Đánh giá hiệu quả lâm sàng trên bệnh nhân viêm mũi dị ứng do dị nguyên D.pteronyssinus lứa tuổi 6-14 tuổi được điều trị bằng phương pháp miễn dịch đặc hiệu đường dưới lưỡi
Bệnh viêm mũi dị ứng (VMDƯ) thường bắt đầu ngay
từ khi còn nhỏ tuổi và xuất hiện các triệu chứng cụ thể
liên quan đến tình trạng này ở trẻ trước tuổi đến trường
cũng như thời kỳ thiếu niên. Những nghiên cứu về dịch tễ
học trong ba thập niên cuối cho thấy tỷ lệ VMDƯ ở lứa
tuổi học đường 6-14 tuổi thường chiếm tỷ lệ 10-30%, ở
Việt Nam tỷ lệ này khoảng 10-20%. Phương pháp nghiên
cứu: nghiên cứu can thiệp theo dõi dọc, tự đối chứng cho
51 bệnh nhân lứa tuổi 6-14 tuổi được xác định là VMDƯ
do dị nguyên D.pteronyssinus được điều trị miễn dịch đặc
hiệu (MDĐH) đường dưới lưỡi. Kết quả: sau 24 tháng các
triệu chứng lâm sàng: cơ năng và thực thể đều được cải
thiện rõ rệt, bệnh nhân không hắt hơi: 49,02%, chảy mũi
41,18% , nghẹt mũi 45,10%. Hiệu quả điều trị chung mức
độ khá-tốt đạt 92,16%. Kết luận: MDĐH đường dưới lưỡi
là phương pháp điều trị đặc hiệu, an toàn, dễ điều trị, đặc
biệt đối với trẻ em lứa tuổi học đường 6-14 tuổi.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hiệu quả lâm sàng trên bệnh nhân viêm mũi dị ứng do dị nguyên D.pteronyssinus lứa tuổi 6-14 tuổi được điều trị bằng phương pháp miễn dịch đặc hiệu đường dưới lưỡi
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017 Website: yhoccongdong.vn 45 V I N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TÓM TẮT: Bệnh viêm mũi dị ứng (VMDƯ) thường bắt đầu ngay từ khi còn nhỏ tuổi và xuất hiện các triệu chứng cụ thể liên quan đến tình trạng này ở trẻ trước tuổi đến trường cũng như thời kỳ thiếu niên. Những nghiên cứu về dịch tễ học trong ba thập niên cuối cho thấy tỷ lệ VMDƯ ở lứa tuổi học đường 6-14 tuổi thường chiếm tỷ lệ 10-30%, ở Việt Nam tỷ lệ này khoảng 10-20%. Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu can thiệp theo dõi dọc, tự đối chứng cho 51 bệnh nhân lứa tuổi 6-14 tuổi được xác định là VMDƯ do dị nguyên D.pteronyssinus được điều trị miễn dịch đặc hiệu (MDĐH) đường dưới lưỡi. Kết quả: sau 24 tháng các triệu chứng lâm sàng: cơ năng và thực thể đều được cải thiện rõ rệt, bệnh nhân không hắt hơi: 49,02%, chảy mũi 41,18% , nghẹt mũi 45,10%. Hiệu quả điều trị chung mức độ khá-tốt đạt 92,16%. Kết luận: MDĐH đường dưới lưỡi là phương pháp điều trị đặc hiệu, an toàn, dễ điều trị, đặc biệt đối với trẻ em lứa tuổi học đường 6-14 tuổi. Từ khóa: Viêm mũi dị ứng, D.pteronyssinus, miễn dịch đặc hiệu đường dưới lưỡi SUMMARY Allergic rhinitis (AR) usually begins in childhood and the emergence of specific symptoms related to AR in pre-school children as well as teens period. The epidemiological studies in the three recent decades, the percentage of AR in school age 6-14 is 10-30 %, the rate is about 10-20 % in Vietnam. Patients and method: the auto controlled descriptive follow-up study on 45 patients age 6-14 years old with allergic rhinitis by D.pteronyssinus. Patients are treated by specific sublingual immunotherapy (SLIT). Results: After 24 months of treatment, the clinical symptoms were markedly improved: there is significant progress for the symptoms of AR: Patients have no sneezing 49,02 %, rhinorrhea 41,18 %, blocked nose 45.10 %. The overall good treatment rate is 92,16%. Conclusion: sublingual immunotherapy is specific treatment, safety and ease, especially for school children ages 6-14. Keywords: Allergic rhinitis, D.pteronyssinus, sublingual immunotherapy. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Viêm mũi dị ứng (VMDƯ) là một bệnh rất tường gặp, phần lớn do mẫn tiếp xúc với các dị nguyên kéo dài với số lượng lớn và đây được coi yếu tố bệnh nguyên.(1). Các dị nguyên thường gặp rất đa dạng trong đó mạt bụi nhà D. pteronyssinus , các nghiên cứu đã chỉ ra tỷ lệ VMDƯ có xu hướng ngày càng gia tăng đặc biệt ở lứa tuổi học đường dao động từ 10 đến 20%. Triệu chứng của VMDƯ thường là nghẹt mũi, hắt hơi, sổ mũi, ngứa mũi, ngứa/đau/đỏ mắt và chảy nước mắt. Bệnh nhân cũng khó chịu khi có thêm các triệu chứng như ngứa rất họng, nặng mặt hoặc đau đầu, chảy mũi. Không những thế bệnh nhân có khi còn phải trải qua những cơn khò khè, nhiễu loạn giấc ngủ hoặc mệt mỏi. Việc điều trị VMDƯ có thể làm giảm được các triệu chứng dị ứng, làm tăng chất lượng cuộc sống và có thể làm giảm số lượng người mắc bệnh hoặc mức độ nặng ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ LÂM SÀNG TRÊN BỆNH NHÂN VIÊM MŨI DỊ ỨNG DO DỊ NGUYÊN D.PTERONYSSINUS LỨA TUỔI 6-14 TUỔI ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ BẰNG PHƯƠNG PHÁP MIỄN DỊCH ĐẶC HIỆU ĐƯỜNG DƯỚI LƯỠI Trần Thái Sơn1, Vũ Minh Thục2, Lương Xuân Tuyến3, Phạm Văn Thức4, Nguyễn Quang Hùng5, Nguyễn Thị Vinh Hà6 Ngày nhận bài: 04/08/2017 Ngày phản biện: 11/08/2017 Ngày duyệt đăng: 25/08/2017 1. Bệnh viện Nhi TW 2. Bệnh viện Tai Mũi Họng TW 3. Viện Y học Biển Hải Phòng 4. Bệnh viện Đại học Y Hải Phòng 5. Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp Hải Phòng 6. Bệnh viện ĐK Tâm Anh SỐ 41 - Tháng 11+12/2017 Website: yhoccongdong.vn46 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE của các chứng rối loạn đồng phát như bệnh hen phế quản, bệnh rhino-sinusitis, bệnh giảm chức năng vòi nhĩ, bệnh viêm tại giữa, các bệnh liên quan dị ứng, mất ngủ và có thể cải thiện chức năng sinh lý... Ngày nay chiến lược điều trị viêm mũi dị ứng và hen phụ thuộc vào 4 nguyên lý cơ bản là tránh tiếp xúc với dị nguyên, điều trị thuốc, điều trị miễn dịch đặc hiệu ( MDĐH) và tuyên truyền giáo dục cho cộng đồng ( 3) . Tất cả các thuốc điều trị dị ứng hiện nay chỉ hướng tới các triệu chứng của dị ứng mà không tác động đến những nguyên nhân gây ra hoặc ảnh hưởng đến xu hướng phát triển tự nhiên ngày càng xấu đi của bệnh. Theo các chuyên gia của Tổ chức Y tế thế giới (WHO),điều trị MDĐH là “phương pháp điều trị duy nhất làm thay đổi sự tiến triển tự nhiên của bệnh dị ứng”. Điều trị MDĐH bằng con đường dưới lưỡi sẽ đơn giản hóa việc đưa vào cơ thể một lượng dị nguyên hiệu quả đảm bảo an toàn, dễ sử dụng, trẻ em dễ tiếp nhận điều trị. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu: Đánh giá hiệu quả lâm sàng của MDĐH đường dưới lưỡi với dị nguyên D.pt ở bệnh nhân VMDƯ lứa tuổi 6-14 tuổi. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Gồm 51 bệnh nhân được chẩn đoán xác định là VMDƯ do MBN điều trị bằng MDĐH đường dưới lưỡi theo dõi trước và sau điều trị 24 tháng Địa điểm thực hiện: Tại Viện Y học Biển Hải Phòng Thời gian từ 01/2011- 11/2013 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp theo dõi dọc, tự đối chứng. 2.2.2. Phương pháp nghiên cứu. a) Phương pháp điều trị MDĐH - Tiến hành tại Viện Y học Biển Hải Phòng. - Dị nguyên D.pt do phòng Miễn dịch - Dị nguyên, Bệnh viện Tai mũi họng Trung ương điều chế, nồng độ 10 IR/ml, 100 IR/ml và 300 IR/ml. * Kỹ thuật tiến hành: Theo quy trình điều trị của Bousquet: Thì bắt đầu nhanh: Thuốc sử dụng duy nhất 1 lần vào buổi sáng lúc đói. Bơm trực tiếp vào dưới lưỡi và để yên trong vòng 2 phút trước khi nuốt. Thuốc được sử dụng theo kiểu tăng liều hàng ngày cho đến khi đạt được liều duy trì. Thời gian thường kéo dài 1 tháng. Thì duy trì: Liều duy trì được sử dụng. Đây là nồng độ đã được các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng có đối chứng xác định. Bệnh nhân được theo dõi và ghi chép tình trạng diễn biến bệnh và làm các xét nghiêm miễn dịch ở các thời điểm trước điều trị và sau điều trị 24 tháng. b) Đánh giá hiệu quả về lâm sàng: Sự thay đổi triệu chứng cơ năng dựa vào hỏi bệnh trực tiếp, sự thay đổi triệu chứng thực thể qua thăm khám bằng nội soi. Tuỳ vào mức độ thay đổi mà chúng tôi cho điểm và đánh giá hiệu quả là tốt, khá, trung bình hay kém. + Các triệu chứng cơ năng: Gồm 4 triệu chứng, ngứa mũi, hắt hơi, chảy mũi và ngạt mũi ( chia 4 mức độ theo thang phân loại quốc tế TNSS, Total Nasal Symptoms Score, mà nhiều nhà tai mũi họng trong và ngoài nước vẫn thường áp dụng): Nặng liên tục, thành dòng: Trung bình: Từng lúc, Nhẹ: Ít khi, không: Không có biểu hiện. + Các triệu chứng thực thể (được chia thành 3 mức độ): - Trạng thái niêm mạc mũi: Phù nề nhiều, xuất tiết: Phù nề nhẹ và Bình thường - Tình trạng cuốn dưới: Quá phát nhiều: không hoặc ít đáp ứng với thuốc co mạch; Quá phát nhẹ, còn đáp ứng với thuốc co mạch: Bình thường. 2.3. Xử lý số liệu: Số liệu thu được trong quá trình nghiên cứu được xử lý bằng chương trình SPSS 15.0. III. KẾT QUẢN NGHIÊN CỨU 3.1. Các triệu chứng cơ năng Bảng 1. Mức độ thay đổi các triệu chứng cơ năng (%) T,C cơ năng Mức độ Ngứa mũi Hắt hơi Chảy mũi Ngạt mũi Trước ĐT Sau ĐT Trước ĐT Sau ĐT Trước ĐT Sau ĐT Trước ĐT Sau ĐT Nặng 23,53 0 21,57 0 29,41 0 17,65 0 Trung bình 47,06 13,73 47,06 13,73 43,14 11,76 43,14 3,92 Nhẹ 29,41 39,22 31,37 37,25 27,45 47,06 25,49 50,98 Không 0 47,06 0 49,02 0 41,18 13,73 45,10 SỐ 41 - Tháng 11+12/2017 Website: yhoccongdong.vn 47 V I N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Các triệu chứng cơ năng đều giảm ở cả mức độ và số trường hợp. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01. 3.2. Các triệu chứng thực thể 3.2.1. Tình trạng niêm mạc mũi Bảng 2. Mức độ thay đổi của niêm mạc mũi Mức độ Số bệnh nhân Tỷ lệ % Kém 3 5,88 Khá 37 72,55 Tốt 11 21,57 Tổng 51 100 Sau 24 tháng điều trị tình trạng niêm mạc mũi Hiệu quả điều trị niêm mạc mũi được cải thiện lên tới 94,12%, trong đó đa số là mức độ khá (giảm 1 bậc và hết hẳn) (72,55%). 3.2.2. Tình trạng cuốn mũi dưới Bảng 3. Mức độ thay đổi của tình trạng cuốn dưới Mức độ Số bệnh nhân Tỷ lệ % Kém 10 19,61 Khá 37 72,55 Tốt 4 7,84 Tổng 51 100 Sau điều trị tình trạng cuốn mũi dưới hầu hết thay đổi ở mức độ tốt và khá với 80,39%, trong đó mức độ khá 72,55%, tốt chiếm 7,84% và mức độ kém chỉ đạt 19,61% 3.3. Đánh giá chung hiệu quả lâm sàng sau điều trị MDĐH Bảng 4. Hiệu quả lâm sàng sau điều trị MDĐH Thời điểm Mức độ Sau điều trị Số lượng ( n ) Tỷ lệ % Trung bình 4 7,84 Khá 23 45,10 Tốt 24 47,06 Tổng 51 100 - 92,16 % số bệnh nhân có hiệu quả tốt và khá. - Còn 7,84 % số bệnh nhân sau điều trị mức độ thay đổi thấp, chủ yếu là dấu hiệu ngạt mũi liên tục và tình trạng cuốn mũi dưới không co hồi khi đặt thuốc co mạch. IV. BÀN LUẬN 4.1. Mức độ cải thiện các triệu chứng cơ năng. Phân tích tiền sử bệnh là căn cứ để phân biệt đây là một VMDƯ thực sự hay chỉ là đợt cấp của viêm mũi do lạnh. Triệu chứng điển hình của VMDƯ quanh năm là tắc ngạt mũi, các triệu chứng hắt hơi thành tràng, chảy mũi và ngứa mũi đi kèm theo nhưng không nổi trội như trong VMDƯ theo mùa. VMDƯ quanh năm nhất thiết phải có từ hai trong số triệu chứng trở lên (chứng hắt hơi, ngứa mũi, chảy mũi, ngạt mũi), biểu hiện hơn một giờ mỗi ngày ngoài đợt nhiễm vi rút. Nghiên cứu của Vũ Thị Minh Thục, Phạm Văn Thức (5,6) thì 100% đều có tam chứng hắt hơi, chảy mũi, ngạt mũi. Triệu chứng ngứa mũi: Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trước điều trị 100% bệnh nhân có biểu hiện ngứa mũi; đa số bệnh nhân chiếm 70,59%. có triệu chứng ngứa mũi ở mức độ trung bình và nặng. Tuy nhiên sau điều trị, các bệnh nhân có triệu chứng ngứa mũi ở mức độ trung bình và nặng đều giảm, mức độ nặng không còn bệnh nhân nào, mức nhẹ và trung bình chiếm 52,94 %. Đặc biệt là có 47,06% số BN không còn biểu hiện ngứa mũi khi tiếp xúc với DN D.pte. Như vậy, sau điều trị triệu chứng ngứa mũi ở nhóm BN được điều trị có sự cải thiện rõ rệt về số lượng cũng như mức độ ngứa mũi. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,01). Kết quả nghiên cứu chúng tôi tương đương nghiên cứu của Nguyễn Nhật Linh (3) Vũ Thị Minh Thục, Phạm Văn Thức và CS (5,6) nghiên cứu trên bệnh nhân viêm mũi dị ứng do dị nguyên lông vũ thấy mức độ ngứa mũi nặng và trung bình trước điều trị 89,04 %; sau 24 tháng điều trị chỉ còn ở 49,84 % và có 20,93% số BN không còn biểu hiện ngứa mũi. Triệu chứng hắt hơi: Trước điều trị, 100% số bệnh nhân có các triệu chứng hắt hơi ở các mức độ khác nhau, trong đó đa số bệnh nhân có triệu chứng hắt hơi ở mức độ trung bình, chiếm 47,06%. Sau điều trị, số bệnh nhân bị hắt hơi giảm còn 50,98%, trong đó mức độ nặng không còn bệnh nhân nào. Chúng tôi cũng nhận thấy trong từng bệnh nhân cụ thể có sự thay đổi rất rõ về mức độ hắt hơi ở nhóm điều trị bằng MDĐH, trong đó các bệnh nhân sau điều trị chủ yếu là giảm 2 bậc về mức độ hắt hơi, chiếm 86,27%. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Nhật Linh (3) với tỷ lệ giảm triệu chứng hắt hơi sau điều trị MDĐH với D.pte là 81 - 85%. Triệu chứng chảy mũi: Trước điều trị, 100% các bệnh nhân có triệu chứng chảy mũi chủ yếu ở mức độ trung bình và nặng chiếm tỷ lệ 29,41% trong đó mức độ chảy mũi trung bình gặp cao nhất 43,14%. Sau điều trị, có 41,18 % số bệnh nhân không còn chảy mũi, mức độ chảy mũi nặng không còn bệnh nhân nào. Phân tích từng ca cho thấy mức độ giảm của triệu chứng chảy mũi chúng tôi thấy đa số là giảm 2 bậc chảy mũi là ở mức độ trung bình và không có SỐ 41 - Tháng 11+12/2017 Website: yhoccongdong.vn48 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE bệnh nhân nào chảy mũi tăng lên. Như vậy sau điều trị MDĐH đường dưới lưỡi làm giảm tình trạng viêm bởi vậy giảm sự tiết dịch biểu hiện bằng tỷ lệ giảm triệu chứng chảy mũi ở BN cả về số trường hợp cũng như mức độ chảy mũi. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của một số tác giả trong và ngoài nước Vũ Minh Thục Triệu chứng ngạt mũi: Trước điều trị, có 17,65% ngạt mũi mức độ nặng, có 43,14 % số bệnh nhân ngạt mũi ở mức độ trung bình. Số bệnh nhân có triệu chứng ở mức độ nhẹ và không ngạt mũi là 68,63%. Sau điều trị, mức độ nhẹ và không ngạt mũi tăng lên là 96,08%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị (p<0,01). Nghiên cứu đối chiếu trên từng trường hợp, chúng tôi thấy mức độ ngạt mũi giảm 1 bậc chiếm tỷ lệ cao nhất. Kết quả này phù hợp với Nguyễn Nhật Linh ( 3). Một số tác giả nước ngoài khác (8,9 ) cũng đưa ra những kết quả tương tự sau điều trị MDĐH đường dưới lưỡi. Như vậy, sau điều trị hầu hết các triệu chứng cơ năng đều thuyên giảm đặc biệt là các dấu hiệu ngứa mũi, hắt hơi và chảy mũi. Kết quả này của chúng tôi phù hợp với hầu hết các nghiên cứu của các tác giả khác khi nghiên cứu VMDƯ do các loại dị nguyên. Điều này cho thấy việc điều trị MDĐH bằng DN D.pte cũng cho kết quả khả quan. 4.2. Mức độ cải thiện các triệu chứng thực thể. Tình trạng niêm mạc mũi: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trước điều trị tất cả các bệnh nhân đều có tình trạng niêm mạc phù nề ở các mức độ khác nhau chủ yếu là ở mức độ phù nề nhẹ, nhợt màu, đặc biệt không có bệnh nhân nào có tình trạng niêm mạc mũi bình thường. Sau điều trị có kết quả cho tháy 21,57% cho kết quả điều trị tốt, 72,55% cho kết quả điều trị khá, và chỉ còn 5,88% cho kết quả điều trị kém, không có trường hợp nào kết quả mức trung bình. Kết quả này của chúng tôi cao hơn so với kết quả của các tác giả (3,6) khi điều trị miễn dịch đặc hiệu đường tiêm dưới da bằng dị nguyên bụi bông, cũng công bố các kết quả tương tự. Tình trạng cuốn mũi dưới: Sau điều trị tình trạng cuốn mũi dưới hầu hết thay đổi ở mức độ tốt và khá với 80,39%, trong đó mức độ khá 72,55%, tốt chiếm 7,84% và mức độ kém chỉ đạt 19,61%. Từ kết quả nghiên cứu thu được chúng tôi cho rằng sự quá phát, thoái hoá của niêm mạc cuốn mũi không nằm trong bệnh cảnh của phản ứng dị ứng tại mũi mà được coi là hậu quả chung của một quá trình bệnh lý kéo dài tại đây. Do sự thiếu hiểu biết về thuốc co mạch vì thế bệnh nhân thường tự nhỏ vào mũi các loại thuốc có tác dụng co mạch trong một thời gian dài mà không hề có sự hướng dẫn của bác sĩ, đã gây ra sự tổn thương niêm mạc mũi rất khó hồi phục, còn gọi là viêm mũi do thuốc. Nhận định này của chúng tôi cũng phù hợp với các tác giả Nguyễn Nhật Linh, Vũ Trung Kiên , Vũ Minh Thục (2,3,4,6). Kết qua đánh giá tình trạng cuốn mũi sau điều trị của chúng tôi cho thấy 3 trong số bệnh nhân, có cuốn mũi dưới quá phát nặng không đáp ứng với thuốc co mạch cũng chính là 3 bệnh nhân ngạt mũi nặng không thể cải thiện sau điều trị. Các trường hợp này nên chăng đến một giai đoạn nào đó phải áp dụng chỉnh hình cuốn dưới để đảm bảo sự thông khí qua mũi giúp giảm bớt nguy cơ bệnh mũi xoang cúng như các bệnh tai mũi họng khác và viêm nhiễm đường hô hấp dưới. 4.3. Hiệu quả chung lâm sàng sau điều trị Các kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các triệu chứng chung về lâm sàng của phương pháp điều trị bằng miễ dịch đặc hiệu đường dưới lưỡi với dị nguyên bụi nhà D.pteronyssinus đã mang lại các kết quả tốt cụ thể. Có tới 92,16 % số bệnh nhân có hiệu quả tốt và khá, trong đó số bệnh nhân sau điều trị ở mức độ thay đổi thấp còn 7,84 % với biểu hiệu chủ yếu ngạt mũi liên tục và tình trạng cuốn mũi dưới không co hồi khi đặt thuốc co mạch. Đặc biệt trong số bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi không có trường hợp nào xảy ra tai biến trong quá trình điều trị. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu của tác Nguyễn Trọng Tài (4) và cao hơn kết quả của các tác Phạm Văn Thức ( 5). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy điều trị bằng MDĐH bằng đường dưới lưỡi mang lại sự an toàn cũng như hiệu quả điều trị. V. KẾT LUẬN Sau 24 tháng điều trị MDDH bằng đường dưới lưỡi kết quả cho thấy các triệu chứng lâm sàng đều được cải thiện rõ rệt: - Các triệu chứng cơ năng (hắt hơi, chảy nước mũi, ngạt mũi, ngứa mũi) giảm nhiều cả về mức độ và số trường hợp so với trước điều trị. - Tình trạng niêm mạc mũi cho kết quả điều trị khá và tốt chiếm 94,12% - Tình trạng cuốn mũi dưới ít thay đổi sau điều trị. - Hiệu quả lâm sàng tốt và khá sau điều trị chiếm tỷ lệ cao: 80,39%. 1. Nguyễn Năng An và cộng sự (1999), Viêm mũi dị ứng, tình hình, nguyên nhân, ảnh hưởng môi trường và những biện pháp phòng chống tại cộng đồng. Đề tài thuộc chương trình 01.08. Hà Nội. TÀI LIỆU THAM KHẢO
File đính kèm:
danh_gia_hieu_qua_lam_sang_tren_benh_nhan_viem_mui_di_ung_do.pdf

