Đánh giá hiệu quả lâm sàng trên bệnh nhân viêm mũi dị ứng do dị nguyên D.pteronyssinus lứa tuổi 6-14 tuổi được điều trị bằng phương pháp miễn dịch đặc hiệu đường dưới lưỡi

Bệnh viêm mũi dị ứng (VMDƯ) thường bắt đầu ngay

từ khi còn nhỏ tuổi và xuất hiện các triệu chứng cụ thể

liên quan đến tình trạng này ở trẻ trước tuổi đến trường

cũng như thời kỳ thiếu niên. Những nghiên cứu về dịch tễ

học trong ba thập niên cuối cho thấy tỷ lệ VMDƯ ở lứa

tuổi học đường 6-14 tuổi thường chiếm tỷ lệ 10-30%, ở

Việt Nam tỷ lệ này khoảng 10-20%. Phương pháp nghiên

cứu: nghiên cứu can thiệp theo dõi dọc, tự đối chứng cho

51 bệnh nhân lứa tuổi 6-14 tuổi được xác định là VMDƯ

do dị nguyên D.pteronyssinus được điều trị miễn dịch đặc

hiệu (MDĐH) đường dưới lưỡi. Kết quả: sau 24 tháng các

triệu chứng lâm sàng: cơ năng và thực thể đều được cải

thiện rõ rệt, bệnh nhân không hắt hơi: 49,02%, chảy mũi

41,18% , nghẹt mũi 45,10%. Hiệu quả điều trị chung mức

độ khá-tốt đạt 92,16%. Kết luận: MDĐH đường dưới lưỡi

là phương pháp điều trị đặc hiệu, an toàn, dễ điều trị, đặc

biệt đối với trẻ em lứa tuổi học đường 6-14 tuổi.

pdf 4 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá hiệu quả lâm sàng trên bệnh nhân viêm mũi dị ứng do dị nguyên D.pteronyssinus lứa tuổi 6-14 tuổi được điều trị bằng phương pháp miễn dịch đặc hiệu đường dưới lưỡi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hiệu quả lâm sàng trên bệnh nhân viêm mũi dị ứng do dị nguyên D.pteronyssinus lứa tuổi 6-14 tuổi được điều trị bằng phương pháp miễn dịch đặc hiệu đường dưới lưỡi

Đánh giá hiệu quả lâm sàng trên bệnh nhân viêm mũi dị ứng do dị nguyên D.pteronyssinus lứa tuổi 6-14 tuổi được điều trị bằng phương pháp miễn dịch đặc hiệu đường dưới lưỡi
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn 45
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÓM TẮT:
Bệnh viêm mũi dị ứng (VMDƯ) thường bắt đầu ngay 
từ khi còn nhỏ tuổi và xuất hiện các triệu chứng cụ thể 
liên quan đến tình trạng này ở trẻ trước tuổi đến trường 
cũng như thời kỳ thiếu niên. Những nghiên cứu về dịch tễ 
học trong ba thập niên cuối cho thấy tỷ lệ VMDƯ ở lứa 
tuổi học đường 6-14 tuổi thường chiếm tỷ lệ 10-30%, ở 
Việt Nam tỷ lệ này khoảng 10-20%. Phương pháp nghiên 
cứu: nghiên cứu can thiệp theo dõi dọc, tự đối chứng cho 
51 bệnh nhân lứa tuổi 6-14 tuổi được xác định là VMDƯ 
do dị nguyên D.pteronyssinus được điều trị miễn dịch đặc 
hiệu (MDĐH) đường dưới lưỡi. Kết quả: sau 24 tháng các 
triệu chứng lâm sàng: cơ năng và thực thể đều được cải 
thiện rõ rệt, bệnh nhân không hắt hơi: 49,02%, chảy mũi 
41,18% , nghẹt mũi 45,10%. Hiệu quả điều trị chung mức 
độ khá-tốt đạt 92,16%. Kết luận: MDĐH đường dưới lưỡi 
là phương pháp điều trị đặc hiệu, an toàn, dễ điều trị, đặc 
biệt đối với trẻ em lứa tuổi học đường 6-14 tuổi.
Từ khóa: Viêm mũi dị ứng, D.pteronyssinus, miễn 
dịch đặc hiệu đường dưới lưỡi
SUMMARY
Allergic rhinitis (AR) usually begins in childhood 
and the emergence of specific symptoms related to 
AR in pre-school children as well as teens period. The 
epidemiological studies in the three recent decades, the 
percentage of AR in school age 6-14 is 10-30 %, the rate is 
about 10-20 % in Vietnam. Patients and method: the auto 
controlled descriptive follow-up study on 45 patients age 
6-14 years old with allergic rhinitis by D.pteronyssinus. 
Patients are treated by specific sublingual immunotherapy 
(SLIT). Results: After 24 months of treatment, the clinical 
symptoms were markedly improved: there is significant 
progress for the symptoms of AR: Patients have no 
sneezing 49,02 %, rhinorrhea 41,18 %, blocked nose 45.10 
%. The overall good treatment rate is 92,16%. Conclusion: 
sublingual immunotherapy is specific treatment, safety 
and ease, especially for school children ages 6-14.
Keywords: Allergic rhinitis, D.pteronyssinus, 
sublingual immunotherapy.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Viêm mũi dị ứng (VMDƯ) là một bệnh rất tường gặp, 
phần lớn do mẫn tiếp xúc với các dị nguyên kéo dài với 
số lượng lớn và đây được coi yếu tố bệnh nguyên.(1). Các 
dị nguyên thường gặp rất đa dạng trong đó mạt bụi nhà D. 
pteronyssinus , các nghiên cứu đã chỉ ra tỷ lệ VMDƯ có 
xu hướng ngày càng gia tăng đặc biệt ở lứa tuổi học đường 
dao động từ 10 đến 20%.
Triệu chứng của VMDƯ thường là nghẹt mũi, hắt hơi, 
sổ mũi, ngứa mũi, ngứa/đau/đỏ mắt và chảy nước mắt. 
Bệnh nhân cũng khó chịu khi có thêm các triệu chứng 
như ngứa rất họng, nặng mặt hoặc đau đầu, chảy mũi. 
Không những thế bệnh nhân có khi còn phải trải qua 
những cơn khò khè, nhiễu loạn giấc ngủ hoặc mệt mỏi. 
Việc điều trị VMDƯ có thể làm giảm được các triệu 
chứng dị ứng, làm tăng chất lượng cuộc sống và có thể 
làm giảm số lượng người mắc bệnh hoặc mức độ nặng 
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ LÂM SÀNG TRÊN BỆNH NHÂN VIÊM 
MŨI DỊ ỨNG DO DỊ NGUYÊN D.PTERONYSSINUS LỨA TUỔI 
6-14 TUỔI ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ BẰNG PHƯƠNG PHÁP MIỄN DỊCH 
ĐẶC HIỆU ĐƯỜNG DƯỚI LƯỠI
Trần Thái Sơn1, Vũ Minh Thục2, Lương Xuân Tuyến3, Phạm Văn Thức4,
Nguyễn Quang Hùng5, Nguyễn Thị Vinh Hà6
Ngày nhận bài: 04/08/2017 Ngày phản biện: 11/08/2017 Ngày duyệt đăng: 25/08/2017
1. Bệnh viện Nhi TW
2. Bệnh viện Tai Mũi Họng TW
3. Viện Y học Biển Hải Phòng
4. Bệnh viện Đại học Y Hải Phòng
5. Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp Hải Phòng
6. Bệnh viện ĐK Tâm Anh 
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn46
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
của các chứng rối loạn đồng phát như bệnh hen phế quản, 
bệnh rhino-sinusitis, bệnh giảm chức năng vòi nhĩ, bệnh 
viêm tại giữa, các bệnh liên quan dị ứng, mất ngủ và có 
thể cải thiện chức năng sinh lý... Ngày nay chiến lược điều 
trị viêm mũi dị ứng và hen phụ thuộc vào 4 nguyên lý cơ 
bản là tránh tiếp xúc với dị nguyên, điều trị thuốc, điều trị 
miễn dịch đặc hiệu ( MDĐH) và tuyên truyền giáo dục 
cho cộng đồng ( 3) .
Tất cả các thuốc điều trị dị ứng hiện nay chỉ hướng tới các 
triệu chứng của dị ứng mà không tác động đến những nguyên 
nhân gây ra hoặc ảnh hưởng đến xu hướng phát triển tự nhiên 
ngày càng xấu đi của bệnh. Theo các chuyên gia của Tổ chức 
Y tế thế giới (WHO),điều trị MDĐH là “phương pháp điều 
trị duy nhất làm thay đổi sự tiến triển tự nhiên của bệnh dị 
ứng”. Điều trị MDĐH bằng con đường dưới lưỡi sẽ đơn 
giản hóa việc đưa vào cơ thể một lượng dị nguyên hiệu quả 
đảm bảo an toàn, dễ sử dụng, trẻ em dễ tiếp nhận điều trị. Vì 
vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu: 
Đánh giá hiệu quả lâm sàng của MDĐH đường dưới 
lưỡi với dị nguyên D.pt ở bệnh nhân VMDƯ lứa tuổi 
6-14 tuổi. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm 51 bệnh nhân được chẩn đoán xác định là VMDƯ 
do MBN điều trị bằng MDĐH đường dưới lưỡi theo dõi 
trước và sau điều trị 24 tháng 
 Địa điểm thực hiện: Tại Viện Y học Biển Hải Phòng 
Thời gian từ 01/2011- 11/2013
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp theo 
dõi dọc, tự đối chứng.
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu.
a) Phương pháp điều trị MDĐH
- Tiến hành tại Viện Y học Biển Hải Phòng.
- Dị nguyên D.pt do phòng Miễn dịch - Dị nguyên, 
Bệnh viện Tai mũi họng Trung ương điều chế, nồng độ 10 
IR/ml, 100 IR/ml và 300 IR/ml.
* Kỹ thuật tiến hành: Theo quy trình điều trị của 
Bousquet:
Thì bắt đầu nhanh: Thuốc sử dụng duy nhất 1 lần vào 
buổi sáng lúc đói. Bơm trực tiếp vào dưới lưỡi và để yên 
trong vòng 2 phút trước khi nuốt. Thuốc được sử dụng 
theo kiểu tăng liều hàng ngày cho đến khi đạt được liều 
duy trì. Thời gian thường kéo dài 1 tháng.
Thì duy trì: Liều duy trì được sử dụng. Đây là nồng 
độ đã được các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng có đối 
chứng xác định. Bệnh nhân được theo dõi và ghi chép tình 
trạng diễn biến bệnh và làm các xét nghiêm miễn dịch ở 
các thời điểm trước điều trị và sau điều trị 24 tháng.
b) Đánh giá hiệu quả về lâm sàng: Sự thay đổi triệu 
chứng cơ năng dựa vào hỏi bệnh trực tiếp, sự thay đổi 
triệu chứng thực thể qua thăm khám bằng nội soi. Tuỳ vào 
mức độ thay đổi mà chúng tôi cho điểm và đánh giá hiệu 
quả là tốt, khá, trung bình hay kém.
+ Các triệu chứng cơ năng: Gồm 4 triệu chứng, ngứa 
mũi, hắt hơi, chảy mũi và ngạt mũi ( chia 4 mức độ theo 
thang phân loại quốc tế TNSS, Total Nasal Symptoms 
Score, mà nhiều nhà tai mũi họng trong và ngoài nước 
vẫn thường áp dụng): Nặng liên tục, thành dòng: Trung 
bình: Từng lúc, Nhẹ: Ít khi, không: Không có biểu hiện.
+ Các triệu chứng thực thể (được chia thành 3 mức độ):
- Trạng thái niêm mạc mũi: Phù nề nhiều, xuất tiết: 
Phù nề nhẹ và Bình thường
- Tình trạng cuốn dưới:
Quá phát nhiều: không hoặc ít đáp ứng với thuốc co 
mạch; Quá phát nhẹ, còn đáp ứng với thuốc co mạch: 
Bình thường.
2.3. Xử lý số liệu: Số liệu thu được trong quá trình 
nghiên cứu được xử lý bằng chương trình SPSS 15.0.
III. KẾT QUẢN NGHIÊN CỨU
3.1. Các triệu chứng cơ năng
Bảng 1. Mức độ thay đổi các triệu chứng cơ năng (%)
T,C cơ năng
Mức độ
Ngứa mũi Hắt hơi Chảy mũi Ngạt mũi
Trước 
ĐT
Sau ĐT Trước ĐT Sau ĐT
Trước 
ĐT
Sau ĐT
Trước 
ĐT
Sau ĐT
Nặng 23,53 0 21,57 0 29,41 0 17,65 0
Trung bình 47,06 13,73 47,06 13,73 43,14 11,76 43,14 3,92
Nhẹ 29,41 39,22 31,37 37,25 27,45 47,06 25,49 50,98
Không 0 47,06 0 49,02 0 41,18 13,73 45,10
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn 47
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Các triệu chứng cơ năng đều giảm ở cả mức độ và số 
trường hợp. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01. 
3.2. Các triệu chứng thực thể
3.2.1. Tình trạng niêm mạc mũi
Bảng 2. Mức độ thay đổi của niêm mạc mũi
Mức độ Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Kém 3 5,88
Khá 37 72,55
Tốt 11 21,57
Tổng 51 100
Sau 24 tháng điều trị tình trạng niêm mạc mũi Hiệu quả 
điều trị niêm mạc mũi được cải thiện lên tới 94,12%, trong 
đó đa số là mức độ khá (giảm 1 bậc và hết hẳn) (72,55%).
3.2.2. Tình trạng cuốn mũi dưới
Bảng 3. Mức độ thay đổi của tình trạng cuốn dưới
Mức độ Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Kém 10 19,61
Khá 37 72,55
Tốt 4 7,84
Tổng 51 100
Sau điều trị tình trạng cuốn mũi dưới hầu hết thay đổi 
ở mức độ tốt và khá với 80,39%, trong đó mức độ khá 
72,55%, tốt chiếm 7,84% và mức độ kém chỉ đạt 19,61%
3.3. Đánh giá chung hiệu quả lâm sàng sau điều trị 
MDĐH 
Bảng 4. Hiệu quả lâm sàng sau điều trị MDĐH
 Thời điểm
 Mức độ
Sau điều trị
Số lượng ( n ) Tỷ lệ %
Trung bình 4 7,84
Khá 23 45,10
Tốt 24 47,06
Tổng 51 100
- 92,16 % số bệnh nhân có hiệu quả tốt và khá. 
- Còn 7,84 % số bệnh nhân sau điều trị mức độ thay 
đổi thấp, chủ yếu là dấu hiệu ngạt mũi liên tục và tình 
trạng cuốn mũi dưới không co hồi khi đặt thuốc co mạch. 
IV. BÀN LUẬN
4.1. Mức độ cải thiện các triệu chứng cơ năng. 
Phân tích tiền sử bệnh là căn cứ để phân biệt đây là một 
VMDƯ thực sự hay chỉ là đợt cấp của viêm mũi do lạnh. 
Triệu chứng điển hình của VMDƯ quanh năm là tắc ngạt 
mũi, các triệu chứng hắt hơi thành tràng, chảy mũi và ngứa 
mũi đi kèm theo nhưng không nổi trội như trong VMDƯ 
theo mùa. VMDƯ quanh năm nhất thiết phải có từ hai trong 
số triệu chứng trở lên (chứng hắt hơi, ngứa mũi, chảy mũi, 
ngạt mũi), biểu hiện hơn một giờ mỗi ngày ngoài đợt nhiễm 
vi rút. Nghiên cứu của Vũ Thị Minh Thục, Phạm Văn Thức 
(5,6) thì 100% đều có tam chứng hắt hơi, chảy mũi, ngạt mũi.
Triệu chứng ngứa mũi: Nghiên cứu của chúng tôi cho 
thấy trước điều trị 100% bệnh nhân có biểu hiện ngứa mũi; 
đa số bệnh nhân chiếm 70,59%. có triệu chứng ngứa mũi 
ở mức độ trung bình và nặng. Tuy nhiên sau điều trị, các 
bệnh nhân có triệu chứng ngứa mũi ở mức độ trung bình 
và nặng đều giảm, mức độ nặng không còn bệnh nhân 
nào, mức nhẹ và trung bình chiếm 52,94 %. Đặc biệt là có 
47,06% số BN không còn biểu hiện ngứa mũi khi tiếp xúc 
với DN D.pte. Như vậy, sau điều trị triệu chứng ngứa mũi 
ở nhóm BN được điều trị có sự cải thiện rõ rệt về số lượng 
cũng như mức độ ngứa mũi. Sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê (p<0,01). Kết quả nghiên cứu chúng tôi tương đương 
nghiên cứu của Nguyễn Nhật Linh (3)
Vũ Thị Minh Thục, Phạm Văn Thức và CS (5,6) nghiên 
cứu trên bệnh nhân viêm mũi dị ứng do dị nguyên lông 
vũ thấy mức độ ngứa mũi nặng và trung bình trước điều 
trị 89,04 %; sau 24 tháng điều trị chỉ còn ở 49,84 % và có 
20,93% số BN không còn biểu hiện ngứa mũi.
Triệu chứng hắt hơi: Trước điều trị, 100% số bệnh 
nhân có các triệu chứng hắt hơi ở các mức độ khác nhau, 
trong đó đa số bệnh nhân có triệu chứng hắt hơi ở mức độ 
trung bình, chiếm 47,06%. 
Sau điều trị, số bệnh nhân bị hắt hơi giảm còn 50,98%, 
trong đó mức độ nặng không còn bệnh nhân nào. Chúng tôi 
cũng nhận thấy trong từng bệnh nhân cụ thể có sự thay đổi 
rất rõ về mức độ hắt hơi ở nhóm điều trị bằng MDĐH, trong 
đó các bệnh nhân sau điều trị chủ yếu là giảm 2 bậc về mức 
độ hắt hơi, chiếm 86,27%. Kết quả này phù hợp với nghiên 
cứu của Nguyễn Nhật Linh (3) với tỷ lệ giảm triệu chứng 
hắt hơi sau điều trị MDĐH với D.pte là 81 - 85%. 
Triệu chứng chảy mũi: Trước điều trị, 100% các bệnh 
nhân có triệu chứng chảy mũi chủ yếu ở mức độ trung bình 
và nặng chiếm tỷ lệ 29,41% trong đó mức độ chảy mũi 
trung bình gặp cao nhất 43,14%. Sau điều trị, có 41,18 % 
số bệnh nhân không còn chảy mũi, mức độ chảy mũi nặng 
không còn bệnh nhân nào. Phân tích từng ca cho thấy mức 
độ giảm của triệu chứng chảy mũi chúng tôi thấy đa số là 
giảm 2 bậc chảy mũi là ở mức độ trung bình và không có 
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn48
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
bệnh nhân nào chảy mũi tăng lên.
Như vậy sau điều trị MDĐH đường dưới lưỡi làm giảm 
tình trạng viêm bởi vậy giảm sự tiết dịch biểu hiện bằng tỷ 
lệ giảm triệu chứng chảy mũi ở BN cả về số trường hợp 
cũng như mức độ chảy mũi. Kết quả nghiên cứu của chúng 
tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của một số tác giả trong và 
ngoài nước Vũ Minh Thục
Triệu chứng ngạt mũi: Trước điều trị, có 17,65% ngạt 
mũi mức độ nặng, có 43,14 % số bệnh nhân ngạt mũi ở mức 
độ trung bình. Số bệnh nhân có triệu chứng ở mức độ nhẹ 
và không ngạt mũi là 68,63%.
Sau điều trị, mức độ nhẹ và không ngạt mũi tăng lên là 
96,08%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với trước điều 
trị (p<0,01). Nghiên cứu đối chiếu trên từng trường hợp, 
chúng tôi thấy mức độ ngạt mũi giảm 1 bậc chiếm tỷ lệ cao 
nhất. Kết quả này phù hợp với Nguyễn Nhật Linh ( 3). Một 
số tác giả nước ngoài khác (8,9 ) cũng đưa ra những kết quả 
tương tự sau điều trị MDĐH đường dưới lưỡi.
Như vậy, sau điều trị hầu hết các triệu chứng cơ năng 
đều thuyên giảm đặc biệt là các dấu hiệu ngứa mũi, hắt hơi 
và chảy mũi. Kết quả này của chúng tôi phù hợp với hầu 
hết các nghiên cứu của các tác giả khác khi nghiên cứu 
VMDƯ do các loại dị nguyên. Điều này cho thấy việc điều 
trị MDĐH bằng DN D.pte cũng cho kết quả khả quan.
4.2. Mức độ cải thiện các triệu chứng thực thể. 
Tình trạng niêm mạc mũi: Kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi cho thấy trước điều trị tất cả các bệnh nhân đều 
có tình trạng niêm mạc phù nề ở các mức độ khác nhau chủ 
yếu là ở mức độ phù nề nhẹ, nhợt màu, đặc biệt không có 
bệnh nhân nào có tình trạng niêm mạc mũi bình thường. 
Sau điều trị có kết quả cho tháy 21,57% cho kết quả điều 
trị tốt, 72,55% cho kết quả điều trị khá, và chỉ còn 5,88% 
cho kết quả điều trị kém, không có trường hợp nào kết quả 
mức trung bình.
Kết quả này của chúng tôi cao hơn so với kết quả của 
các tác giả (3,6) khi điều trị miễn dịch đặc hiệu đường tiêm 
dưới da bằng dị nguyên bụi bông, cũng công bố các kết quả 
tương tự. 
Tình trạng cuốn mũi dưới: 
Sau điều trị tình trạng cuốn mũi dưới hầu hết thay đổi 
ở mức độ tốt và khá với 80,39%, trong đó mức độ khá 
72,55%, tốt chiếm 7,84% và mức độ kém chỉ đạt 19,61%. 
Từ kết quả nghiên cứu thu được chúng tôi cho rằng sự quá 
phát, thoái hoá của niêm mạc cuốn mũi không nằm trong 
bệnh cảnh của phản ứng dị ứng tại mũi mà được coi là hậu 
quả chung của một quá trình bệnh lý kéo dài tại đây. Do sự 
thiếu hiểu biết về thuốc co mạch vì thế bệnh nhân thường 
tự nhỏ vào mũi các loại thuốc có tác dụng co mạch trong 
một thời gian dài mà không hề có sự hướng dẫn của bác sĩ, 
đã gây ra sự tổn thương niêm mạc mũi rất khó hồi phục, 
còn gọi là viêm mũi do thuốc. Nhận định này của chúng tôi 
cũng phù hợp với các tác giả Nguyễn Nhật Linh, Vũ Trung 
Kiên , Vũ Minh Thục (2,3,4,6). Kết qua đánh giá tình trạng 
cuốn mũi sau điều trị của chúng tôi cho thấy 3 trong số 
bệnh nhân, có cuốn mũi dưới quá phát nặng không đáp ứng 
với thuốc co mạch cũng chính là 3 bệnh nhân ngạt mũi 
nặng không thể cải thiện sau điều trị. Các trường hợp này 
nên chăng đến một giai đoạn nào đó phải áp dụng chỉnh 
hình cuốn dưới để đảm bảo sự thông khí qua mũi giúp giảm 
bớt nguy cơ bệnh mũi xoang cúng như các bệnh tai mũi 
họng khác và viêm nhiễm đường hô hấp dưới.
4.3. Hiệu quả chung lâm sàng sau điều trị
Các kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các triệu 
chứng chung về lâm sàng của phương pháp điều trị bằng 
miễ dịch đặc hiệu đường dưới lưỡi với dị nguyên bụi nhà 
D.pteronyssinus đã mang lại các kết quả tốt cụ thể. Có tới 
92,16 % số bệnh nhân có hiệu quả tốt và khá, trong đó số 
bệnh nhân sau điều trị ở mức độ thay đổi thấp còn 7,84 
% với biểu hiệu chủ yếu ngạt mũi liên tục và tình trạng 
cuốn mũi dưới không co hồi khi đặt thuốc co mạch. Đặc 
biệt trong số bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi không có 
trường hợp nào xảy ra tai biến trong quá trình điều trị. Kết 
quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu của tác Nguyễn 
Trọng Tài (4) và cao hơn kết quả của các tác Phạm Văn 
Thức ( 5). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy 
điều trị bằng MDĐH bằng đường dưới lưỡi mang lại sự an 
toàn cũng như hiệu quả điều trị. 
V. KẾT LUẬN
Sau 24 tháng điều trị MDDH bằng đường dưới lưỡi 
kết quả cho thấy các triệu chứng lâm sàng đều được cải 
thiện rõ rệt:
- Các triệu chứng cơ năng (hắt hơi, chảy nước mũi, 
ngạt mũi, ngứa mũi) giảm nhiều cả về mức độ và số 
trường hợp so với trước điều trị.
- Tình trạng niêm mạc mũi cho kết quả điều trị khá và 
tốt chiếm 94,12%
- Tình trạng cuốn mũi dưới ít thay đổi sau điều trị.
- Hiệu quả lâm sàng tốt và khá sau điều trị chiếm tỷ lệ 
cao: 80,39%.
1. Nguyễn Năng An và cộng sự (1999), Viêm mũi dị ứng, tình hình, nguyên nhân, ảnh hưởng môi trường và những 
biện pháp phòng chống tại cộng đồng. Đề tài thuộc chương trình 01.08. Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_hieu_qua_lam_sang_tren_benh_nhan_viem_mui_di_ung_do.pdf