuổi nhỏ nhất là 25, lớn nhất là 95, trung bình là 61,29 ± 19,07 tuổi. Nguyên nhân gãy vùng mấu chuyển do tai nạn sinh hoạt 53,7%, tai nạn giao thông là 29,3%. Bệnh nội khoa mạn tính kèm theo: 23 BN (56,1%). Trong đó chủ yếu là bệnh tim mạch và đái tháo đường tuýp II (31,1%). Đến nay các tác giả cũng thống nhất bệnh nội khoa mạn tính không phải là chống chỉ định phẫu thuật [1],[13], vấn đề ở chỗ các tình trạng bệnh này cần được khám và điều trị tốt, nhanh chóng ổn định để chớp thời cơ phẫu thuật. Nếu không nằm lâu sẽ có nhiều biến chứng có thể xảy ra. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016 66 2. Đặc điểm chấn thương gãy vùng mấu chuyển Bảng 3.1. Phân loại gãy LMC xương đùi theo AO (n = 41) Loại gãy Số BN Tỷ lệ (%) Tổng A1 A1.2 1 2,4 3 (7,3%) A1.3 2 4,9 A2 A2.1 3 7,3 26 (63,4%)A2.2 5 12,2 A2.3 18 43,9 A3 A3.1 2 4,9 12 (29,3%)A3.2 3 7,3 A3.3 7 17,1 Tổng 41 100% Trong 41 BN nghiên cứu gặp chủ yếu gãy không vững loại A22, A23, A3. Điều này phù hợp với nghiên cứu của Võ Văn Nguyên (2015) [3] có 88,2% gãy không vững và 11,8% gãy vững, Hans Habernek và cs (2006) [12] trong 373 bệnh nhân gãy vùng mấu chuyển nhận thấy có 94% số bệnh nhân bị gãy xương do ngã và ở tuổi lớn hơn và bằng 60 với đường gãy chủ yếu là loại A2. Kết quả phản ánh đúng thực tế vì người cao tuổi (≥60 tuổi) đều có thưa xương nhiều ở đầu trên xương đùi, chỉ cần một lực chấn thương nhẹ cũng có thể gây gãy xương và thường gãy nhiều mảnh. Mấu chuyển xương đùi là vùng xương xốp, nơi thay đổi về hình thể xương nên khi có loãng xương thì đây là một điểm yếu dễ xảy ra gãy xương. 3. Chất lượng xương của nhóm nghiên cứu Đánh giá chất lượng xương của BN theo chỉ số Singh trên phim X-quang. CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 67 Bảng 3.2. Chất lượng xương theo chỉ số Singh (n = 41) Chỉ số Singh Số lượng BN theo nhóm tuổi Tổng Tỷ lệ (%) 25 ÷ 45 46 ÷ 59 60 ÷ 95 Độ 6 7 4 0 11 26,8 Độ 5 3 4 5 12 29,3 Độ 4 0 3 6 9 22 Độ 3 0 0 9 9 22 Tổng 10 11 20 41 100 Trong nhóm nghiên cứu có 9 BN loãng xương độ 4 và 9 BN loãng xương độ 3, tập trung chủ yếu ở nhóm tuổi trên 60. Độ loãng xương ở các nhóm tuổi là khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. 4. Phương pháp điều trị 4.1. Thời điểm phẫu thuật Bệnh nhân được phẫu thuật sớm nhất là 27 giờ sau khi bị tai nạn và muộn nhất là 18 ngày, trung bình là 5,27 ± 3,51 ngày. Số bệnh nhân được phẫu thuật trong vòng 72 giờ kể từ khi bị tai nạn là 13 BN (chiếm 31,7%). 4.2. Bàn luận về lựa chọn nẹp khóa trong điều trị gãy kín LMC Hiện nay chỉ định phẫu thuật cho gãy vùng mấu chuyển xương đùi không còn phải tranh luận, chỉ những trường hợp có chống chỉ định hay bệnh nhân không đồng ý phẫu thuật mới điều trị bảo tồn. Có nhiều phương pháp phẫu thuật, các phẫu thuật phổ biến đang dùng là kết xương nẹp DHS, DCS, nẹp khóa, đinh Gamma, thay khớp háng. Theo các nghiên cứu thì các phương pháp đều có ưu điểm, nhược điểm, đều có tỷ lệ nhất định kết quả không tốt, thậm chí thất bại phải chuyển sang phương pháp khác. Theo chúng tôi được biết, hiện nay chưa có một nghiên cứu nào có số liệu đủ lớn so sánh kết quả điều trị gãy xương LMC bằng các phương tiện kết hợp xương khác nhau từ đó để rút ra một chỉ định chung nhất. Đa số các phẫu thuật viên đều lựa chọn theo trang bị của cơ sở y tế hiện có, theo kinh nghiệm tổng kết lâm sàng, ngoài ra còn tùy thuộc vào cả bệnh nhân. * Kết hợp xương bằng nẹp khóa: Nẹp khóa là phương tiện kết xương mới được sử dụng, trên thế giới nẹp khóa bắt đầu được các phẫu thuật viên sử dụng từ những năm 90 của thế kỷ XX [1]. Cho đến nay nẹp khóa đã có cho hầu hết các vị trí gãy. Ở Việt Nam nẹp khóa được đưa vào sử dụng trong khoảng 5 năm trở lại đây. Điểm khác biệt của nẹp khóa là TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016 68 giữa lỗ trên nẹp và đầu vít có ren để khi bắt sẽ khóa chặt vào nhau theo 1 hướng nhất định và không thể thay đổi được [10]. Cấu trúc nẹp - vit sẽ thành 1 khối như cố định ngoài nên cố định ổ gãy vững chắc hơn, tránh di lệch thứ phát do lỏng vít, tụt vít. Nẹp không cần phải áp sát xương nên lóc cốt mạc ít, có thể dùng kỹ thuật luồn nẹp qua da nên không phải mở phần mềm nhiều bảo vệ tối đa nguồn nuôi dưỡng giúp nhanh liền xương. Nẹp khóa đầu trên xương đùi đảm bảo đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của kết xương bên trong theo AO [11]. Thiết kế nẹp phù hợp với hình thể giải phẫu đầu trên xương đùi [11]. Đầu nẹp cong ôm lấy thành ngoài mấu chuyển lớn như là tấm khiên đỡ lấy thành ngoài mà các phương tiện khác như DHS, đinh nội tủy không có được. Mới đây các nghiên cứu chỉ ra rằng tổn thương thành ngoài trong gãy vùng mấu chuyển xương đùi là quan trọng bên cạnh tổn thương thành trong và sau [11]. Thành ngoài là nơi chịu lực căng giãn chính, kết xương nẹp khóa với những vít khóa có hướng cố định vào cổ chỏm sẽ giữ chắc khối cổ chỏm không bị gục đảm bảo góc cổ thân, còn nẹp đỡ ở thành ngoài chịu lực. Vì vậy nẹp khóa sẽ chiếm ưu thế hơn các loại nẹp, đinh khác trong những trường hợp gãy phức tạp, nhiều mảnh rời và thành ngoài không còn liên tục[1], [11]. Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng nẹp khóa có thể áp dụng cho tất cả các loại. Tuy nhiên, những trường hợp gãy phức tạp nhóm A2.3 và A3.3, kèm theo gãy cổ xương đùi, BN loãng xương nặng thì kết xương kết quả sẽ không cao. 4.3.Về kỹ thuật kết xương Chúng tôi nhận thấy nên dùng bàn chỉnh hình kéo nắn chỉnh kín hết di lệch dưới màn tăng sang sau đó mới mở ổ gãy đặt nẹp. Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi chưa sử dụng kỹ thuật luồn nẹp do nhiều yếu tố khách quan, vì vậy 100% bệnh nhân mở ổ gãy. Sử dụng C-arm trên 2 bình diện thẳng và nghiêng để kiểm tra kết quả kết xương, nếu không có C-arm thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn thậm chí không thể phẫu thuật được. Một số trường hợp chúng tôi bắt vít xốp trước để ép 2 mặt gãy lại với nhau sau đó mới đặt nẹp và bắt vít khóa, những mảnh rời hoặc đường gãy toác xuống thân xương chúng tôi cố định bằng vít xốp và dây thép, còn mấu chuyển nhỏ bị gãy thì không phải bệnh nhân nào cũng cố định lại được. Sau mổ không nhất thiết phải cố định tăng cường bằng nẹp. 5. Bàn luận về kết quả điều trị 5.1. Kết quả gần - Khi ra viện tất cả 41 bệnh nhân CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 69 đều có tình trạng vết mổ khô, sạch, không có biến chứng toàn thân. - Trục xương: kiểm tra lại sau mổ, trên hình ảnh X quang thấy các nẹp, vít ở vị trí đạt yêu cầu; 41 bệnh nhân sau mổ đều có các phần xương gãy về đúng vị trí giải phẫu, góc cổ thân > 1250. - Thời gian nằm viện trung bình là 12,12 ± 5,03 ngày, ngắn nhất là 7 ngày và dài nhất là 33 ngày. 5.2. Các biến chứng Ảnh 3.1. Hai trường hợp gãy nẹp và cut-out. (Nguồi: ảnh tự chụp BN nghiên cứu SLT: 2053 và 140) Trong nghiên cứu của chúng tôi gặp 2 bệnh nhân gãy nẹp và vít xuyên ngoài cổ xương đùi. + Trường hợp gãy nẹp sau 3 tháng phẫu thuật, gãy loại A33 đường gãy toác dài xuống thân xương, loãng xương độ 3. Bệnh nhân được kết xương bằng nẹp khóa 7 lỗ (Alpha). Kết xương vững chắc nhưng khi ra viện bệnh nhân đã vận động quá mức, tỳ nén sớm và mạnh lên chân gãy trong khi can chưa chắc vì vậy đã dẫn đến gãy nẹp, gãy can. Bệnh nhân được phẫu thuật lại. + Với trường hợp vít xuyên ngoài cổ xương đùi, là biến chứng được quan tâm đến trong các nghiên cứu về nẹp khóa cho đầu trên xương đùi. Năm 2013 C. Wirtz và cộng sự [6] báo cáo điều trị cho 52BN bằng kết xương nẹp khóa thì có 2 trường hợp vít xuyên thủng cổ chỏm. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 1/28 BN (7,1%) gặp biến chứng này, cácbệnh nhân được phát hiện sau khi chụp X quang đánh giá sau mổ, những bệnh nhân này được tiến hành phẫu thuật lại để thay vít với chiều dài và hướng khoan phù hợp. Theo Sun-jun Hu .et (2012) [7] trong tổng số 45 bệnh nhân đã được theo dõi hơn 6 tháng, có 2 bệnh nhân bung nẹp và phải phẫu thuật lại. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016 70 Các tác giả cho rằng, biến chứng này xảy ra liên quan đến nhiều yếu tố: loại gãy không vững, nắn chỉnh không đúng giải phẫu, vít cổ chỏm sai vị trí, tình trạng loãng xương và tập luyện sau mổ. Các yếu tố này liên quan mật thiết với nhau. Từ ổ gãy phức tạp thường dẫn đến khó nắn chỉnh đúng giải phẫu và rất khó để bắt vít đúng vị trí mong muốn. Do đó trước mổ cần phải xác định rõ hình thái và loại gãy, điều này rất quan trọng để đạt được kết quả nắn chỉnh theo giải phẫu. Trong mổ việc kiểm tra C-arm trong mổ là cần thiết để đảm bảo kết quả nắn chỉnh, vị trí đặt nẹp, chọn độ dài vít, hướng bắt vít. Tình trạng thưa loãng xương làm cho kết xương không vững, khi tập luyện sớm và quá mức có thể dẫn đến gục cổ, di lệch vít. 5.3. Tập luyện phục hồi chức năng sau phẫu thuật Có vai trò rất quan trọng trong quá trình liền xương và phục hồi chức năng, nó quyết định rất lớn đến kết quả điều trị [1], [8]. Vận động sớm sau phẫu thuật sẽ tăng cường dinh dưỡng cho ổ gãy, tránh được các biến chứng nằm lâu và sự bùng phát của các bệnh mạn tính. Gãy liên mấu chuyển xương đùi được kết xương bằng nẹp khóa có độ vững chắc cao sẽ tạo điều kiện cho bệnh nhân tập luyện được sớm nhất, dưới sự hướng dẫn cụ thể của phẫu thuật viên và bác sỹ chuyên khoa phục hồi chức năng. 5.4. Kết quả xa Chúng tôi đánh giá kết quả xa được 28/41BN. Bệnh nhân được theo dõi ngắn nhất là 9 tháng, dài nhất là 22 tháng và trung bình là 11,86 tháng. - Ngắn chân sau phẫu thuật: 8/28 ngắn 1 - 2cm chiếm 28,6%. Có 2/28 ngắn chi 2 - 3cm và không có trường hợp nào ngắn >3cm. - Tình trạng liền xương và phương tiện kết xương: liền xương tốt góc cổ thân > 1200 có 22BN (78,6%) chiếm tỷ lệ cao, có 4BN liền xương nhưng góc cổ thân <1200 và có 2 trường hợp không liền xương khớp giả. - Chức năng sau mổ: có 1/28BN (3,6%) đau nhiều, hạn chế nhiều vận động do khớp giả gãy nẹp, có 20/28BN (71,4%) không đau hoặc thỉnh thoảng đau nhẹ không ảnh hưởng đến hoạt động và 7/28BN (25%) đau nhẹ thường xuyên. Có 7/28BN (25%) dáng đi bình thường, 15/28BN (53,6%) đi khập khiễng ít, 5/28BN (17,9%) đi khập khiễng vừa và 1BN không đi được. Wei Ting Lee và CS (2014) [5] điều trị 110BN gãy LMC bằng nẹp khóa, tuổi trung bình 75, có 98 BN gãy LMC (vững 22, không vững 76) và 12 BN gãy DMC. Sau 1 năm đánh giá trên 94 BN đều liền xương tốt, không gặp biến CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 71 chứng cut-out. Tác giả cho rằng, nẹp khóa là PTKX đem lại kết quả tốt cho các gãy xương VMC, ít biến chứng. Đinh Thế Hải (2015) [1] báo cáo điều trị gãy LMC ở người già cho 44 bệnh nhân bằng nẹp khóa có 17/29 bệnh nhân (58,6%) có biên độ vận động khớp háng bình thường và gần bình thường, 23/29 bệnh nhân (79,3%) có chân bệnh sau điều trị không bị ngắn hoặc chỉ ngắn hơn chân lành <1cm, 6/29 bệnh nhân còn lại (20,7%) bị ngắn chi <2cm. Nguyễn Đăng Long (2010) [2] điều trị cho 34 bệnh nhân gãy DMC xương đùi bằng đinh Gamma kết quả 34/34 bệnh nhân liền xương. Trần Quang Toản (2013) [25] đã báo cáo trong 48 bệnh nhân mổ kết hợp xương bằng nẹp DHS có 5/29 (17,24%) can xương lệch trục. 5.5. Kết quả phẫu thuật chung Trong số 28 bệnh nhân theo dõi được sau 6 tháng phẫu thuật, kết quả chung xếp loại theo thang điểm Harris như sau: Rất tốt: 8BN (28,6%). Tốt: 9BN (32,1%). Trung bình: 9BN (32,1%). Kém: 2BN (7,1%). Kết quả của chúng tôi cũng tương đương với kết quả của một số nghiên cứu khác như: - Trần Quang Toản (2013) [4] đã báo cáo 48 bệnh nhân gãy LMC mổ kết hợp xương bằng nẹp DHS tại Bệnh viện Hà Đông kết quả: rất tốt và tốt 82,76%, trung bình 13,79%, kém 3,45%. - Phạm Đăng Ninh (2013) [3] báo cáo 35 bệnh nhân gãy vùng mấu chuyển điều trị bằng đinh Gamma kết quả 1 năm đánh giá trên 19 BN: 6BN (31,4%) đạt rất tốt và 12 BN (62,8%) tốt, 1 BN (6,2%) trung bình, không có kết quả kém. - Đinh Thế Hải (2015) [1] báo cáo điều trị gãy LMC ở người già cho 44 bệnh nhân bằng nẹp khóa tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, kết quả: rất tốt và tốt 75,85, trung bình 20,7%, kém 3,4%. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu điều trị 41 bệnh nhân gãy kín liên mấu chuyển xương đùi bằng kết xương nẹp khóa tại Bệnh viện Quân y 103, trong thời gian từ tháng 1/2014 đến tháng 6/2016, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: 1. Về kết quả điều trị * Kết quả gần. - 41/41BN (100%) vết mổ liền kỳ đầu và không có biến chứng trong thời gian nằm viện. - X-quang sau mổ: 41/41BN (100%) kết xương đạt yêu cầu: nẹp, TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 8 - 12/2016 72 vít ở vị trí đạt yêu cầu. Hình thể giải phẫu được phục hồi, ổ gãy được cố định vững chắc và góc cổ thân đều đạt > 1250. - 1BN cổ xương đùi bị gục, góc cổ thân còn 900, vít xuyên thủng cổ chỏm; 1BN gãy can, gãy nẹp. Cả 2 trường hợp đã được phẫu thuật lại. * Kết quả xa: Kiểm tra 28 BN với thời gian theo dõi xa trung bình là 11,86 tháng. - Liền xương: + Liền xương góc cổ thân > 1200: 22/28BN (78,6%). + Liền xương góc cổ thân từ 1000 ÷ 1200: 4/28BN (14,2%). + Không liền xương, khớp giả: 2/28BN (7,2%). - Kết quả chung xếp loại theo Harris: + Rất tốt: 8/28BN (28,6%). + Tốt: 9/28BN (32,1%). + Trung bình: 9/28BN (32,1%). + Kém: 2/28BN (7,1%). - Biến chứng xa: có 2BN khớp giả. 2. Nhận xét về chỉ định và kỹ thuật * Nhận xét về chỉ định. - Chỉ định cho cả gãy A1, A2 và A3. Gãy A2 chiếm nhiều nhất 63,4%, gãy A3 là 29,3% và gãy A1 chiếm 7,3%. - Nẹp khóa chỉ định cho các BN tuổi từ 25 đến 95, trong đó có 15 BN > 70 tuổi. - Chỉ định cho các BN có loãng xương từ độ 6 đến độ 3 theo Singh. Số BN độ 6 và độ 5 chiếm nhiều nhất 23/41BN (56,1%). Chỉ định cho loãng xương độ 4: 6 BN và loãng xương độ 3: 9 BN. - Phẫu thuật càng sớm càng tốt khi điều kiện toàn thân cho phép. * Nhận xét về kỹ thuật. - Thời điểm phẫu thuật: BN được phẫu thuật sớm nhất là 27 giờ sau khi bị tai nạn và muộn nhất là 18 ngày, trung bình là 5,27 ± 3,51 ngày. - Nắn chỉnh trên bàn chỉnh hình, kiểm tra C-arm trước khi mở vào ổ gãy sẽ thuận lợi hơn, kết quả nắn chỉnh tốt hơn và chấn thương phẫu thuật ít hơn, lượng máu mất cũng ít hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đinh Thế Hải (2015), “Đánh giá kết quả điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi ở người cao tuổi bằng kết xương nẹp khóa tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108”, Luận văn chuyên khoa cấp II, Học Viện Quân Y. 2. Nguyễn Đăng Long (2010), “Đánh giá kết quả điều trị gãy kín dưới mấu chuyển xương đùi bằng đinh Gamma tại bệnh viện Quân y 103”, Luận văn chuyên khoa cấp II, Học Viện Quân Y. CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 73 3. Phạm Đăng Ninh (2013), “Đánh giá kết quả điều trị gãy kín liên mấu chuyển, dưới mấu chuyển xương đùi bằng đinh Gamma tại Bệnh viện Quân y 103” Luận Văn Thạc Sĩ Y Học, Học Viện Quân Y. 4. Trần Quang Toản (2013), “Đánh giá kết quả điều trị gãy liên mấu chuyển xương đùi bằng kết xương nẹp DHS tại bệnh viện đa khoa Hà Đông - Hà Nội”, Luận văn chuyên khoa cấp II,, Học Viện Quân Y. 5. Wei Ting Lee .et al (2014), “Proximal femoral locking compression plate for proximal femoral fractures”, J Orthop Surg. 22(3), tr. 287-93. 6. C. Wirtz & et al (2013), “High failure rate of trochanteric fracture osteosynthesis with proximal femoral locking compression plate”, Injury, Int. J. Care Injured 44, tr. 751-756. 7. Sun-jun Hu & Shi-min Zhang (2012), “Treatment of femoral subtrochanteric ractures with proximal lateral femur locking plates”, Acta Ortop Bras. 20(6), tr. 329-333. 8. James F Kellam MD & et al (2015), “Intertrochanteric Hip Fractures Treatment & Management”. 9. Kubiak E. N. & et al (2006), “The evolution of locked plates”. J Bone Joint Surg Am. 88 Suppl 4”, tr. 189-200. 10. Sommer Christoph (2006), “Biomechanics and clinical application principles of locking plates”, Suomen Ortopedia ja Traumatologia. 29, tr. 20- 24. 11. Synthes (2007), “LCP Proximal_Femoral_Plate, Technique Guide”. 12. Uhthoff Hans K., Philippe Poitras & David S. Backman (2006), “Internal plate fixation of fractures: short history and recent developments”, Journal of Orthopaedic Science. 11(2), tr. 118-126. 13. William H. Harris (1969), “Traumatic Arthritis of the Hip after Dislocation and Acetabular Fractures: Treatment by Mold Arthroplasty”, J Bone Joint Surg Am, 1969 Jun; 51 (4), tr. 737-755.
File đính kèm:
danh_gia_ket_qua_dieu_tri_gay_lien_mau_chuyen_xuong_dui_bang.pdf

