Đánh giá hiệu quả vạt da nhánh xuyên động mạch chày sau trong che phủ khuyết hổng phần mềm cẳng chân
Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu sử dụng vạt da nhánh xuyên động mạch chày sau
trong che phủ khuyết hổng phần mềm (KHPM) cẳng chân. Đối tượng và phương pháp:
30 bệnh nhân (BN) có tổn khuyết phần mềm kèm theo lộ xương chày được điều trị tại Khoa
Phẫu thuật Tạo hình, Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác từ tháng 01/2017 - 6/2020. Vạt
da nhánh xuyên động mạch chày sau được sử dụng trong che phủ tổn khuyết phần mềm vùng
cẳng chân. Sử dụng siêu âm Doppler xác định nhánh xuyên động mạch chày sau dựa trên
đường chuẩn đích là đường nối điểm giữa nếp gấp khoeo và mắt cá trong. Kết quả: 26/30 vạt
sống hoàn toàn, 3 vạt liền kỳ hai và 1 vạt hoại tử hoàn toàn. Kết luận: Vạt da nhánh xuyên
động mạch chày sau có độ tin cậy cao, có thể chọn lựa và thiết kế vạt một cách linh hoạt.
Kết quả che phủ tốt, rút ngắn thời gian điều trị.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hiệu quả vạt da nhánh xuyên động mạch chày sau trong che phủ khuyết hổng phần mềm cẳng chân
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 76 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VẠT DA NHÁNH XUYÊN ĐỘNG MẠCH CHÀY SAU TRONG CHE PHỦ KHUYẾT HỔNG PHẦN MỀM CẲNG CHÂN Nguyễn Thế Anh1, Vũ Quang Vinh2 TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu sử dụng vạt da nhánh xuyên động mạch chày sau trong che phủ khuyết hổng phần mềm (KHPM) cẳng chân. Đối tượng và phương pháp: 30 bệnh nhân (BN) có tổn khuyết phần mềm kèm theo lộ xương chày được điều trị tại Khoa Phẫu thuật Tạo hình, Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác từ tháng 01/2017 - 6/2020. Vạt da nhánh xuyên động mạch chày sau được sử dụng trong che phủ tổn khuyết phần mềm vùng cẳng chân. Sử dụng siêu âm Doppler xác định nhánh xuyên động mạch chày sau dựa trên đường chuẩn đích là đường nối điểm giữa nếp gấp khoeo và mắt cá trong. Kết quả: 26/30 vạt sống hoàn toàn, 3 vạt liền kỳ hai và 1 vạt hoại tử hoàn toàn. Kết luận: Vạt da nhánh xuyên động mạch chày sau có độ tin cậy cao, có thể chọn lựa và thiết kế vạt một cách linh hoạt. Kết quả che phủ tốt, rút ngắn thời gian điều trị. * Từ khoá: Vạt cánh quạt; Nhánh xuyên; Động mạch chày sau. Assessement of the Effectiveness of Posterior Tibial Artery Perforator Flap for Treatment of Tissue Defect in Lower Extremities Summary Objectives: To assess the effectiveness of posterior tibial artery perforator flap for treatment of tissue defect in lower extremities. Subjects and methods: 30 patients with tibial bone exposed were applied posterior artery perforator propeller flap at Department of Plastic and Reconstructive Surgery of National Institute of Burn, from 01/2017 - 6/2020. Position of perforators has been determined from medial malleolus to medial knee joint. Relation between number of perforators pre-operation (Determine by hand dopper) and number perforators dissected intraoperation will be discussed in our paper. Results: 26 flaps survival completely; 3 flaps secondary wound healing and 1 flap total necrosis. Number of perforators determined by hand Doppler pre-operation and number of perforators dissected in-operation had no significant difference. Conclusion: The islanded propeller-design posterior tibial artery perforator flap provides reliable coverage of lower limb defects, particularly of the lower third. * Keywords: Propeller flap; Perforator; Posterior tibial. 1Bộ môn - Trung tâm Ngoại Dã chiến, Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y 2Bộ môn - Trung tâm Phẫu thuật Tạo hình và Thẩm mỹ, Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác Người phản hồi: Nguyễn Thế Anh ([email protected]) Ngày nhận bài: 01/10/2020 Ngày bài báo được đăng: 25/12/2020 T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 77 ĐẶT VẤN ĐỀ Khuyết hổng phần mềm để lộ gân, lộ xương ở vùng cẳng chân, cổ chân, bàn chân là tổn thương thường gặp do các nguyên nhân như tai nạn giao thông, tai nạn lao động, loét trên nền sẹo cũ, loét sau xạ trị [1, 2]. Do đặc điểm phân bố phần mềm cẳng chân không đều nhau nên việc cấp máu nuôi dưỡng không giống nhau dẫn đến quá trình liền vết thương không thuận lợi. Điều trị KHPM được các phẫu thuật viên coi là khó khăn, phức tạp, thời gian kéo dài, thường để lại di chứng, ảnh hưởng xấu đến chức năng và thẩm mỹ của chi thể cũng như khả năng sinh hoạt, lao động của người bệnh. Các phương pháp kinh điển trong điều trị tổn khuyết lộ xương vùng cẳng chân vẫn còn nhiều nhược điểm chưa khắc phục được như phải hy sinh cơ như vạt cơ dép hay các mạch chính nuôi dưỡng cẳng chân như vạt chày trước, vạt chày sau Cuối những năm 1980, vạt da nhánh xuyên cuống liền mạch ra đời và được Koshima và Soeda [4], Kroll và Rosenfield [5] ứng dụng rất thành công sau đó với một dạng vạt mới trong tạo hình là vạt nhánh xuyên cơ da, vạt xuyên vách da [3]. Vạt này dựa trên sự cấp máu của nhánh xuyên cơ da, xuyên vách da và được nâng lên như một vạt da-cân hoặc da-mỡ mà không phải hy sinh khối cơ dưới cũng như bó mạch chính của chi thể. Đến nay vạt được ứng dụng rộng rãi trên thế giới. Ở nước ta, chưa có công trình nào nghiên cứu chi tiết về giải phẫu và ứng dụng của vạt da nhánh xuyên động mạch chày sau che phủ tổn thương lộ gân xương vùng cẳng chân. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm: Đánh giá kết quả bước đầu sử dụng vạt nhánh xuyên động mạch chày sau trong che phủ KHPM vùng cẳng chân. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu 30 BN không phân biệt tuổi, giới, được chẩn đoán KHPM vùng cẳng chân có lộ xương hoặc lộ gân, được điều trị phẫu thuật che phủ bằng vạt da nhánh xuyên động mạch chày sau tại Bộ môn - Trung tâm Phẫu thuật Tạo hình và Thẩm mỹ, Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác từ tháng 01/2017 - 6/2020. 2. Phương pháp nghiên cứu * Phương tiện nghiên cứu: - Siêu âm Doppler 8 Mhz cầm tay để thăm dò cuống mạch nuôi vạt. - Dụng cụ phẫu thuật. - Thước dây đo kích thước vạt. - Máy ảnh để thu thập hình ảnh quá trình phẫu thuật. - Dao Lagrot. - Kính lúp có độ phóng đại 3,5 lần sử dụng trong quá trình bóc vạt. * Các bước tiến hành phẫu thuật: - Cắt lọc hoại tử và làm sạch tổn khuyết. - Đo KHPM. - Dùng siêu âm Doppler 8 Mhz cầm tay để dò và đánh dấu xác định vị trí điểm ra của mạch xuyên chày sau dọc theo đường chuẩn đích của động mạch chày sau từ điểm nối mắt cá trong và điểm giữa nếp gấp khoeo. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 78 - Thiết kế vạt: Vạt được thiết kế chứa nhánh xuyên vừa dò tìm được ở trên. Tuỳ theo tổn khuyết và vùng da lành còn lại, thiết kế vạt da có cuống mạch trung tâm hoặc không trung tâm. Vạt da có cuống mạch trung tâm với dạng 2 cánh cân xứng hay không cân xứng. Trong nghiên cứu chủ yếu sử dụng dạng 2 cánh không cân xứng. - Hình thức sử dụng vạt: Vạt được sử dụng là dạng đảo quay quanh trục nhánh xuyên theo kiểu vạt cánh quạt. Vạt quay theo chiều kim đồng hồ hay ngược chiều kim đồng hồ đều được. Nếu góc quay > 180º, có thể quay theo chiều ngược lại để góc quay < 180º. - Bóc vạt (nâng vạt): Rạch da theo hình vẽ đã thiết kế, qua lớp cân cơ, khâu lớp cân cơ này vào da vạt, bóc vạt ngay dưới lớp cân này, từ ngoại vi (bờ vạt) vào trung tâm (cuống vạt). - Xác định và lựa chọn nhánh xuyên phù hợp để nuôi vạt. - Cuống vạt có thể được bóc trần hay để lại một ít mô cân mỡ che cuống mạch để tránh tổn thương cuống mạch. - Xoay đặt vạt vào đúng vị trí che phủ KHPM và lật một bên mép vạt lên để kiểm tra cuống mạch: + Nếu cuống mạch căng và có nguy cơ xẹp mạch hay siêu âm Doppler 8 Mhz có âm thổi nhỏ, cần tiến hành bóc tách làm cuống vạt dài thêm. + Nếu cuống mạch không căng và siêu âm Doppler 8 Mhz kiểm tra cuống mạch có âm thổi to rõ, chứng tỏ mạch máu thông suốt khi ở vị trí che phủ KHPM. - Đặt dẫn lưu dưới vạt: Phải đảm bảo hiệu quả đồng thời ống dẫn lưu không chạy qua hay nằm sát cuống vạt nuôi vạt để tránh gây chấn thương hoặc kích thích gây co thắt động mạch xuyên. Chúng tôi thường dùng lam hay ống dẫn lưu silicon kín áp lực âm. - Khâu đóng vết mổ: Khâu 2 lớp nhưng lớp dưới da rất thưa, tránh hiện tượng thiểu dưỡng vạt. - Kiểm tra tuần hoàn vạt da. - Vùng cho vạt được bóc tách rộng 2 mép vết thương rồi khâu đóng trực tiếp bằng các mối chỉ rời, nếu căng quá không khâu kín được, cần khép bớt 2 mép vết thương, phần khuyết hổng còn lại được ghép da tự thân. - Băng nhẹ vết thương. * Đánh giá kết quả điều trị: Tiến hành đánh giá kết quả gần tại thời điểm sau mổ trước 3 tháng và kết quả xa sau 3 tháng theo 3 mức độ: tốt, trung bình, xấu [4]. - Tiêu chuẩn đánh giá kết quả: + Tình trạng sống của vạt. + Tình trạng liền vết thương. + Biến chứng như tụ máu, nhiễm khuẩn vết mổ. - Kết quả gần (đánh giá trong vòng 3 tháng sau phẫu thuật): + Tốt: Vạt sống hoàn toàn, vết mổ liền sẹo tốt, không can thiệp phẫu thuật khác, chức năng vận động của khớp trở lại bình thường hoặc gần bình thường. + Trung bình: Vạt có tình trạng thiểu dưỡng nhẹ hoặc hoại tử một phần ở đầu mút hoặc mép vạt, có hoặc không cần ghép da, tụ máu hoặc nhiễm khuẩn vết mổ, chức năng vận động của khớp cải thiện đáng kể. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 79 + Xấu: Vạt da hoại tử trên 1/3 diện tích hoặc toàn bộ, phải cắt lọc và ghép da hỗ trợ hoặc thay thế bằng phương pháp khác. - Kết quả xa sau 3 tháng (đánh giá ở thời điểm trên 3 tháng sau phẫu thuật): + Tốt: Vạt mềm mại, màu sắc hòa đồng với da lành, sẹo tốt, chức năng vận động của khớp đạt yêu cầu. + Trung bình: Vạt kém mềm mại, sẹo quanh vạt còn xơ, chức năng vận động đạt mức trung bình. + Xấu: Vạt da xơ cứng, di động kém, màu sắc không hòa đồng với da xung quanh, sẹo quanh vạt lồi hay phì đại. Đánh giá kết quả đạt được theo vùng tổn thương, theo mức độ co kéo. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Bảng 1: Phân loại theo nguyên nhân tổn thương. Nguyên nhân Số BN Tỷ lệ (%) Tai nạn giao thông 19 63,33 Tai nạn lao động 2 6,67 Loét sau xạ trị 4 13,33 Sẹo loét 5 16,67 Tổng 30 100,00 Nguyên nhân do tai nạn giao thông chiếm đa số (63,33%). Bảng 2: Kích thước KHPM vùng cẳng chân. Kích thước KHPM (cm2) Số BN Tỷ lệ (%) < 20 4 13,33 20 - 60 18 60,00 > 60 8 26,67 Tổng 30 100,00 Trong số 30 BN KHPM cẳng chân, có đến 26 BN có kích thước KHPM rộng với đường kính > 20 cm2 kèm lộ xương cẳng chân. Bảng 3: Số lượng nhánh xuyên nuôi vạt. Số nhánh xuyên Nguồn mạch 1 nhánh 2 nhánh > 2 nhánh Tổng Số vạt 16 8 4 30 Tỷ lệ (%) 53,33 26,67 13,33 100,00 100% BN đều có ít nhất 1 nhánh xuyên của động mạch chày sau [3]. Tuy nhiên, trong phẫu thuật chúng tôi chỉ sử dụng nhánh xuyên có đường kính lớn nhất, gần tổn thương nhất. Các nhánh còn lại được thắt buộc, tạo điều kiện để xoay vạt dễ dàng. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 80 * Chiều dài cuống mạch: Vạt da nhánh xuyên động mạch chày sau có độ dài cuống mạch trong khoảng từ 1,5 - 3 cm, nhiều nhất là các nhánh xuyên có độ dài từ 1,5 - 2 cm (21 BN = 70%), nhánh xuyên có độ dài từ 2,1 - 3 cm gặp 9 BN (36,84%). Bảng 4: Kích thước vạt được sử dụng. Kích thước vạt Các thông số Lớn nhất Nhỏ nhất Trung bình Chiều rộng (cm) 9 4 5,6 Chiều dài (cm) 17 6 9,3 Diện tích (cm2 ) 153 24 45,1 Vạt da nhánh xuyên động mạch chày sau có chiều dài lớn nhất đạt 17 cm, chiều rộng 9 cm, diện tích 153 cm². Bảng 5: Tình trạng vạt. Loại vạt Tình trạng vạt Dạng đảo Dạng V-Y Tổng Xếp loại Vạt sống hoàn toàn, vết mổ liền kỳ đầu 25 1 26 Tốt Nhiễm khuẩn, viêm rò vết mổ 3 0 3 Trung bình Hoại tử > 1/3 diện tích đến toàn bộ vạt 1 0 1 Xấu Tổng 29 1 30 26/30 vạt da nhánh xuyên chày sau (86,67%) được sử dụng, sống hoàn toàn. Ở các BN, hầu hết vết mổ liền kỳ đầu sau 15 - 25 ngày. BÀN LUẬN Tái tạo tổn khuyết phần mềm có lộ xương vùng cẳng chân vẫn luôn là thách thức của các phẫu thuật viên chấn thương và tạo hình. Các vạt da cân và vạt tại chỗ cuống ngẫu nhiên được áp dụng trong một thời gian dài, tuy nhiên vẫn chưa khắc phục được một số nhược điểm như các vạt tại chỗ chỉ phù hợp cho những tổn khuyết nhỏ và phải tuân thủ nghiêm mật theo tỷ lệ 1/2 giữa chiều rộng và chiều dài của vạt [2]. Các vạt cơ như vạt cơ sinh đôi, vạt cơ dép thường phải hy sinh các khối cơ này dẫn đến mất hoặc giảm chức năng vận động của cẳng chân [6]. Ngoài ra, vạt có kích thước quá dày, ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thẩm mỹ sau phẫu thuật của BN. Các vạt da chéo chân làm cho BN bất động 21 ngày, dẫn đến các biến chứng như cứng khớp, đòi hỏi nhiều thời gian chăm sóc vết thương và cần phẫu thuật hai thì. Đối với vạt da cân chày trước hoặc chày sau, phải hy sinh một trong hai động mạch chính này, dẫn đến thiếu hụt nguồn cấp máu cho cẳng chân [7]. Nhiều tác giả trong nước và trên thế giới đã áp dụng các vạt tự do trong điều trị tổn khuyết phần mềm vùng T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 81 cẳng chân. Tuy nhiên, đây là kỹ thuật khó đòi hỏi phẫu thuật viên vi phẫu có kinh nghiệm và trang thiết bị hiện đại. Để khắc phục nhược điểm của vạt da-cân tại chỗ cuống ngẫu nhiên và tìm một chất liệu tạo hình mới đạt yêu cầu về chức năng, đồng thời giảm tối đa di chứng của vùng cho vạt da-cơ, vạt nhánh xuyên ra đời với sự tìm tòi của các nhà nghiên cứu. Tiên phong trong nghiên cứu này là Koshima (1989), Shoeda, Kroll và Rossenfield [4, 5]. Nghiên cứu trên giải phẫu cho thấy sự cấp máu của nhánh xuyên cơ đến da là đáng tin cậy, cùng với ứng dụng trên lâm sàng đã khẳng định hiệu quả của vạt da nhánh xuyên. Đến năm 2008, Schaverien M, Saint-Cyr, M [8] và Whetzel và CS mô tả nhánh xuyên của động mạch chày trước, từ đó làm cơ sở trong ứng dụng vạt da nhánh xuyên động mạch chày trước. Các nhánh xuyên có nguyên uỷ từ động mạch chày sau, sau khi đi xuyên qua vách gian cơ rồi đi thẳng lên da. Do đó, chúng nằm dọc theo 2 bên đường chuẩn đích của động mạch chày sau. Siêu âm Doppler được sử dụng trước mổ nhằm xác định nhánh xuyên theo đường chuẩn đích của động mạch chày sau. Tuy nhiên, để tránh nhầm lẫn giữa âm của nhánh xuyên và âm của động mạch chày sau, chúng tôi thường kiểm tra bằng cách dùng siêu âm dò ngang vuông góc sang 2 bên từ 0,5 - 1 cm so với đường chuẩn đích. Theo kinh nghiệm lâm sàng dò tìm nhánh xuyên chày sau, nếu còn âm thổi, đó là nhánh xuyên, vì chỉ có nhánh xuyên lên vách ra da mới cho âm thổi này. Kết quả bảng 3 cho thấy các vạt đều có ít nhất 1 nhánh xuyên, chỉ có 2 vạt chúng tôi tìm thấy 3 nhánh xuyên nằm lân cận nhau. Để đảm bảo cho vạt da sống tốt, việc chọn lựa và phẫu tích nhánh xuyên là vấn đề quan trọng nhất bảo đảm thành công của phẫu thuật. Trong nghiên cứu, hầu hết các trường hợp có sự tương xứng về vị trí và số lượng nhánh xuyên. Tuy nhiên, để sử dụng các nhánh xuyên này cung cấp máu cho vạt đòi hỏi độ tập trung của mạch xuyên. Đa số các nhánh xuyên nằm phân tán, do đó phải lựa chọn một nhánh xuyên phù hợp nhất để cấp máu cho vạt. Kinh nghiệm trong phẫu thuật cho thấy, nếu các nhánh xuyên ở gần nhau, khoảng cách giữa chúng ≤ 0,5 cm thì lấy tất cả các nhánh xuyên trong đường tròn đường kính ≤ 0,5 cm này. Với cuống vạt đường kính trên mức độ xoắn vặn của cuống mạch, khi quay vạt sẽ không ảnh hưởng đến việc lưu thông máu qua cuống mạch. Nếu các nhánh xuyên ở cách xa nhau > 0,5 cm phải cân nhắc lựa chọn một nhánh xuyên phù hợp nhất có đường kính lớn nhất để cấp máu cho vạt. Cắt bỏ các nhánh xuyên còn lại, nếu để xoắn vặn quá mức sẽ ảnh hưởng đến việc lưu thông máu qua cuống mạch và gây hoại tử vạt. Chiều dài của nhánh xuyên động mạch chày sau theo các nghiên cứu khác là độ dài được tính từ nơi nhánh xuyên động mạch chày sau được tách ra tại mạch gốc đến khi chui vào trong da. Kết quả nghiên cứu của Teo, Ariel cho thấy chiều dài các nhánh xuyên chày sau là 1,7 - 4,0 cm, Whetzel và CS [10] ghi nhận kết quả là 1,1 - 4,7 cm. Chiều dài cuống mạch được đề cập trong nghiên cứu của chúng tôi chính là đoạn mạch nhánh xuyên được bóc tách đến điểm chạy vào trong da để cấp máu cho vạt da dài 1,5 - 3,0 cm. Vì đây là vạt có cuống mạch liền nên việc phẫu tích nhánh xuyên không cần thiết phải sâu xuống tận mạch gốc. Khi chiều dài nhánh T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 82 xuyên đạt từ 1 - 1,5 cm, quá trình phẫu tích có thể dừng lại vì đủ độ dài để xoay vạt cũng như hạn chế sự xoắn vặn cuống mạch có thể xảy ra. Điều này phù hợp báo cáo của Teo [9], Ariel [3]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, dạng vạt cánh quạt được sử dụng nhiều nhất (18/19 trường hợp) do cung xoay rộng có thể vươn tới mắt cá chân và gót chân. Duy nhất 1 trường hợp sử dụng dưới dạng vạt V-Y do kích thước tổn khuyết hẹp. Kết quả cũng cho thấy độ tin cậy khi ứng dụng vạt, với 26/30 trường hợp vạt sống tốt. Kích thước tối đa có thể lấy được với chiều dài lên tới 17 cm và chiều rộng 9 cm, tương đương với nghiên cứu của Ariel và CS [3]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 1 trường hợp có vạt bị hoại tử do đây là BN KHPM vùng 1/3 dưới cẳng chân, kích thước tổn thương 4 × 5 cm. Quá trình bóc vạt thuận lợi, chảy máu ít, cầm máu tốt. Vùng cuống vạt được phẫu tích dài 1,5 cm, trong cuống vạt có mạch nhánh xuyên da phù hợp với nhánh xuyên được xác định bằng Doppler trước phẫu thuật. Ngày đầu sau mổ: Vạt nề nhẹ, ấm, màu sắc hồng hào, tuần hoàn tại vạt tốt. Ngày thứ 2 sau mổ: Vạt nề nhiều hơn, đầu xa của vạt hơi thâm, tuần hoàn vạt chậm. BN có thay đổi tư thế, vô tình chạm vạt vào thành giường, khi phát hiện vạt có màu thâm tím rộng toàn bộ diện tích, tuần hoàn tại vạt kém, ngày tiếp theo vạt càng thẫm hơn. Vạt dần hoại tử khô đen cứng, chúng tôi cắt bỏ toàn bộ phần hoại tử và thay thế bằng vạt da-cân hiển ngoài cuống ngoại vi. BN ra viện sau 39 ngày. KẾT LUẬN Vạt da nhánh xuyên động mạch chày sau là vạt có độ tin cậy cao, có thể chọn lựa và thiết kế vạt một cách linh hoạt dựa trên các nhánh xuyên dọc theo đường đi của động mạch chày sau, vạt được sử dụng mà không phải hy sinh động mạch chính. Kết quả che phủ tốt, rút ngắn thời gian điều trị. Bệnh nhân minh hoạ: 1. Bệnh nhân nam 57 tuổi, loét cẳng chân phải sau tai nạn giao thông, sử dụng vạt nhánh xuyên động mạch chày sau dạng đảo, góc xoay 180o. Hình ảnh trước mổ, thiết kế vạt và sau mổ 1 tháng: T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2020 83 2. Bệnh nhân nam 37 tuổi, vết thương phần mềm lộ phương tiện kết xương 1/3 dưới cẳng chân phải do tai nạn giao thông. Sử dụng vạt nhánh xuyên động mạch chày sau, dạng đảo, góc xoay 170o. Hình ảnh trước mổ, sau mổ 1 ngày và 1 tháng: TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Tiến Bình. Nghiên cứu giải phẫu vạt da cân trên mắt cá ngoài, vạt bắp chân cuống ngoại vi và ứng dụng điều trị khuyết hổng phần mềm đoạn 2/3 dưới cẳng chân, cổ chân. Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Y Dược. Hà Nội 1997:6. 2. Vũ Nhất Định. Nghiên cứu giải phẫu và ứng dụng lâm sàng vạt da cân hiển ngoài hình đảo cuống ngoại vi điều trị khuyết hổng phần mềm vùng 1/3 dưới cẳng chân, cổ chân, mắt cá chân và củ gót. Luận án Tiến sĩ Y học. Hà Nội 2004:132. 3. Ariel N Rad, Michael R Christy, et al. The anterior tibialis artery perforator (ATAP) flap for traumatic knee and patella defects. Ann Plast Surg 2010; 64:210-216. 4. Koshima I, Moriguchi T, Ohta S, Hamanaka T, Inoue T, Ikeda A. The vasculature and clinical application of the pos-terior tibial perforator-based flap. Plast Reconstr Surg 1992; 90:643-649. 5. Kroll SS, Rosenfield L. Perforator- based flap for low posterior midline defects. Plast Reconstr Surg 1988; 81:561-566. 6. McCraw JB, Fishman JH, Sharzer LA. The versatile gastrocnemius myocu-taneous flap. Plast Reconstr Surg 1978; 62:15-23. 7. Small J, Mollan R. Management of the soft tissues in open tibial fractures. Br J Plast Surg 1992; 45:571-577. 8. Schaverien M, Saint-Cyr M. Perforators of the lower leg: Analysis of perforator locations and clinical application for pedicled perforator flaps. Plast Reconstr Surg 2008; 122:161-170. 9. Teo TC. Perforator local flaps in lower limb reconstruction. Cirugia Plastica Ibero - Latinoamericana 2008; 32(4):15-18. 10. Whetzel TP, Barnard MA, Stokes RB. Arterial fasciocutaneous vascular territories of the lower leg. Plast Reconstr Surg 1997; 100:1172.
File đính kèm:
danh_gia_hieu_qua_vat_da_nhanh_xuyen_dong_mach_chay_sau_tron.pdf

