Đánh giá kết quả can thiệp nội mạch điều trị tắc động mạch mạn tính dưới gối

Mẫu nghiên cứu có 101 bệnh nhân. Trong đó, tỷ lệ nữ chiếm 52.5%, tuổi trung bình 75.5 ± 11.4. Triệu chứng chính của bệnh nhân là đau, chiếm 59.4%, thiếu máu chi nghiêm trọng 87.1%, loét hoặc hoại tử đầu chi 51.2%. Tạo hình lòng mạch máu bằng nong bóng chiếm 78.2%, kết hợp đặt giá đỡ nội mạch chiếm 21.8%. Can thiệp tầng dưới gối đơn thuần chiếm 34.7%, tầng dưới gối phối hợp đùi khoeo trên và dưới gối chiếm 57.4%. Thời gian can thiệp 127 ± 40.8 phút. Thời gian nằm viện trung bình là 4 ± 3.1 ngày. Biến chứng chung chiếm 14.9% trong đó biến chứng tắc mạch 3.96%, tụ máu 3%, cắt cụt 5.94% và một trường hợp tử vong. Phương pháp can thiệp nội mạch thành công về kỹ thuật và sau 1 tháng là 86.2%, tỉ lệ thành công sau 3 tháng, 12 tháng lần lượt là 80.2% và 53.7%. Phương pháp can thiệp nội mạch điều trị tắc động mạch mạn tính dưới gối là phương pháp ít xâm lấn nên an toàn, hiệu quả, thời gian nằm viện ngắn và bệnh nhân hồi phục nhanh. Tỷ lệ thành công sau can thiệp là 86,2%, sau 12 tháng 53,7%

pdf 7 trang phuongnguyen 320
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá kết quả can thiệp nội mạch điều trị tắc động mạch mạn tính dưới gối", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá kết quả can thiệp nội mạch điều trị tắc động mạch mạn tính dưới gối

Đánh giá kết quả can thiệp nội mạch điều trị tắc động mạch mạn tính dưới gối
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CAN THIỆP NỘI MẠCH ĐIỀU TRỊ TẮC ĐỘNG MẠCH MẠN TÍNH DƯỚI GỐI 
 17
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CAN THIỆP NỘI MẠCH 
ĐIỀU TRỊ TẮC ĐỘNG MẠCH MẠN TÍNH DƯỚI GỐI 
Lâm Văn Nút*, Phạm Minh Ánh* , Lê Đức Tín*, Võ Thị Ngọc Mỹ *, Huỳnh Thị Minh Thư*
TÓM TẮT 
Mẫu nghiên cứu có 101 bệnh nhân. Trong đó, 
tỷ lệ nữ chiếm 52.5%, tuổi trung bình 75.5 ± 11.4. 
Triệu chứng chính của bệnh nhân là đau, chiếm 
59.4%, thiếu máu chi nghiêm trọng 87.1%, loét 
hoặc hoại tử đầu chi 51.2%. Tạo hình lòng mạch 
máu bằng nong bóng chiếm 78.2%, kết hợp đặt 
giá đỡ nội mạch chiếm 21.8%. Can thiệp tầng 
dưới gối đơn thuần chiếm 34.7%, tầng dưới gối 
phối hợp đùi khoeo trên và dưới gối chiếm 
57.4%. Thời gian can thiệp 127 ± 40.8 phút. Thời 
gian nằm viện trung bình là 4 ± 3.1 ngày. Biến 
chứng chung chiếm 14.9% trong đó biến chứng 
tắc mạch 3.96%, tụ máu 3%, cắt cụt 5.94% và 
một trường hợp tử vong. Phương pháp can thiệp 
nội mạch thành công về kỹ thuật và sau 1 tháng là 
86.2%, tỉ lệ thành công sau 3 tháng, 12 tháng lần 
lượt là 80.2% và 53.7%. Phương pháp can thiệp 
nội mạch điều trị tắc động mạch mạn tính dưới 
gối là phương pháp ít xâm lấn nên an toàn, hiệu 
quả, thời gian nằm viện ngắn và bệnh nhân hồi 
phục nhanh. Tỷ lệ thành công sau can thiệp là 
86,2%, sau 12 tháng 53,7%. 
Từ khóa: Tắc mạch dưới gối, can thiệp nôi 
mạch, bệnh mạch máu ngoại biên 
SUMMARY 
EVALUATION OF ENDOVASCULAR 
INTERVENTION THERAPY RESULTS IN 
CHRONIC BELOW-THE-KNEE (BTK) 
ARTERIAL OCCLUSIVE DISEASE 
The study sample of 101 patients. We had 
counted 52.5 % female rates, average ages 75.5 ± 
11.4. Chief complain symptom was a painfully, 
59.4 % sample, critical limb ischemia had got 
87.1%, ulcer or gangrange was 51.2% smaple. 
Percutaneous transluminal angioplasty (PTA) 
performed by 78.2%, PTA and stent replacement 
combination accounted for 21.8%. BTK 
intervention simple accounted for 34.7%, 
Femoropopliteal combination was 57.4%. The 
procedure times had 127 ± 40.8 minutes. The 
time of hospitalization average was 4 ± 3.1 days. 
Total complication was 14.9% thrombosis was 
3.96%, hematoma 3%, amputation 5.94% and 
mortality rate had got 1 case in our research. 
Technique and 1 month results success rates were 
86.2%, 12 months results were 53.7%. The 
intervention endovascular therapy of chronic 
arterial occlusion of the lower extremity less 
invasive method which is safe, effective, shorter 
hospital stays and faster recovery of patients. 1 
month results achieve a high success rate, 
however the results 12 months were 53.7%. 
Key words: Below-The-Knee (BTK) Arterial 
occlusive Disease, endovascular intervention, 
peripheral artery disease. * 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tắc động mạch mạn tính chi dưới là bệnh lý 
thường gặp, bệnh thường diễn tiến âm thầm và 
không triệu chứng nên khi bệnh nhân đến khám 
và điều trị thường là ở giai đoạn muộn. Do đó 
việc điều trị bệnh tắc động mạch chi dưới, đặc 
biệt tắc động mạch dưới gối thật sự là thách thức 
đối với phẫu thuật viên mạch máu. Theo thống 
kê, hiện nay ở Châu Âu và Bắc Mỹ có khoảng 27 
triệu người bị mắc bệnh này. Tại Mỹ, theo nghiên 
* Khoa Phẫu thuật Mạch máu, BV Chợ Rẫy TPHCM 
Người chịu trách nhiệm khoa học: Ts. Lâm Văn Nút 
Ngày nhận bài: 01/05/2018 - Ngày Cho Phép Đăng: 20/05/2018 
Phản Biện Khoa học: GS.TS. Bùi Đức Phú 
 PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 21 - THÁNG 5/2018 
 18 
cứu của John W. York và Spence M. Taylor 
(2010) [10], hàng năm có hơn 10 triệu người mắc 
bệnh tắc động mạch chi dưới, trong đó bệnh nhân 
trên 70 tuổi chiếm tỉ lệ 14,5%. Mỗi năm có trên 
100.000 bệnh nhân cần phải điều trị tái lưu thông 
mạch máu, trong đó cắt cụt chi chiếm tỉ lệ từ 1 
đến 7% trong tất cả các trường hợp. 
Tại bệnh viện Chợ Rẫy, năm 2012, khoa Phẫu 
thuật Mạch máu của chúng tôi đã bước đầu điều 
trị bệnh nhân tắc động mạch mãn chi dưới bằng 
can thiệp nội mạch: Nong tạo hình lòng mạch qua 
da (PTA: percutaneous transluminal angioplasty), 
đặt giá đỡ nội mạch (Stent) bước đầu cho kết quả 
khả quan. Số lượng bệnh nhân tắc động mạch 
mãn tính chi dưới đến điều trị bằng kỹ thuật này 
ngày càng tăng, từ 39 trường hợp năm 2013 tăng 
đến 265 trường hợp năm 2017. Tuy nhiên, hiện 
nay tại nước ta vẫn còn ít công trình nghiên cứu 
về hiệu quả kỹ thuật can thiệp nội mạch dưới gối. 
Do đó, mục tiêu đề tài nghiên cứu của chúng tôi 
là: Đánh giá kết quả can thiệp nội mạch trong 
điều trị tắc động mạch mạn tính dưới gối. 
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 
2.1. Thiết kế nghiên cứu: hồi cứu mô tả. 
2.2. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 01 năm 
2016 đến tháng 12 năm 2017 
2.3. Địa điểm nghiên cứu: Khoa Phẫu thuật 
mạch máu Bệnh viện Chợ Rẫy. 
2.4. Đối tượng nghiên cứu:[7] 
Tiêu chuẩn chọn mẫu: 
Tất cả những trường hợp có bệnh tắc hẹp 
động mạch mạn tính dưới gối điều trị bằng 
phương pháp can thiệp nội mạch tại khoa Phẫu 
thuật Mạch máu, Bệnh viện Chợ Rẫy. 
Tiêu chuẩn loại trừ: 
• Phẫu thuật tái thông động mạch đơn thuần 
(cầu nối). 
• Phẫu thuật kết hợp can thiệp nội mạch 
(hybrid). 
• Tắc hẹp các tầng trên gối chưa được tái thông 
hoặc tái thông không đủ (đường kính lòng 
mạch sau tái thông các tầng trên gối phải 
≥70% lòng mạch). 
2.5. Đánh giá kết quả điều trị: 
- Đánh giá kết quả can thiệp dựa vào: lâm 
sàng, cận lâm sàng.[9] 
Lâm sàng (phân loại 
Rutherford) Tăng ít nhất 1 độ 
Siêu âm Đường kính tái hẹp lòng < 70% 
ABI Tăng > 0.15 
- Đánh giá kết quả can thiệp tại 2 thời điểm: 
sau phẫu thuật 01 tháng và 12 tháng. 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: Có 101 
trường hợp thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh. 
3.1. Tuổi, giới và các yếu tố nguy cơ, bệnh 
kết hợp: 
Bảng 3.1. Tuổi, giới và các yếu tố nguy cơ, 
bệnh phối hợp 
 N (%) Trung bình 
Tuổi 75.5 ± 11.4 (44– 97) 
Giới Nam: 48 (47.5) 
Nữ: 53 
(52.5%) 
RLCH lipid máu 69 (68.3) 
Tăng huyết áp 57 (56.4) 
Hút thuốc lá 54 (53.5) 
Đái tháo đường 43 (42.6) 
Bệnh động mạch cảnh 19 (18.8) 
Tai biến mạch máu não 10 (9.9) 
Suy thận mạn 7 (6.9 ) 
Bệnh mạch vành 5 (5) 
Suy tim 4 (4) 
Nhồi máu cơ tim 2 (2) 
Xơ gan 0 (0) 
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CAN THIỆP NỘI MẠCH ĐIỀU TRỊ TẮC ĐỘNG MẠCH MẠN TÍNH DƯỚI GỐI 
 19
3.2. Phân loại Rutherford: 
Bảng 3.2. Phân loại theo Rutherford. 
Giai 
đoạn Độ 
N (%) trước 
can thiệp 
N (%) sau 
can thiệp 
0 0 0 (0) 0 (0) 
1 0 (0) 5 (5.0) 
2 2 (2.0) 5 (5.0) I 
3 6 (5.9) 18 (17.8) 
II 4 15 (14.9) 35 (34.7) 
III 5 26 (25.7) 25 (24.8) 
IV 6 52 (51.5) 13 (12.9) 
Tổng 101 (100.0) 101 (100.0) 
3.3. Phân loại TASC II: 
Bảng 3.3. Phân loại theo TASC II. 
Giai đoạn N (%) 
A 0 (0) 
B 2 (2.3) 
C 33 (32.7) 
D 65 (64.4) 
Tổng 101 (100) 
3.4. Mối liên hệ giữa TASC II với triệu 
chứng lâm sàng: 
Bảng 3.4. Mối liên hệ giữa TASC II với triệu 
chứng lâm sàng 
Biến số Đau cách hồi 
(%) 
Thiếu máu chi 
nghiêm trọng (%) 
A 0 (0) 0 (0) 
B 1 (1.0) 2 (2.5) 
C 11 (10.9) 22 (25.0) 
D 1 (1.0) 64 (72.7) 
Tổng (%) 13 (12.9) 88 (87.1) 
3.5. Chỉ số ABI trước và sau can thiệp: 
Bảng 3.5. Chỉ số ABI trước và sau can thiệp 
 Trước Sau P 
ABI 0.40 ± 0.05 0.60 ± 0.03 P<0.001 
3.6. Kết quả: 
3.6.1. Phương pháp vô cảm: 
Bảng 3.6. Phương pháp vô cảm 
 N (%) 
Mê nội khí quản 5 5.0 
Gây tê tuỷ sống 0 0 
Gây tê tại chỗ 96 95.0 
Tổng 101 100.0 
3.6.2. Đường vào can thiệp: 
Bảng 3.7. Đường vào can thiệp 
Biến số N (%) 
Xuôi dòng 101 100.0 
Ngược dòng 0 0 
Tổng 101 100.0 
3.6.3. Sang thương dưới gối: 
Bảng 3.8. Sang thương dưới gối 
 Thân 
chung 
chày – 
mác (%) 
ĐM 
chày 
trước 
(%) 
ĐM 
chày 
sau (%) 
ĐM 
mác 
(%) 
Tổng 34 (33.7) 76 (75.2) 
77 
(76.2) 
46 
(45.5) 
3.6.4. Phương pháp can thiệp nội mạch 
Bảng 3.9. Phương pháp can thiệp 
Biến số N (%) 
Nong bóng 79 78.2 
Đặt giá đỡ 0 0.0 
Nong + đặt giá đỡ 22 21.8 
Tổng 101 100.0 
3.6.5. Số chi can thiệp 
Bảng 3.10. Chi can thiệp 
Chi can thiệp N (%) 
1 chi 101 100.0 
2 chi 0 0 
Tổng 101 100.0 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 21 - THÁNG 5/2018 
 20 
3.6.6. Tầng can thiệp 
Bảng 3.11. Tầng can thiệp 
Tầng can thiệp N (%) 
Tầng dưới gối 35 34.7 
Đùi khoeo trên + dưới gối 58 57.4 
Chậu + dưới gối 3 3.0 
Chậu đùi khoeo + dưới gối 5 5.0 
Tổng 101 100.0 
3.6.7. Thời gian nằm viện 
Bảng 3.12. Thời gian can thiệp, thời gian 
nằm viện 
Thời gian Trung bình 
Thời gian can thiệp (phút) 127 ± 40.8 (45– 260) 
Thời gian nằm viện (ngày) 4 ± 3.1 (1- 18) 
3.6.8. Biến chứng sau can thiệp 
Bảng 3.13. Biến chứng sau can thiệp 
Biến số N (%) 
Tắc mạch 4 3.9 
Tụ máu 3 3.0 
Nhồi máu cơ tim 0 0 
Cắt cụt 6 5.9 
Tử vong 1 1.0 
Dò động mạch 0 0 
Giả phình 0 0 
Thủng 1 1.0 
Tổng 15 14.9 
3.6.9. Kết quả can thiệp 
Bảng 3.14. Kết quả can thiệp 
Kết quả Thành công (%) 
Thất bại 
(%) 
Sau can thiệp (n= 101) 87 (86.2) 14 (13.9) 
3 tháng sau (n= 101) 81 (80.2) 20 (19.8) 
12 tháng sau (n= 67) 36 (53.7) 31 (46.3) 
Theo dõi 12 tháng chúng tôi có 13 trường hợp 
cắt cụt, trong đó cắt cụt 1/3 trên cẳng chân và 1/3 
dưới đùi có 6 trường hợp, cắt cụt dưới cổ chân 
như tháo ngón hoại tử hoặc cắt ½ bàn chân có 7 
trường hợp. 
IV. BÀN LUẬN 
Trong nghiên cứu, tỉ lệ nam và nữ không khác 
biệt đáng kể với tuổi trung bình 75.5 tuổi, tuổi 
nhỏ nhất 44 và lớn nhất 97. Hút thuốc lá 54 
trường hợp (53.5%), rối loạn chuyển hóa lipid 
máu 69 trường hợp (68.3%), tăng huyết áp 57 
trường hợp (56.4%), đái tháo đường 43 trường 
hợp (42.6%) chiếm tỉ lệ khá cao. Theo các tài liệu 
khác[8], [9], hút thuốc lá và rối loạn chuyển hoá 
lipid máu trở thành yếu tố thúc đẩy quá trình 
bệnh lý thành mạch máu, làm tăng độ nặng của 
bệnh và ảnh hưởng không nhỏ đến bệnh tắc động 
mạch mạn tính chi dưới. 
Triệu chứng chính khiến bệnh nhân nhập viện 
là đau, chiếm 59.4% với biểu hiện lâm sàng nặng, 
ghi nhận hầu hết các trường hợp có phân độ 5,6 
theo Rutherford, chiếm tới 77.2%. Trong đó, có 
52 trường hợp chiếm 51.5% có biểu hiện loét 
hoặc hoại tử chi. Trên chụp cắt lớp điện toán có 
dựng hình mạch máu(CTA), tổng thương TASC 
II C và D chiếm lần lượt 32.7% và 64.4%. Theo 
khuyến cáo lần 2 cập nhật của TASC 
(TransAtlantic Inter-Society Consensus) những 
tổn thương TASC II C có thể phẫu thuật hoặc can 
thiệp, còn những tổn thương TASC II D nên phẫu 
thuật[6]. Tuy nhiên nhóm bệnh nhân này đa số 
đều lớn tuổi, kết hợp nhiều bệnh nội khoa nặng, 
có nguy cơ cao khi phẫu thuật nên ưu tiên can 
thiệp, bước đầu cho kết quả tích cực. 
Trong quá trình điều trị bệnh nhân tắc động 
mạch dưới gối chúng tôi nhận thấy động mạch 
mác là động mạch có tỉ lệ tổn thương (45.5%) ít 
hơn động mạch chày trước (75.2%) và chày sau 
(76.2%). 
Phương pháp vô cảm: Đa số các trường hợp 
chúng tôi đều gây tê tại chỗ bằng lidocaine 2% 
với 96 trường hợp (95%), chỉ có 5 trường hợp 
gây mê nội khí quản do bệnh nhân không hợp 
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CAN THIỆP NỘI MẠCH ĐIỀU TRỊ TẮC ĐỘNG MẠCH MẠN TÍNH DƯỚI GỐI 
 21
tác trong quá trình can thiệp. Đây là ưu điểm của 
phương pháp can thiệp nội mạch vì sau can 
thiệp, bệnh nhân hồi phục nhanh và tránh được 
biến chứng của gây mê. Điều này rất nặng nề 
trên những bệnh nhân lớn tuổi, bệnh phối hợp. 
Phương pháp can thiệp: Hầu hết là dùng 
phương pháp nong bóng, chiếm 78.2% mẫu 
nghiên cứu. Nong bóng kết hợp đặt giá đỡ chiếm 
tỉ lệ thấp, 21.8% mẫu nghiên cứu. Đặt giá đỡ đơn 
thuần chúng tôi chưa ghi nhận trường hợp nào. 
Điều này cho thấy vấn đề đặt giá đỡ không phải 
là lựa chọn đầu tiên đối với tầng dưới gối. Vì đặc 
điểm của hệ mạch máu dưới gối là những mạch 
máu nhỏ, sang thương tắc hẹp kéo dài, lưu lượng 
thấp nên vấn đề đặt giá đỡ dễ có nguy cơ tái hẹp 
hoặc tắc sau can thiệp. Tuy nhiên, vì mẫu nghiên 
cứu còn nhỏ, thiết kế nghiên cứu chưa đủ mạnh 
nên chúng tôi nghĩ cần phải nghiên cứu kỹ hơn về 
vấn đề này vì có những bằng chứng cho thấy đặt 
giá đỡ nội mạch vẫn có hiệu quả [1], [2]. Theo 
một số tác giả tạo hình bằng bóng phủ thuốc làm 
giảm đáng kể tỉ lệ tái hẹp cho cả theo dõi ở giai 
đoạn ngắn hạn và trung hạn [4], [5]. 
Chúng tôi can thiệp chủ yếu là tầng dưới gối 
phối hợp tầng đùi khoeo chiếm 57.4%. Tất cả các 
trường hợp chúng tôi can thiệp 1 chi. Thời gian 
can thiệp trung bình là 127 phút, thời gian nằm 
viện trung bình 04 ngày. 
Biến chứng can thiệp: của chúng tôi có 15 
trường hợp chiếm 14.9%. Trong đó có 03 trường 
hợp tụ máu tại vị trí chọc kim, chúng tôi phải tiến 
hành phẫu thuật lấy máu tụ; 04 trường hợp tắc 
mạch sau can thiệp dẫn đến cắt cụt chi, 01 trường 
hợp tắc mạch, thủng mạch máu và tụ máu vùng 
cẳng chân phải tiến hành lấy máu tụ và rạch giải 
áp khoang cẳng chân. 
Đánh giá kết quả: Phương pháp can thiệp nội 
mạch điều trị tắc động mạch dưới gối thành công 
khi tái tưới máu đạt kết quả cao sau 1 tháng 
86.2%, sau 3 tháng 80.2%, sau 12 tháng 53.7%. 
Chúng tôi nhận thấy rằng thời gian can thiệp và 
thời gian nằm viện trong mẫu nghiên cứu của 
chúng tôi dài hơn so với các tác giả khác[1], [4]. 
Phương pháp can thiệp nội mạch đã cải thiện 
đáng kể các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng ở 
giai đoạn ngắn hạn. Đặc biệt là nhóm bệnh nhân 
lớn tuổi, có bệnh nội khoa nặng, yếu tố nguy cơ 
cao. 
Trong nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy đa 
số bệnh nhân đến bệnh viện điều trị thường ở giai 
đoạn muộn, theo phân loại Rutherford độ 4,5,6 có 
93 trường hợp chiếm tỉ lệ khá lớn (92.1%) . Tổn 
thương trên hình ảnh học theo phân loại TASC II 
ở giai đoạn C và D có 98 trường hợp với tỉ lệ 
97.1%. Hơn nữa, tổn thương không chỉ riêng tầng 
dưới gối mà còn tổn thương nhiều tầng khác phối 
hợp như tầng chậu, tầng đùi – khoeo trên gối. 
Đều này thật sự là thách thức rất lớn cho chúng 
tôi trong quá trình can thiệp. Vì những lý do trên 
có thể giải thích lý do tại sao tỉ lệ thành công của 
chúng tôi thấp các tác giả khác. Mặt khác, trong 
số 101 trường hợp can thiệp dưới gối này, chúng 
tôi cũng chưa sử dụng bóng phủ thuốc cũng như 
stent phủ thuốc, nên tỉ lệ tái hẹp và tắc lại khá cao 
trong lô nghiên cứu này, theo dõi sau 1 năm tỉ lệ 
thành công chỉ còn 53.7%. 
Thời gian gần đây, chúng tôi bắt đầu sử dụng 
bóng phủ thuốc trong can thiệp tắc động mạch 
mạn tính chi dưới, đặc biệt tắc động mạch dưới 
gối cho kết quả khả quan. Tuy nhiên, vì số lượng 
ít và thời gian theo dõi ngắn nên cần thêm thời 
gian và số trường hợp can thiệp nhiều hơn, khi 
đó đánh giá kết quả bóng phủ thuốc sẽ có ý 
nghĩa hơn. 
Báo cáo Rosemarie Met và cs (2010), trong 
26 trường hợp có tình trạng thiếu máu chi nghiêm 
trọng do tắc động mạch chày với tổn thương dài 
được can thiệp nội mạch từ năm 2006 đến 2009, 
tỉ lệ thành công về kỹ thuật là 88% và biến chứng 
có 4 trường hợp. 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 21 - THÁNG 5/2018 
 22 
Năm 2016, Steiner và cộng sự báo cáo kết quả 
sử dụng bóng phủ thuốc Lutonix 14 can thiệp 
điều trị 248 trường hợp tắc động mạch mạn tính 
dưới gối từ tháng 5 năm 2013 đến tháng 10 năm 
2014 tại trung tâm duy nhất. Có 40 bệnh nhân 
mất dấu trong quá trình theo dõi, còn lại 208 bệnh 
nhân được theo dõi và phân tích kết quả, trong đó 
138 nam, tuổi trung bình 74.1, đau cách hồi 
chiếm tỉ lệ 38.6%, thiếu máu chi nghiêm trọng 
61.4%, tổn thương tắc hoàn toàn 63.6% và 17.8% 
tắc hoàn toàn 3 động mạch dưới gối trước khi can 
thiệp. Theo dõi thời gian 9 tháng sau can thiệp, 
tổng cộng có 39 lấn cắt cụt cho 31 chi, trong đó 
17 lần lên kế hoạch cắt cụt nhỏ dưới cổ chân, chỉ 
9 trường hợp cắt cụt lớn trên gối ( những trường 
hợp này đều nằm trong nhóm thiếu máu chi cấp 
tính ). Theo dõi sau 12 tháng có 80% cải thiện 
theo phân loại Rutherford từ 2 độ trở lên. Từ đó 
tác giả kết luận rằng bóng phủ thuốc (Drug – 
Coated Ballons) Lutonix 14 là phương pháp điều 
trị nhiều hứa hẹn trong điều trị tắc động mạch 
dưới gối[10]. 
Thời gian gần đây có nhiều tiến bộ đáng kể 
trong can thiệp nội mạch như dây dẫn (guide 
wire) thấm nước nhiều kích cỡ: 0,035; 0,018; 
0,014 inch có thể đi trong lòng động mạch hoặc 
dưới lớp nội mạc; Catheter trượt hỗ trợ guide 
wire như Quick cross, seeker; Dụng cụ cắt nội 
mạc như Turbohawk, Silverhawk, Jet Stream 
device sử dụng guide wire 0,014 dùng để cắt nội 
mạc động mạch đùi và động mạch tầng dưới gối; 
Bóng hoặc Stent có phủ thuốc làm giảm đáng kể 
tỉ lệ tái hẹp sau can thiệp hay siêu âm nội mạch 
(IVUS) trong lúc can thiệp Tất cả những yếu tố 
trên giúp cho quá trình can thiệp trở nên an toàn 
và hiệu quả hơn. 
Kháng đông: Tất cả các trường hợp chúng tôi 
đều sử dụng heparin 50 – 100UI/kg cân nặng sau 
khi đặt sheath và nhắc lại 1000UI mỗi 3 giờ trong 
thời gian can thiệp. Khi chuyển bệnh nhân sang 
săn sóc hậu phẫu dùng Plavix liều nạp 300mg, 
sau đó 75gm/ngày trong thời gian 3 tháng, thời 
gian tiếp theo sử dụng aspirin 81mg/ngày. 
Brian G. DeRubertis và cs (2007), báo cáo kết 
quả can thiệp nội mạch 1000 chi trên 730 bệnh 
nhân tắc động mạch mạn tính chi dưới. Heparin 
được sử dụng 100UI/kg ngay sau khi đặt sheath, 
aspirin được sử dụng cho tất cả các trường hợp. 
Đối với bệnh nhân đặt stent hoặc cắt nội mạc thì 
dùng liều nạp Plavix 450mg tại đơn vị săn sóc 
hậu phẫu, sau đó 75mg/ngày liên tục trong 30 
ngày [11]. 
V. KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 101 trường hợp tắc động 
mạch mạn tính dưới gối được điều trị bằng 
phương pháp can thiệp nội mạch, chúng tôi kết 
luận: Bệnh nhân chủ yếu lớn tuổi có nhiều yếu tố 
nguy cơ và bệnh kết hợp. Điều trị thường giai 
đoạn muộn, biểu hiện lâm sàng nặng với triệu 
chứng thiếu máu chi nghiêm trọng, tổn thương 
TASC II C, D chiếm đa số. Can thiệp nội mạch là 
phương pháp ít xâm lấn, kết quả sau 01 tháng, 12 
tháng lần lượt là 86.2% và 53.7%. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Andrew J. Feiring, Amy A. Wesolowski et al 
(2004), "Primary Stent-Supported 
Angioplasty for Treatment of Below-Knee 
Critical Limb Ischemia and Severe 
Claudication: Early and One-Year 
Outcomes", Journal of the American College 
of Cardiology, 44, 2307–2314. 
2. Bruce H. Gray, Robert S. Dieter (2014), 
"SCAI Expert Consensus Statement for 
Infrapopliteal Arterial Intervention 
Appropriate Use", Catheterization and 
Cardiovascular Interventions, 84(4), 539-545. 
3. Daniel Brandão, Armando Mansilha (2012), 
"Below the Knee Techniques: Now and 
Then", Angioplasty, Various Techniques and 
Challenges in Treatment of Congenital and 
Acquired Vascular Stenoses, InTech, 
Europe, Chap 3, 41-58. 
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CAN THIỆP NỘI MẠCH ĐIỀU TRỊ TẮC ĐỘNG MẠCH MẠN TÍNH DƯỚI GỐI 
 23
4. Francesco Liistro, Paolo Angioli et al (2013), 
"Drug-Eluting Balloon in Peripheral 
Intervention for Below the Knee Angioplasty 
Evaluation (DEBATE-BTK)", Interventional 
Cardiology, 128, 615-621. 
5. Marco Manzi et al (2012), 
"Revascularization of Tibial and Foot 
Arteries: Below the Knee Angioplasty for 
Limb Salvage", Angioplasty, Various 
Techniques and Challenges in Treatment of 
Congenital and Acquired Vascular Stenoses, 
InTech, Europe, Chap 10, 210-232. 
6. Michael R. Jaff C., William R. Hiatt (2015), 
"An Update on Methods for 
Revascularization and Expansion of the 
TASC Lesion Classification to Include 
Below-the-Knee Arteries: A Supplement to 
the Inter-Society Consensus for the 
Management of Peripheral Arterial Disease 
(TASC II)", Journal of Endovascular 
Therapy, 657-571. 
7. Overhagen H. Van, Tsetis D. (2013), 
"CIRSE standards of practice guidelines : 
Below-the-knee Interventions ", Cardiovasc 
Intervent Radiol, 36, 302-311. 
8. Joseph L. Mills, David G. Armstrong, et al 
(2014), "The Society for Vascular Surgery 
Lower Extremity Threatened Limb 
Classification System: risk stratification 
based on wound, ischemia, and foot infection 
(WIfI)", J Vasc Surg, 59(1), 220-234. 
9. Sobieszczyk et al (2013), "Management of 
patients after endovascular interventions for 
peripheral artery disease", Circulation, 
128(7), 749-757. 
10. Steiner S, Schmidt A, Bausback Y, 
Bräunlich S, Ulrich M, Banning-Eichenseer 
U, Scheinert D.(2016): " Single-Center 
Experience With Lutonix Drug-Coated 
Balloons in Infrapopliteal Arteries " J 
Endovasc Ther. 2016 Jun;23(3):417-23 
11. DeRubertis B. G., Faries P. L., McKinsey J. 
F., Chaer R. A., Pierce M., Karwowski J., et 
al. (2007), "Shifting paradigms in the 
treatment of lower extremity vascular 
disease: a report of 1000 percutaneous 
interventions", Ann Surg, 246(3), 415-422; 
discussion 422-414 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_ket_qua_can_thiep_noi_mach_dieu_tri_tac_dong_mach_m.pdf