Đánh giá hoạt động giáo dục sức khỏe của nhân viên y tế đối với người bệnh nội trú ra viện tại Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh An Giang trong 6 tháng đầu năm 2020

Giáo dục sức khỏe (GDSK) là quá trình tác động nhằm thay đổi kiến thức, thái độ

và thực hành của con người, phát triển thực hành lành mạnh mang lại tình trạng sức

khỏe tốt nhất có thể cho con ngườ[1].

GDSK cho người bệnh được coi là một chức năng thiết yếu của Bệnh viện mà

nhiệm vụ chính là Nhân viên Y tế (NVYT) trong Bệnh viện.[3] Vì vậy NVYT phải đặc

biệt quan tâm vì là yếu tố góp phần nâng cao sự Hài lòng người bệnh (HLNB), giúp

người bệnh an tâm trong việc tham gia hợp tác điều trị tại Bệnh viện và quan trọng là

giúp người bệnh và thân nhân người bệnh nhận biết được những dấu hiệu bất thường,

kịp thời báo NVYT.

Vì vậy chúng tôi nghiên cứu về chủ đề này để đánh giá hoạt động GDSK tại Bệnh

viện từ đó tham mưu và có hành động hợp lý giúp nâng cao hiệu quả việc GDSK trong

Bệnh viện ngày càng làm tăng sự HLNB và chất lượng của Bệnh viện.

pdf 10 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá hoạt động giáo dục sức khỏe của nhân viên y tế đối với người bệnh nội trú ra viện tại Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh An Giang trong 6 tháng đầu năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hoạt động giáo dục sức khỏe của nhân viên y tế đối với người bệnh nội trú ra viện tại Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh An Giang trong 6 tháng đầu năm 2020

Đánh giá hoạt động giáo dục sức khỏe của nhân viên y tế đối với người bệnh nội trú ra viện tại Bệnh viện Đa khoa khu vực tỉnh An Giang trong 6 tháng đầu năm 2020
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 279 
ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC SỨC KHỎE 
CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ ĐỐI VỚI NGƯỜI BỆNH NỘI TRÚ RA VIỆN 
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA KHU VỰC TỈNH AN GIANG 
TRONG 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2020 
 Nguyễn Thanh Bình; Nguyễn Như Phượng 
 Lý Thuyên Trúc; Trần Huỳnh Ngọc 
TÓM TẮT: 
Đặt vấn đề: 
 Giáo dục sức khỏe (GDSK) là quá trình tác động nhằm thay đổi kiến thức, thái độ 
và thực hành của con người, phát triển thực hành lành mạnh mang lại tình trạng sức 
khỏe tốt nhất có thể cho con ngườ[1]. 
 GDSK cho người bệnh được coi là một chức năng thiết yếu của Bệnh viện mà 
nhiệm vụ chính là Nhân viên Y tế (NVYT) trong Bệnh viện.[3] Vì vậy NVYT phải đặc 
biệt quan tâm vì là yếu tố góp phần nâng cao sự Hài lòng người bệnh (HLNB), giúp 
người bệnh an tâm trong việc tham gia hợp tác điều trị tại Bệnh viện và quan trọng là 
giúp người bệnh và thân nhân người bệnh nhận biết được những dấu hiệu bất thường, 
kịp thời báo NVYT. 
 Vì vậy chúng tôi nghiên cứu về chủ đề này để đánh giá hoạt động GDSK tại Bệnh 
viện từ đó tham mưu và có hành động hợp lý giúp nâng cao hiệu quả việc GDSK trong 
Bệnh viện ngày càng làm tăng sự HLNB và chất lượng của Bệnh viện. 
Mục tiêu nghiên cứu: 
 Mục tiêu chung: 
 Đánh giá hoạt động GDSK của NVYT đối với người bệnh nội trú tại Bệnh viện 
Đa khoa Khu vực tỉnh An Giang (BVĐKKVTAG) 6 tháng đầu năm 2020. 
 Mục tiêu cụ thể: 
 Yếu tố giới tính liên quan đến đánh giá GDSK của người bệnh. 
 Yếu tố tuổi liên quan đến đánh giá GDSK của người bệnh. 
 Yếu tố sử dụng BHYT liên quan đến đánh giá GDSK của người bệnh. 
Kết quả và bàn luận: 
 Đặc điểm mẫu nghiên cứu: Trong 573 mẫu nghiên cứu (N=573) nhận thấy: nữ 
chiếm tỷ lệ 54,5% và nam 45,5%; nhóm tuổi 19-45 chiếm 55,1% và trên 45 chiếm 
44,9%; sử dụng BHYT 89,2 % và không sử dụng BHYT 10,8%; tỷ lệ mẫu nghiên cứu 
tại các khoa: Cấp cứu 6,8%, Ngoại Tổng hợp 9,2%, Ngoại Chấn thương – Bỏng 
9,8%, Nội Tổng hợp 15,7%, Nội Tim mạch-Lão học 8,0%, Sản 10,8%, Nhi 9,9%, 
Nhiễm 7,2%, Lao 5,9%, Mắt 6,8%, Răng Hàm Mặt 4,9%, Tai Mũi Họng 4,9%. 
 Hoạt động GDSK bệnh viện : Tỷ lệ GDSK được người bệnh đánh giá tốt nhất là 
khoa Nội Tổng hợp (tỷ lệ trung bình 87.8%) , các khoa có tỷ lệ cao kế tiếp là khoa 
Ngoại Tổng hợp (86.1%), khoa Sản (85.9%), khoa Nhiễm (85.9%). 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 280 
 Liên quan giữa yếu tố giới tính với hoạt động GDSK: Không có sự khác biệt về 
giới tính trong việc trả lời phiếu điều tra lên hoạt động “NVYT cho biết hướng điều 
trị”, “NVYT cho biết tình trạng bệnh”, “NVYT HD sử dụng thuốc”, “NVYT HD vận 
động, nghỉ ngơi”, “NVYT HD những dấu hiệu bất thường cần báo”, “NVYT HD 
phòng bệnh và dấu hiệu quay lại khám”. Có sự khác biệt về giới tính trong việc đánh 
giá của người bệnh về hoạt động “NVYT HD chế độ ăn” (P<0.05) và “NVYT HD vệ 
sinh cá nhân” (P<0.03) có ý nghĩa thống kê. 
 Liên quan giữa yếu tố tuổi với hoạt động GDSK: Không có sự khác biệt về nhóm 
tuổi trong việc trả lời phiếu điều tra liên quan đến “NVYT cho biết hướng điều trị”, 
“NVYT HD sử dụng thuốc”, “NVYT HD chế độ ăn” “NVYT HD vận động, nghỉ 
ngơi”, “NVYT HD những dấu hiệu bất thường cần báo”, “NVYT HD phòng bệnh và 
dấu hiệu quay lại khám” nhưng lại có sự khác biệt về nhóm tuổi trong việc trả lời của 
người bênh: Hoạt động “NVYT cho biết tình trạng bệnh” (P<0.01); Hoạt động 
“NVYT HD vệ sinh cá nhân” (P<0.03). 
 Liên quan giữa yếu tố BHYT với hoạt động GDSK: Có sự khác biệt giữa người 
bệnh sử dụng BHYT và người bệnh không sử dụng BHYT trong việc trả lời phiếu điều 
tra “NVYT cho biết hướng điều trị” (P<0.01). Không có sự khác biệt về sử dụng 
BHYT trong việc trả lời phiếu điều tra liên quan đến “NVYT cho biết tình trạng bệnh” 
, “NVYT HD sử dụng thuốc”, “NVYT HD chế độ ăn”, “NVYT HD vệ sinh cá nhân” 
“NVYT HD vận động, nghỉ ngơi”, “NVYT HD những dấu hiệu bất thường cần báo”, 
“NVYT HD phòng bệnh và dấu hiệu quay lại khám” . 
Kết luận: 
 Người bệnh đánh giá cao việc NVYT hướng dẫn sử dung thuốc (97.3%), NVYT cho 
biết về hướng điều trị (95.9%), NVYT cho biết tình trạng bệnh (95.7%). 
 Người bệnh đánh giá “NVYT HD chế độ ăn” (57.3%) và “NVYT HD vệ sinh cá 
nhân” ( 52.4%.) đây là hoạt động chưa tốt có tỷ lệ thấp nhất. 
 Yếu tố Giới tính có liên quan liên đến GDSK ở 2 hoạt đông: “NVYT HD chế độ ăn” 
(P<0.05) và “NVYT HD vệ sinh cá nhân” (P<0.03), hoạt động GDSK còn lại không 
liên quan đến yếu tố giới tính. 
 Yếu tố tuổi có liên quan liên đến GDSK ở 2 hoạt động: “NVYT cho biết tình trạng 
bệnh” (P<0.01) và “NVYT HD vệ sinh cá nhân” (P<0.03), yếu tố tuổi không liên 
quan hoạt động GDSK còn lại. 
 Yếu tố BHYT có liên quan liên đến GDSK ở 1 hoạt động: “NVYT cho biết hướng 
điều trị bệnh” (P<0.01), hoạt động GDSK còn lại không liên quan đến yếu tố sử dụng 
BHYT. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ: 
 - Giáo dục sức khỏe (GDSK) là quá trình tác động nhằm thay đổi kiến thức, thái độ 
và thực hành của con người, phát triển thực hành lành mạnh mang lại tình trạng sức 
khỏe tốt nhất có thể cho con người.[1] 
 - GDSK cho người bệnh trong Bệnh viện là cung cấp kiến thức cho người bệnh và 
thân nhân người bệnh hiểu rõ hơn về vấn đề sức khỏe liên quan đến bản thân để người 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 281 
bệnh và thân nhân có những hoạt động hợp lý trong việc sử dụng thuốc, ăn uống, vận 
động, phòng bệnh, nghỉ ngơi,nâng cao hiệu quả trong điều trị bệnh [2] 
 - GDSK cho người bệnh được coi là một chức năng thiết yếu của Bệnh viện mà 
nhiệm vụ chính là Nhân viên Y tế (NVYT) trong Bệnh viện.[3] Vì vậy NVYT phải 
đặc biệt quan tâm vì là yếu tố góp phần nâng cao sự Hài lòng người bệnh (HLNB), 
giúp người bệnh an tâm trong việc tham gia hợp tác điều trị tại Bệnh viện và quan 
trọng là giúp người bệnh và thân nhân người bệnh nhận biết được những dấu hiệu bất 
thường, kịp thời báo NVYT. 
 - Vì vậy chúng tôi nghiên cứu về chủ đề này để đánh giá hoạt động GDSK tại Bệnh 
viện từ đó tham mưu và có hành động hợp lý giúp nâng cao hiệu quả việc GDSK trong 
Bệnh viện ngày càng làm tăng sự HLNB và chất lượng của Bệnh viện. 
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: 
 2.1. Mục tiêu chung: 
 Đánh giá hoạt động GDSK của NVYT đối với người bệnh nội trú tại Bệnh viện 
Đa khoa Khu vực tỉnh An Giang (BVĐKKVTAG) 6 tháng đầu năm 2020. 
 2.2. Mục tiêu cụ thể: 
 - Yếu tố giới tính liên quan đến đánh giá GDSK của người bệnh?. 
 - Yếu tố tuổi liên quan đến đánh giá GDSK của người bệnh?. 
 - Yếu tố sử dụng BHYT liên quan đến đánh giá GDSK của người bệnh?. 
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 
 3.1. Đối tượng nghiên cứu: 
 Người bệnh từ 18 tuổi trở lên đang được điều trị nội trú tại BVĐKKVTAG đang 
được xuất viện trong ngày. 
 * Tiêu chuẩn lựa chọn: 
 - Đồng ý tham gia nhóm nghiên cứu. 
 - Biết đọc chữ 
 - Khoa Nhi: lựa chọn cha (mẹ) tham gia nhóm nghiên cứu. 
 * Tiêu chuẩn loại trừ: 
 - Không đồng ý tham gia nhóm nghiên cứu. 
 - Không biết chữ 
 - Khoa ICU, khoa GMHS. 
 3.2. Phương pháp nghiên cứu: 
 - Thời gian và địa điểm nghiên cứu: 06 tháng đầu năm 2020 tại BVĐKKVTAG. 
 - Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 
 - Cỡ mẫu nghiên cứu: N=573 
 - Phương pháp xử lý số liệu: Dùng phần mềm SPSS 20.0 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 282 
IV. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN: 
 4.1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu: 
 Trong 573 mẫu nghiên cứu (N=573) nhận thấy: nữ chiếm tỷ lệ 54,5% và nam 
45,5%; nhóm tuổi 19-45 chiếm 55,1% và trên 45 chiếm 44,9%; sử dụng BHYT 89,2 % 
và không sử dụng BHYT 10,8%; tỷ lệ mẫu nghiên cứu tại các khoa: Cấp cứu 6,8%, 
Ngoại Tổng hợp 9,2%, Ngoại Chấn thương – Bỏng 9,8%, Nội Tổng hợp 15,7%, Nội 
Tim mạch-Lão học 8,0%, Sản 10,8%, Nhi 9,9%, Nhiễm 7,2%, Lao 5,9%, Mắt 6,8%, 
Răng Hàm Mặt 4,9%, Tai Mũi Họng 4,9%. 
 4.2. Kết quả và bàn luận: 
 4.2.1. Hoạt động GDSK bệnh viện: 
Nội dung 
khoa 
NVYT 
có cho 
biết 
hướng 
điều trị 
(%) 
NVYT 
có cho 
biết 
tình 
trạng 
bệnh 
(%) 
NVYT 
có HD 
sử 
dụng 
thuốc 
(%) 
NVYT 
có HD 
chế độ 
ăn (%) 
NVYT 
có HD 
vệ sinh 
cá 
nhân 
(%) 
NVY
T có 
HD 
vận 
động
, 
nghỉ 
ngơi 
(%) 
NVYT 
có HD 
những 
dấu hiệu 
bất 
thường 
cần báo 
NVYT 
(%) 
NVYT 
có HD 
phòng 
bệnh 
và dấu 
hiệu 
quay 
lại 
khám 
(%) 
Tỷ lệ 
TB 
theo 
Khoa 
(%) 
Cấp cứu 
97,4 97.4 100.0 64.1 59.0 89.7 84.6 89.7 85,2 
Ngoại TH 
88,7 86.8 96.2 86.6 81.1 83.0 79.2 86.8 86,1 
Ngoại CT 
96,4 96.4 98.2 53.6 50.0 76.8 89.3 92.9 81,7 
Nội TH 
94,4 96.7 97.8 78.9 70.0 82.2 90.0 90.0 87,8 
Nội TM 
100 97.8 95.7 52.2 45.7 80.4 84.8 93.5 81.3 
Sản 
95,2 95.2 98.4 69.4 75.8 85.5 83.9 83.9 85.9 
Nhi 
89,5 87.7 100.0 68.4 66.7 68.4 86.0 77.2 80.5 
Nhiễm 
95,1 97.6 98.4 69.4 75.8 85.5 83.9 83.9 85.9 
Lao 
95,1 100 95.1 68.3 53.7 85.4 95.1 90.2 85.1 
Mắt 
97,4 97.4 94.9 12.8 7,7 41.0 66.7 82.1 62.5 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 283 
RHM 
100.0 100.0 96.4 35.7 28.6 67.9 78.6 92.9 75.0 
TMH 
100.0 100.0 96.4 28.6 14.3 71.4 71.4 82.1 
70.5 
Tỷ lệ TB 
theo từng 
hoạt động 
GDSK 
95.9 
95.7 97.3 57.3 52,4 76,4 82.8 87.1 
80.6 
 Tỷ lệ GDSK được người bệnh đánh giá tốt nhất là khoa Nội Tổng hợp (tỷ lệ 
trung bình 87.8%) , các khoa có tỷ lệ cao kế tiếp là khoa Ngoại Tổng hợp (86.1%), 
khoa Sản (85.9%), khoa Nhiễm (85.9%). Nhóm khoa tỷ lệ GDSK thấp nhất là: khoa 
Mắt (62.5%), khoa TMH (70.5%), khoa RHM (75.0%). 
 Người bệnh đánh giá rất cao việc NVYT hướng dẫn sử dụng thuốc tại các khoa 
(tỷ lệ trung bình 97.3%), NVYT cho biết hướng điều trị (95.9%) và NVYT cho biết 
tình trạng bệnh( 95.7%). 
 Người bệnh đánh giá việc “NVYT HD chế độ ăn” và “NVYT HD vệ sinh cá 
nhân” với tỷ lệ trung bình lần lượt là 57.3% và 52.4% tỷ lệ này không cao điều này nói 
lên rằng NVYT chưa thật sự quan tâm nhiều đến HD chế độ ăn và HD vệ sinh cá nhân 
cho người bệnh, cũng có thể do NVYT chưa nhận biết hết tác dụng lớn lao chế độ dinh 
dưỡng đối với từng bệnh, hay do thiếu tờ tơi, áp phích hướng dẫn dinh dưỡng tại các 
Khoa, Dinh dưỡng chế độ ăn bệnh lý chưa được phát triển mạnh đến các khoa Lâm 
sàng. “NVYT HD vệ sinh cá nhân” là hoạt động người bệnh đánh giá thấp nhất: HD 
và nhắc nhở vệ sinh tay thường xuyên, vệ sinh da, vệ sinh răng miệng, là yếu tố 
NVYT hay bỏ qua và ít quan tâm có thể do NVYT nghĩ rằng nó ít quan trọng nên 
giành nhiều thời gian cho việc thực hiện công việc khác: khám bệnh, theo dõi bệnh, 
Qui trình kỹ thuật, hồ sơ bệnh án, ngoài ra còn do sự tác động rất rõ rệt của covid 19 
lên hệ thông Y tế [5].Họp Hội đồng người bệnh hàng tuần, kết hợp GDSK tại Khoa 
không được thực hiện thường xuyên do tình hình dịch bệnh covid 19. Thực hiện tốt 
hướng dẫn và nhắc nhở việc vệ sinh cá nhân, rửa tay, cùng với chế độ dinh dưỡng hợp 
lý sẽ yếu tố thích hợp trong tình hình hiện tại góp phần không nhỏ trong hiệu quả điều 
trị và tăng cao sự hài lòng của người bệnh.[6, 7]. 
 4.2.2. Liên quan giữa yếu tố giới tính với hoạt động GDSK 
 NVYT cho biết hướng điều trị Giá trị P 
Có không 
Giới 
tính 
Nam 251 10 
P>0.05 Nữ 296 16 
 NVYT cho biết tình trạng bệnh 
P>0.05 Nam 251 10 
Nữ 296 16 
 NVYT HD sử dụng thuốc 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 284 
Nam 252 9 P>0.05 
Nữ 306 6 
 NVYT HD chế độ ăn 
P<0.05 Nam 142 119 
Nữ 196 116 
 NVYT HD vệ sinh cá nhân 
P<0.03 Nam 125 136 
Nữ 183 129 
 NVYT HD vận động, nghỉ ngơi 
P>0.05 Nam 191 70 
Nữ 245 67 
 NVYT HD những dấu hiệu bất thường 
cần báo 
P>0.05 
Nam 217 44 
Nữ 262 50 
 NVYT HD phòng bệnh và dấu hiệu 
quay lại khám 
P>0.05 
Nam 219 42 
Nữ 275 37 
 Không có sự khác biệt về giới tính trong việc trả lời phiếu điều tra lên hoạt động 
“NVYT cho biết hướng điều trị”, “NVYT cho biết tình trạng bệnh”, “NVYT HD sử 
dụng thuốc”, “NVYT HD vận động, nghỉ ngơi”, “NVYT HD những dấu hiệu bất 
thường cần báo”, “NVYT HD phòng bệnh và dấu hiệu quay lại khám”. 
 Có sự khác biệt về giới tính trong việc đánh giá của người bệnh về hoạt động 
“NVYT HD chế độ ăn” (P<0.05) và “NVYT HD vệ sinh cá nhân” (P<0.03) có ý 
nghĩa thống kê. Giải trình sự khác biệt: người bệnh là nam giới đánh giá NVYT không 
có “HD chế độ ăn” và không có “HD vệ sinh cá nhân” nhiều hơn người bệnh nữ giới 
(biểu đồ 6,7), có thể do NVYT nghĩ rằng HD ăn uống và HD vệ sinh cá nhân giành 
nhiều hơn cho đối tượng bệnh là nữ giới, yếu tố khác cũng có thể do phụ nữ Việt Nam 
theo tập quán địa phương là làm công việc nhà: nội trợ, lo việc ăn uống, vệ sinh [8] vì 
thế nên nữ giới có thể không khắc khe trong việc điền phiếu điều tra. 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 285 
 4.2.3. Liên quan giữa yếu tố tuổi với hoạt động GDSK 
 NVYT cho biết hướng điều trị Giá trị P 
Có không 
Nhóm 
tuổi 
≤ 45 tuổi 298 18 P>0.05 
>45 tuổi 249 8 
 NVYT cho biết tình trạng bệnh 
P<0.01 
≤ 45 tuổi 295 21 
>45 tuổi 252 5 
 NVYT HD sử dụng thuốc 
P>0.05 ≤ 45 tuổi 306 10 
>45 tuổi 252 5 
 NVYT HD chế độ ăn 
P>0.05 ≤ 45 tuổi 195 121 
>45 tuổi 143 114 
 NVYT HD vệ sinh cá nhân 
P<0.03 ≤ 45 tuổi 183 133 
>45 tuổi 125 132 
 NVYT HD vận động, nghỉ ngơi 
P>0.05 ≤ 45 tuổi 248 68 
>45 tuổi 188 69 
 NVYT HD những dấu hiệu bất thường 
cần báo 
P>0.05 
≤ 45 tuổi 270 46 
>45 tuổi 209 48 
 NVYT HD phòng bệnh và dấu hiệu 
quay lại khám 
P>0.05 
≤ 45 tuổi 271 45 
>45 tuổi 223 34 
 Không có sự khác biệt về nhóm tuổi trong việc trả lời phiếu điều tra liên quan 
đến “NVYT cho biết hướng điều trị”, “NVYT HD sử dụng thuốc”, “NVYT HD chế 
độ ăn” “NVYT HD vận động, nghỉ ngơi”, “NVYT HD những dấu hiệu bất thường cần 
báo”, “NVYT HD phòng bệnh và dấu hiệu quay lại khám” nhưng lại có sự khác biệt 
về nhóm tuổi trong việc trả lời của người bênh: 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 286 
 + Hoạt động “NVYT cho biết tình trạng bệnh” (P<0.01): Người bệnh nhóm 
tuổi ≤ 45 cho rằng NVYT không cho biết tình trạng bệnh nhiều hơn người bệnh nhóm 
tuổi > 45 (biểu đồ 8). Lý giải cho điều này có thể do NVYT ít giải thích tình trạng 
bệnh đối với người bệnh ở nhóm tuổi ≤ 45 do bệnh nhóm tuổi này mức độ nguy hiểm 
ít trầm trọng hơn người bệnh nhóm tuổi >45. 
 + Hoạt động “NVYT HD vệ sinh cá nhân” (P<0.03): Người bệnh nhóm tuổi 
≤ 45 tuổi cho rằng NVYT không HD vệ sinh cá nhân ít hơn người bênh nhóm tuổi >45 
(biểu đồ 9), có thể vì người bệnh nhóm tuổi ≤ 45 còn khỏe mạnh hơn, vệ sinh cá nhân 
không gặp nhiều khó khăn nên không quan tâm đến việc HD vệ sinh cá nhân và dễ 
dàng đánh giá tốt cho NVYT trong hoạt động này. 
 4.2.4. Liên quan giữa yếu tố BHYT với hoạt động GDSK 
 NVYT cho biết hướng điều trị Giá trị P 
Có không 
BHYT Có 495 16 P<0.01 
Không 52 10 
 NVYT cho biết tình trạng bệnh 
P>0.05 Có 491 20 
Không 56 6 
 NVYT HD sử dụng thuốc 
P>0.05 Có 497 14 
Không 61 1 
 NVYT HD chế độ ăn 
P>0.05 Có 296 215 
Không 42 20 
 NVYT HD vệ sinh cá nhân 
P>0.05 Có 273 238 
Không 35 27 
 NVYT HD vận động, nghỉ ngơi 
P>0.05 Có 389 122 
Không 47 15 
 NVYT HD những dấu hiệu bất 
thường cần báo 
P>0.05 
Có 429 82 
Không 50 12 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 287 
 NVYT HD phòng bệnh và dấu hiệu 
quay lại khám 
P>0.05 
Có 439 72 
Không 55 7 
 Có sự khác biệt giữa người bệnh sử dụng BHYT và người bệnh không sử 
dụng BHYT trong việc trả lời phiếu điều tra “NVYT cho biết hướng điều trị” 
(P<0.01), sự khác biệt này do người bệnh có sử dụng BHYT cho rằng NVYT không 
cho biết hướng điều trị cao hơn ngưởi bệnh không sử dụng BHYT (biểu đồ 10). Lý 
giải: có thể do người bệnh không sử dụng BHYT trả tiền nhiều nên yêu cầu NVYT trả 
lời những thắc mắc về bệnh nhiều hơn. Hay có thể để tránh khó khăn trong việc thu 
tiền nên NVYT có khuynh hướng giải đáp thắc mắc, HD nhiều hơn đối với đối tượng 
người bệnh thu phí. 
 Không có sự khác biệt về sử dụng BHYT trong việc trả lời phiếu điều tra liên 
quan đến “NVYT cho biết tình trạng bệnh” , “NVYT HD sử dụng thuốc”, “NVYT 
HD chế độ ăn”, “NVYT HD vệ sinh cá nhân” “NVYT HD vận động, nghỉ ngơi”, 
“NVYT HD những dấu hiệu bất thường cần báo”, “NVYT HD phòng bệnh và dấu 
hiệu quay lại khám” . 
V. KẾT LUẬN: 
 Người bệnh đánh giá cao việc NVYT hướng dẫn sử dung thuốc (97.3%), NVYT 
cho biết về hướng điều trị (95.9%), NVYT cho biết tình trạng bệnh (95.7%). 
 Người bệnh đánh giá “NVYT HD chế độ ăn” (57.3%) và “NVYT HD vệ sinh cá 
nhân” ( 52.4%.) đây là hoạt động chưa tốt có tỷ lệ thấp nhất. 
 Yếu tố Giới tính có liên quan liên đến GDSK ở 2 hoạt đông: “NVYT HD chế độ 
ăn” (P<0.05) và “NVYT HD vệ sinh cá nhân” (P<0.03), hoạt động GDSK còn lại 
không liên quan đến yếu tố giới tính. 
 Yếu tố tuổi có liên quan liên đến GDSK ở 2 hoạt động: “NVYT cho biết tình trạng 
bệnh” (P<0.01) và “NVYT HD vệ sinh cá nhân” (P<0.03), yếu tố tuổi không liên quan 
hoạt động GDSK còn lại. 
 Yếu tố BHYT có liên quan liên đến GDSK ở 1 hoạt động: “NVYT cho biết hướng 
điều trị bệnh” (P<0.01), hoạt động GDSK còn lại không liên quan đến yếu tố sử dụng 
BHYT. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Who, Health Promtion. 2001. 
2. BVĐKKVTAG, Tài liệu tư vấn điều trị và giáo dục sức khỏe. 2015, 2017. 
3. Tancred, T., et al., in Interventions integrating health and academic education 
in schools to prevent substance misuse and violence: a systematic review. 2019: 
Southampton (UK). 
4. BYT, thông tư 07/2011. 2011. 
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Năm 2020 
Bệnh Viện Đa Khoa Khu Vực Tỉnh An Giang Trang 288 
5. Härter, M., et al., [Impact of COVID-19-pandemic on Clinical Care, Work 
Flows and Staff at a University Hospital: Results of an Interview-study at the UKE]. 
Gesundheitswesen, 2020. 
6. Huang, S.S., et al., Chlorhexidine versus routine bathing to prevent multidrug-
resistant organisms and all-cause bloodstream infections in general medical and 
surgical units (ABATE Infection trial): a cluster-randomised trial. Lancet, 2019. 
393(10177): p. 1205-1215. 
7. Bonetti, D., et al., Improving oral hygiene for patients. Nurs Stand, 2015. 
29(19): p. 44-50. 
8. Long, T.Q.J.T.c.X.h.h., Lao động nội trợ của phụ nữ trong gia đình nông 
thôn. 2007: p. 82-89. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_hoat_dong_giao_duc_suc_khoe_cua_nhan_vien_y_te_doi.pdf