Đánh giá hiệu quả của hàm phủ trên implant chịu lực tức thì với kết nối chụp lồng trong điều trị mất răng toàn bộ hàm dưới

Tóm tắt

Mục tiêu: Implant nâng đỡ hàm phủ là một phương pháp điều trị hiệu quả trong mất răng toàn bộ ở hàm

dưới. Tuy nhiên thời gian chịu lực sau khi đặt implant vẫn còn nhiều tranh cãi. Mục tiêu của nghiên cứu này

nhằm đánh giá hiệu quả của hàm phủ chịu lực tức thì trên implant với hệ thống kết nối chụp lồng trong điều

trị mất răng toàn bộ hàm dưới. Phương pháp: Nghiên cứu này được thực hiện trên 22 bệnh nhân mất răng

toàn bộ hàm dưới đến điều trị tại Khoa Kỹ thuật cao, Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương TP. Hồ Chí Minh.

Mỗi bệnh nhân được cấy ghép 4 implant ở giữa 2 lỗ cằm. Kết nối hệ thống chụp lồng Syncone giữa phục hình

và implant được thực hiện và cho chịu lực tức thì. Đánh giá kết quả điều trị gồm: Tỉ lệ thành công, thất bại

của implant và phục hình. Đánh giá tình trạng mô mềm quanh implant và mức tiêu mào xương quanh implant

trên X- quang tại các thời điểm sau phẫu thuật 6 tháng (T6) và 12 tháng (T12). Kết quả: Không có tình trạng

viêm implant tại các thời điểm theo dõi. Tỉ lệ tích hợp xương sau 12 tháng là 100% trong khi tỉ lệ thành công

của phục hình là 91%, tỉ lệ tồn tại của phục hình là 100%. Sau 6 tháng, mức tiêu mào xương quanh implant

là0,07±0,22 mm và sau 12 tháng là 0,12±0,29 mm. Kết luận: Điều trị mất răng toàn bộ hàm dưới bằng hàm

phủ trên implant chịu lực tức thì với hệ thống kết nối chụp lồng Syncone cho thấy tỉ lệ thanh công cao và đem

lại sự hài lòng cho bệnh nhân theo thời gian

pdf 8 trang phuongnguyen 7380
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá hiệu quả của hàm phủ trên implant chịu lực tức thì với kết nối chụp lồng trong điều trị mất răng toàn bộ hàm dưới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hiệu quả của hàm phủ trên implant chịu lực tức thì với kết nối chụp lồng trong điều trị mất răng toàn bộ hàm dưới

Đánh giá hiệu quả của hàm phủ trên implant chịu lực tức thì với kết nối chụp lồng trong điều trị mất răng toàn bộ hàm dưới
34
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 4 - tháng 8/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA HÀM PHỦ TRÊN IMPLANT
 CHỊU LỰC TỨC THÌ VỚI KẾT NỐI CHỤP LỒNG 
TRONG ĐIỀU TRỊ MẤT RĂNG TOÀN BỘ HÀM DƯỚI
 Lê Trung Chánh, Nguyễn Toại
 Bệnh Viện Răng Hàm Mặt Trung ương, thành phố Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Mục tiêu: Implant nâng đỡ hàm phủ là một phương pháp điều trị hiệu quả trong mất răng toàn bộ ở hàm 
dưới. Tuy nhiên thời gian chịu lực sau khi đặt implant vẫn còn nhiều tranh cãi. Mục tiêu của nghiên cứu này 
nhằm đánh giá hiệu quả của hàm phủ chịu lực tức thì trên implant với hệ thống kết nối chụp lồng trong điều 
trị mất răng toàn bộ hàm dưới. Phương pháp: Nghiên cứu này được thực hiện trên 22 bệnh nhân mất răng 
toàn bộ hàm dưới đến điều trị tại Khoa Kỹ thuật cao, Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương TP. Hồ Chí Minh. 
Mỗi bệnh nhân được cấy ghép 4 implant ở giữa 2 lỗ cằm. Kết nối hệ thống chụp lồng Syncone giữa phục hình 
và implant được thực hiện và cho chịu lực tức thì. Đánh giá kết quả điều trị gồm: Tỉ lệ thành công, thất bại 
của implant và phục hình. Đánh giá tình trạng mô mềm quanh implant và mức tiêu mào xương quanh implant 
trên X- quang tại các thời điểm sau phẫu thuật 6 tháng (T6) và 12 tháng (T12). Kết quả: Không có tình trạng 
viêm implant tại các thời điểm theo dõi. Tỉ lệ tích hợp xương sau 12 tháng là 100% trong khi tỉ lệ thành công 
của phục hình là 91%, tỉ lệ tồn tại của phục hình là 100%. Sau 6 tháng, mức tiêu mào xương quanh implant 
là0,07±0,22 mm và sau 12 tháng là 0,12±0,29 mm. Kết luận: Điều trị mất răng toàn bộ hàm dưới bằng hàm 
phủ trên implant chịu lực tức thì với hệ thống kết nối chụp lồng Syncone cho thấy tỉ lệ thanh công cao và đem 
lại sự hài lòng cho bệnh nhân theo thời gian.
Từ khóa: Chịu lực tức thì, hàm phủ, mất răng toàn bộ, kết nối chụp lồng
Abstract
EVALUATE THE EFFECTIVENESS OF IMMEDIATE LOADING 
IMPLANTS WITH OVERDENTURE USING ANKYLOS SYNCONE 
TELESCOPIC COPINGS FOR THE TREATMENT OF EDENTULOUS 
MANDIBLES
Le Trung Chanh, Nguyen Toai
National Hospital of Odonto – Stomatology at Ho Chi Minh city
Objective: Implant – supported overdentures have been an effective method for the treatment of 
edentulous mandibles. However, the loading time after implant placement is still controversial. The purpose 
of the present study was to evaluate the effect of immediate loading implantswith mandibular overdenture 
using Ankylos Syncone telescopic copings for the treatment of edentulous. Materials and methods: This 
study was performed on 22 edentulous mandibular patients visiting Department of High Technique, National 
Hospital of Odonto – Stomatology at Ho Chi Minh city. Each patient received four interforaminal implants. 
Ankylos Syncone copings systems was used to connect prostheses and implant, which then received 
immediate loading. The primary response variables were success and failure rate of implants and prostheses. 
The peri-implant tissue condition and peri-implant crestal bone loss level on radiography were evaluated at 
six months (T6) and twelve months (T12) postsurgery. Results: There is no peri-implantitis at the follow-up 
points. The osseointegration rate after 12 months was 100%, while the success rate and survival rate of 
protheses were 91% and 100% respectively. The peri-implant crestal bone loss on radiography images from 
baseline (T0) to T6 was 0.07 (±0.22) mm and from T0 to T12 was 0.12 (±0.29) mm. Conclusion: Mandibular 
rehabilitation usingimmediate loading implant mandibular overdenture with Ankylos Syncone telescopic has 
shown a high success rate and patient sastisfation over time.
Key words: immediate loading, overdenture, edentulous mandibles telescopic copings,
- Địa chỉ liên hệ: Lê Trung Chánh, email: lechanh312@yahoo.com
- Ngày nhận bài: 17/4/2018; Ngày đồng ý đăng: 3/8/2018; Ngày xuất bản: 20/8/2018
35
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 4 - tháng 8/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hàm phủ trên implant đạt được sự lưu giữ và 
vững ổn nhờ vào một bộ phận khoá cài dạng chốt, 
thanh, định vị, từ tính hay chụp lồng được gắn vào 
implant và gắn vào nền hàm của phục hình tháo lắp. 
Sự dính chặt và nâng đỡ này giúp bệnh nhân ăn nhai 
tốt hơn, chất lượng dinh dưỡng tốt hơn và bệnh 
nhân hài lòng hơn so với phục hình tháo lắp toàn 
bộ [12]. Tuy nhiên, hạn chế của các hệ thống khoá 
cài này là cần một labo phục hình tốt để đúc chính 
xác, chi phí điều trị cao và đặc biệt là thời gian điều 
trị kéo dài từ 3 đến 6 tháng [4]. Điều này gây ảnh 
hưởng đến tâm lý giao tiếp và chức năng ăn nhai 
của bệnh nhân.
Điều trị mất răng toàn bộ hàm dưới bằng hàm 
phủ chịu lực tức thì với kết nối chụp lồng đã được 
nhiều tác giả thực hiện thành công[2],[3],[7]. Trong 
phương pháp này, bốn implant được đặt ở giữa hai 
lỗ cằm và sử dụng một hệ thống kết nối chụp lồng 
làm sẵn (SynCone-Ankylos, Dentsply Friadent) gồm 
trụ phục hình có dạng hình nón gắn vào implant và 
một mão chụp lồng gắn trực tiếp vào nền hàm phục 
hình bằng nhựa tự cứng ở trong miệng bệnh nhân 
ngay sau phẫu thuật đặt implant. Các trụ phục hình 
dạng hình nón và mão chụp lồng này có nhiệm vụ 
vừa nâng đỡ cho phục hình tháo lắp bên trên vừa 
đóng vai trò như một thanh nối cố định các implant 
này với nhau, giúp ngăn ngừa vi chuyển động giữa 
giao diện implant - bề mặt xương trong quá trình 
lành thương và đó cũng là một trong các yếu tố quan 
trọng nhất quyết định cho implant có thể chịu lực 
tức thì. 
Ở Việt Nam, hiện nay chưa có nghiên cứu nào 
đánh hiệu quả của hàm phủ chịu lực tức thì trên 
implant với hệ thống kết nối chụp lồng. Mục tiêu của 
nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả lâm sàng và 
sự hài lòng của bệnh nhân mất răng toàn bộ hàm 
dưới bằng hàm phủ chịu lực tức thì trên implant với 
hệ thống kết nối chụp lồng Syncone Ankylos.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên bệnh nhân mất 
răng toàn bộ hàm dưới đến điều trị tại Khoa Kỹ thuật 
cao, Bệnh viện Răng Hàm mặt Trung ương Tp.HCM. 
Tất cả bệnh nhân đều được cung cấp thông tin đầy 
đủ liên quan và tự nguyện tham gia vào nghiên cứu. 
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
Bệnh nhân mất răng toàn bộ hàm dưới từ 18 
tuổi trở lên, có đủ sức khỏe để phẫu thuật. Trường 
hợp răng mới nhổ, thời gian lành thương sau khi 
nhổ răng ít nhất là 1 tháng kể từ ngày nhổ. Khảo 
sát trên phim CT ở vùng mất răng hàm dưới phía 
trước: Xương theo chiều ngoài - trong còn lại ít nhất 
6 mm và chiều trên - dưới ít nhất 12 mm để có thể 
đặt implant có đường kính 3,5 mm dài 9,5 mm mà 
không cần phải ghép xương và đảm bảo cho sự vững 
ổn ban đầu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân mắc các bệnh toàn thân có thể ảnh 
hưởng đến tích hợp xương; đang xạ trị vùng đầu 
mặt cổ hoặc đã xạ trị trong vòng 12 tháng; đang sử 
dụng thuốc có ảnh hưởng đến chuyển hoá xương; 
có tật nghiến răng, bệnh về khớp thái dương hàm, 
tâm lý không ổn định,không hợp tác; hút thuốc lá 
trên 10 điếu/ngày, nghiện rượu, đang mang thai 
hoặc cho con bú; đang bị viêm nha chu các răng còn 
lại hoặc đang có viêm nhiễm cấp tính vùng xoang 
miệng; không đủ xương để đặt implant cần phải 
ghép xương trước khi đặt implant, lực vặn implant 
nhỏ hơn 30 Ncm.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả, tiến cứu có can thiệp lâm 
sàng. 
Phương tiện nghiên cứu
- Máy cắt lớp chùm tia hình nón (Conebeam CT 
hiệu NEWTOME).
- Máy chụp X quang kỹ thuật số Gnatus. Đầu đọc 
phim là Soredex Digora Optime và phần mềm để đo 
là Digora 2.5.
- Máy đo độ vững ổn Periotest.
- Máy chụp hình Canon EOS, ống kính macro với 
đèn chụp trong miệng Macro Ring Lite MR-12EX có 
thể chụp trong miệng với tỉ lệ 1:1.
Vật liệu nghiên cứu
- Máy phẫu thuật đặt implant W&H và tay khoan 
đặt implant W&H.
- Bộ dụng cụ và mũi khoan phẫu thuật của hãng 
Ankylos.
- Implant Ankylos đường kính 3,5 mm và 4,5 
mm; chiều dài 8 mm, 9,5 mm, 11 mm và 14 mm.
- Trụ phục hình Syncone có chiều cao nướu 
3,0mm và 4,5mm với góc 5o, 7,5o.
- Bộ dụng cụ khám, cây đo túi nha chu Williams. 
Bộ dụng cụ phẫu thuật gồm: cây bóc tách vạt, cán 
dao mổ, kẹp kim, kẹp khâu, bộ mũi khoan đặt 
implant.
- Thuốc tê: Lidocain 2%, epinephrine 
1:1.000.000, kim gây tê loại ngắn.
- Chỉ không tiêu silk loại 5.0 và dao mổ 15, 15c và 
12.
- Thước đo chuyên dụng.
- Nước súc miệng chlorhexidine 0,12% (KIN), 
Betadin 10% sát trùng trong và ngoài miệng, nước 
muối sinh lý, gạc vô trùng, ống chích nhựa.
36
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 4 - tháng 8/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
2.2.2. Các bước nghiên cứu
Mỗi bệnh nhân vào bệnh viện với chẩn đoán 
mất răng toàn bộ hàm dưới, có chỉ định đặt implant 
nâng đỡ phục hình hàm phủ hàm dưới, chúng tôi 
tiến hành nghiên cứu theo các bước sau:
- Ghi nhận phần hành chính.
- Hỏi bệnh sử, tiền sử răng miệng.
- Lý do vào viện.
- Khám lâm sàng, ghi nhận kết quả vào phiếu 
nghiên cứu.
- Chụp phim cắt lớp vi tính (CT), phim toàn cảnh 
kỹ thuật số.
- Xét nghiệm sinh hóa trước phẫu thuật.
- Tiến hành phẫu thuật (T0).
- Ghi nhận phương pháp phẫu thuật.
- Ghi nhận các tai biến trong phẫu thuật
- Hướng dẫn, theo dõi và ghi nhận các biến 
chứng sau phẫu thuật.
- Tái khám bệnh nhân sau phẫu thuật 1 tháng 
(T1), 3 tháng (T3) ,6 tháng (T6) và 12 tháng (T12) để 
đánh giá kết quả phẫu thuật bằng khám lâm sàng, 
đánh giá sự vững chắc của phục hình và chụp phim 
toàn cảnh kỹ thuật số để kiểm tra.
Tất cả các bước nghiên cứu được tiến hành 
thống nhất cho tất cả bệnh nhân và được ghi chép 
vào phiếu nghiên cứu đã thiết kế sẵn.
Phẫu thuật đặt implant
- Sát trùng bên ngoài miệng bằng dung dịch 
Betadine 10%, cho bệnh nhân xúc miệng bằng dung 
dịch Chlorhexidine 0,12% (Kin) trong 1 phút.
- Gây tê tại chỗ ở phía ngoài và phía lưỡi ở vùng 
răng cửa hàm dưới bằng thuốc tê 4% adrenaline 
1/100 000.
- Rạch một đường rạch ngang ngay trên đỉnh 
sống hàm chạy từ răng cối lớn thứ nhất bên trái sang 
răng cối lớn bên phải. Sau đó, rạch đường rạch đứng 
(giảm căng) ngay chính giữa xương hàm dưới kéo dài 
qua đường tiếp nối nướu - niêm mạc. Bóc tách vạt 
toàn bộ bộc xương hàm dưới (Hình 1). Trường hợp 
đỉnh sống hàm mất răng bén, nhọn hoặc gồ ghề, mài 
chỉnh xương bằng mũi khoan tròn hoặc mũi khoan 
ngọn lửa lớn (Hình 2). 
 Hình 1. Tạo và bóc tách vạt Hình 2. Mài điều chỉnh sóng hàm 
 Đặt implant dưới mào xương từ 1,5 đến 2,0 
mm (Hình 3). Tháo vít đậy trên implant. Trong tất 
cả các trường hợp không thực hiện ghép xương và 
ghép mô mềm. Ngay sau khi khâu vạt xong, trụ lành 
thương được vặn ra và gắn trụ lấy dấu vào implant 
(Hình 4). Lấy dấu implant bằng khay kín với vật liệu 
silicone (Aquasil Ultra; Dentsply Friadent GmbH) 
(Hình 5). Sau khi lấy dấu chuyển mẫu vào labo để đổ 
mẫu. Lựa chọn trụ SynCone với các độ nghiêng khác 
nhau trong labo là để đảm bảo các trụ này song song 
với nhau khi gắn trên lâm sàng (Hình 6). Thông qua 
khoá chuyển trụ Syncone nghiêng 4 độ, chiều cao 
nướu 3mm được gắn vào implant và được gắn chặt 
vào implant với lực torque 25 Ncm. 
 Hình 3. Implant đặt dưới màng xương Hình 4. Gắn trụ lấy dấu
37
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 4 - tháng 8/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
 Hình 5. Lấy dấu implant Hình 6. Trụ phục hình song song nhau
Đưa hàm phục hình đặt vào trong miệng và cho bệnh nhân cắn ở tư thế lồng múi tối đa và chờ cho cứng. Sau 
khi nhựa trùng hợp hoàn toàn, tháo hàm giả ra khỏi miệng, mài dũa, đánh bóng rồi lắp vào lại. Bệnh nhân 
nhân được giao phục hình trong cùng một ngày phẫu thuật (Hình 7). Chụp phim toàn cảnh kỹ thuật số ngay 
sau khi giao hàm phục hình (Hình 8).
 Hình 7. Phục hình sau cùng Hình 8. Hình ảnh trên phim toàn cảnh
Chăm sóc và theo dõi bệnh nhân sau phẫu thuật
Flagy 250 mg + Ibuprofen 400mg ( Uống 3 lần/1 
ngày), súc miệng bằng dung dịch chlorhexidine 
0,12% ngày 3 lần, mỗi lần 30 giây và hướng dẫn vệ 
sinh răng miệng. 
Đánh giá kết quả nghiên cứu qua các tiêu chí: 
+ Đánh giá tỉ lệ thành công và thất bại của 
implant sau 1 năm chịu lực (thành công: implant còn 
trên tồn tại trên hàm, thực hiện tốt chức năng; thất 
bại: implant rớt ra khỏi sống hàm) [2]; 
+ Đánh giá sự vững ổn của phục hình theo phân 
loại Misch (1990) [8]:
* Độ 1: Phục hình không có sự di chuyển.
* Độ 2: Phục hình có chuyển động bản lề.
* Độ 3: Phục hình chuyển động về phía chóp.
* Độ 4: Phục hình chuyển động theo bốn hướng.
* Độ 5: Phục hình chuyển động theo mọi hướng.
+ Biến chứng phục hình theo Degidi (2012) [2] 
(gãy trụ phục hình, gãy vít; hàm phục hình bị gãy; 
đệm hàm phục hình; hàm phục hình bị lỏng, mất 
dính khi thực hiện chức năng ăn nhai, nói, há miệng; 
+ Đánh giá tình trạng mô mềm theo 4 mức: Bình 
thường, viêm niêm mạc quanh impant, viêm quanh 
implant và quá sản [5], [6].
+ Đánh giá sự hài lòng bệnh nhân theo bảng câu 
hỏi của Eccellente (2010) gồm: vệ sinh, chức năng 
ăn nhai, thẩm mỹ, độ vững ổn, và phát âm [3].
+ Đánh giá sự thay đổi mào xương quanh implant 
ngay sau khi đặt implant sau 6 tháng và 12 tháng 
bằng phần mềm Digora của Ý. Mức xương ở mặt gần 
và xa của implant được đo từ bờ vai implant đến vị 
trí cao nhất có tiếp xúc xương với implant [7] (Hình 
9).
Hình 9. Đo mào xương bằng phần mềm Digora
38
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 4 - tháng 8/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
3. KẾT QUẢ
 Tổng cộng có 22 bệnh nhân mất răng toàn bộ 
hàm dưới được điều trị bằng bằng hàm phủ nâng 
đỡ trên implant chịu lực tức thì với hệ thống khoá 
cài SynCone và theo dõi từ tháng 01/2016 đến tháng 
05/2017, tại Khoa Kỹ thuật cao, Bệnh viện Răng 
Hàm Mặt Trung ương TP.HCM. Có 9 bệnh nhân nam 
(40,9%) và 13 bệnh nhân nữ (59,1%). Tuổi trung bình 
là 60,5± 6,7. 
Mật độ xương trung bình trong mẫu nghiên cứu 
là 1108,8 ± 157,6 Houndfield (Hu). Khoảng cách 
trung bình giữa 2 lỗ cằm là 44,3 ± 2,63 mm. Chiều 
cao nướu sừng hóa trung bình là 2,57 ± 0,8 mm. Lực 
vặn torque trung bình 41,59 ± 3,1 Ncm.
3.1. Đánh giá tỉ lệ thành công và thất bại implant sau 12 tháng
Bảng 3.1. Tỉ lệ thành công và thất bại implant (n=88)
Thời gian đánh giá 
(tháng)
Implant
đặt (SL)
Implant nguy cơ 
(SL)
Implant thất bại 
(SL)
Tỉ lệ tích hợp 
xương (%)
0 - 1 88 0 1 98,9
1 - 3 88 0 0 100
3 - 6 88 0 0 100
6 -12 88 0 0 100
Nhận xét:
- Tại thời điểm 1 tháng sau phẫu thuật, có 1 
implant chiếm tỉ lệ 1,1% bị đau và lung lay phải gây 
tê lấy ra, đồng thời đặt lại 1 implant khác ở phía vị 
trí implant này với cùng đường kính và chiều dài. 
Tỉ lệ implant tích hợp xương sau 1 tháng, 3 tháng, 
6 tháng và 12 tháng lần lượt là 98,9% ,100%, 100%, 
100%.
3.2. Đánh giá độ vững ổn của phục hình ở trạng thái tĩnh
Bảng 3.2. Đánh giá độ vững ổn của phục hình ở trạng thái tĩnh (n=22)
Thời điểm
Độ vững ổn 
T3
n (%)
T6
n (%)
T12
n (%)
Độ 1 22 (100) 22 (100) 22 (100)
Độ 2 0 (0) 0 (0) 0 (0)
Độ 3 0 (0) 0 (0) 0 (0)
Độ 4 0 (0) 0 (0) 0 (0)
Độ 5 0 (0) 0 (0) 0 (0)
Tổng 22 (100) 22 (100) 22 (100)
Nhận xét: Độ vững ổn của phục hình (Độ 1) tại các thời điểm sau 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng là 100%. 
3.3. Đánh giá biến chứng phục hình sau 12 tháng
Bảng 3.3. Biến chứng phục hình sau 12 tháng (n=22)
Biến chứng Số lượng (n= 22) Tỷ lệ %
Gãy trụ phục hình, gãy vít 0 0,0
Hàm phục hình bị gãy 1 4,5
Đệm hàm phục hình 1 4,5
Hàm phục hình bị lỏng, mất dính khi thực 
hiện chức năng nhai, nuốt
0 0,0
Nhận xét: Sau 12 tháng phẫu thuật, không có 
implant nào có trụ phục hình bị gãy vít. Có 1/22 hàm 
phục hình bị gãy chiếm tỉ lệ 4,5% và 1/22 hàm phục 
hình phải đệm lại chiếm tỉ lệ 4,5%. Như vậy tỉ lệ thành 
công của phục hình là 91% và thất bại là 9%. Sự khác 
biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05)
39
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 4 - tháng 8/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
3.4. Đánh giá tình trạng mô mềm quanh implant thời điểm 3, 6, 12 tháng sau phẫu thuật
Bảng 3.4. Tình trạng mô mềm quanh implant (n=88)
 Thời điểm
Tình trạng 
T3
SL (%)
T6
SL (%)
T12
SL (%)
Bình thường 58 (65,9) 65 (73,9) 76 (86,3)
Viêm niêm mạc quanh implant 26 (29,6) 19 (21,6) 12 (13,7)
Nướu tăng sản 4 (4,5) 4 (4,5) 0
Viêm quanh implant 0 0 0
Tổng cộng 88 88 88 
Nhận xét:
- Có sự cải thiện tình trạng mô mềm theo thời gian tại các thời điểm sau khi đặt implant, tình trạng viêm 
quanh niêm mạc giảm theo thời gian (Tại T3, T6, T12 lần lượt là 26%, 19%, 12%).
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê theo thời gian (p<0,05).
3.5. Mức độ tiêu mào xương quanh implant trên phim X quang sau 6, 12 tháng đặt implant
Bảng 3.5. Khoảng cách giữa vị trí xương tiếp xúc implant cao nhất đến bệ implant (n=88)
T0 T6 Hiệu giữa 
T6/T0
p(1) T12 Hiệu giữa 
T12/T0
p(2)
Phía gần 0,1±0,26 0,17±0,33 0,06±0,24 0,04 0,22±0,42 0,12±0,3 0,002
Phía xa 0,06±0,19 0,14±0,3 0,08±0,19 <0,001 0,19±0,4 0,13±0,28 <0,001
p(3) 0,34 0,67 0,68
Toàn mẫu 0,08±0,23 0,15±0,31 0,07±0,22 <0,001 0,20±0,41 0,12±0,29 <0,001
T6/T0; (2) T12/T0
Nhận xét: 
Mức độ tiêu mào xương trung bình tại thời điểm T6 và T12 lầm lượt là 0,07±0, 0,12±0,29 mm. Sự tiêu 
xương theo thời gian khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
3.6. Đánh giá mức độ hài lòng của bệnh nhân tại thời điểm 3, 6 và 12 tháng
Bảng 3.6. Mức độ hài lòng của bệnh nhân (n=22)
Mức độ 
hài lòng
Rất hài lòng
(n, %)
Hài lòng
(n, %)
Không hài lòng 
(n, %)
Thời điểm
Tiêu chí
T3 T6 T12 T3 T6 T12 T3 T6 T12
Vệ sinh 0 (0) 0 (0) 3 (13,6) 19 (86,4) 22 (100) 19 (86,4) 3 (13,6) 0 (0) 0 (0)
Chức năng 
ăn nhai
17 (77,3) 20 (90,9) 22 (100) 5 (22,7) 2 (9,1) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 0 (0)
Thẩm mỹ 0 (0) 2 (9,1) 4 (18,2) 22 (100) 20 (90,9) 18 (81,8) 0 (0) 0 (0) 0 (0)
Độ vững ổn 22 (100) 22 (100) 22 (100) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 0 (0)
Phát âm 0 (0) 0 (0) 0 (0) 19 (86,4) 22 (100) 22 (100) 3 (13,6) 0 (0) 0 (0)
Nhận xét: 
- Sự hài lòng về tiêu chí đánh giá vệ sinh, chức 
năng ăn nhai, thẩm mỹ, độ vững ổn, phát âm của 
bệnh nhân tại các thời điểm T3, T6, T12 đều tăng 
theo thời gian. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
(p<0,05).
4. BÀN LUẬN
Thất bại implant ở tuần thứ tư trong nghiên cứu 
chúng tôi tương tự như nghiên cứu của Eccellente 
(2010) [3] và Degidi (2012) [2]. Bốn tuần sau phẫu 
thuật, một bệnh nhân (1,1%) có một implant ở vị trí 
răng 43 bị đau, lung lay phải gây tê lấy ra. Khác với 
40
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 4 - tháng 8/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
nghiên cứu của Degidi (2012), tác giả chỉ lấy implant 
ra mà không đặt lại implant khác, còn nghiên cứu 
của chúng tôi, sau khi lấy implant ra chúng tôi đặt lại 
implant khác, tiếp tục chịu lực và theo dõi trong 12 
tháng. Cả hai nghiên cứu của Eccellente (2010) [3] 
và Degidi (2012) không giải thích được lý do thất bại.
Khi phân tích một trường hợp thất bại sớm này, 
chúng tôi ghi nhận đó là bệnh nhân nữ 55 tuổi, có 
tình trạng sức khoẻ toàn thân tốt, không hút thuốc 
lá, có tiền sử bệnh nha chu (hàm dưới nhổ do nha 
chu và sâu răng, hàm trên đã điều trị viêm nha chu, 
hiện trong giai đoạn ổn định), được đặt implant dài 
9,5 mm. Hàm đối diện là răng thật và một phục hình 
cố định. Sau khi lấy implant ra, bệnh nhân được 
đặt lại một implant khác cùng chiều dài 9,5 mm và 
đường kính 3,5 mm ở vị trí gần bên về phía xa.
Có nhiều nguyên nhân gây thất bại implant sớm. 
Thất bại implant trong trường hợp này có thể là do 
chấn thương gây ra trong lúc phẫu thuật đặt implant 
vì mật độ xương của implant này thuộc loại D1 và 
lực vặn torque lúc đặt implant > 45 Ncm. Sau khi gây 
tê lấy implant ra đồng thời đặt lại implant khác ở vị 
trí hơi về phía xa của implant vừa lấy ra, cùng đường 
kính 3,5 mm và chiều dài là 9,5 mm. Kết quả theo 
dõi sau 1 năm implant này đặt thành công. Thất bại 
implant trong trường hợp này phù hợp với nghiên 
cứu của Verma và cs (2017) cho rằng, chấn thương 
do phẫu thuật là một trong các nguyên nhân gây 
ra thất bại implant sớm. Implant thất bại do chấn 
thương phẫu thuật thường được bao phủ bởi mô 
sợi hoặc kéo dài của biểu mô kết nối về phía chóp. 
Nhiệt độ phát sinh vào thời điểm khoan xương, áp 
lực đè nén quá mức lên vùng mào xương khi đặt 
implant có thể làm tiêu xương quanh implant trong 
giai đoạn lành thương [11].
Nếu sử dụng tiêu chí đánh giá sự thành công 
của Albrektsson và cs (1986) [1] thì nghiên cứu của 
chúng tôi cho tỉ lệ thành công là 100% sau thời gian 
theo dõi là 12 tháng, cao hơn tỉ lệ thành công của 
nghiên cứu May (2002) là 97,54% [7]; Eccellente 
(2010) là 98,7% [3]; Romamos (2011) là 94,6% [9] và 
Degidi (2012) là (98,9%) [2].
Như vậy, kết quả của nghiên cứu này cho thấy có 
1/88 implant (1,1%) bị thất bại ở tuần thứ tư, sau đó 
được đặt lại bằng 1 implant khác ngay thời điểm lấy 
ra, điều chỉnh hàm phủ cho chịu lực tức thì và tiếp 
tục theo dõi trong thời gian 12 tháng. Tỉ lệ implant 
tích hợp xương sau 1 tháng là 98,9%. Đánh giá tại 
các thời điểm sau 12 tháng, tất cả 88 implant đề đạt 
tiêu chí implant thành công (100%).
Kết quả của nghiên cứu này đã chứng minh tỉ 
lệ thành công cao đối với implant được đặt ở vùng 
xương hàm dưới phía trước và được phục hình tức 
thì với hệ thống khoá cài chụp lồng SynCone. Các 
implant này được nối với nhau bằng hàm phủ nâng 
đỡ trên implant và không được lấy ra khỏi miệng 
trong 10 ngày sau phẫu thuật. Phục hình này giúp 
cố định implant trong 2 tuần sau phẫu thuật, qua 
đó loại bỏ vi chuyển động ở giữa giao diện xương và 
implant. Sự di chuyển động này có thể gây nên sự 
xâm nhập của mô liên kết và đưa đến thất bại của 
implant. Một ưu điểm của hệ thống implant này là 
sự kết nối trụ phục hình vào mâm implant bằng kết 
nối hình nón cứng chắc ở phần giao diện và do đó 
giúp ngăn ngừa sự xâm nhập của tác nhân vi khuẩn 
vào mô quanh implant.
Yếu tố giải phẫu hay vấn đề tài chính là một trong 
nguyên nhân có thể ngăn cản bệnh nhân điều trị 
phục hình cố định trên implant. Trong trường hợp 
này để giảm bớt chi phí điều trị và cải thiện chức 
năng của phục hình toàn bộ, có thể sử dụng implant 
nâng đỡ cho phục hình.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, một trường hợp 
phải đệm hàm lại vào tháng thứ 6 do nghi ngờ nhựa 
tự cứng gây ra mô nướu tăng sản quanh implant và 
một trường hợp hàm phủ bị gãy do rơi. Không có 
trường hợp nào trụ phục hình bị gãy hoặc gãy vít. 
Nếu so sánh nghiên cứu của chúng tôi với nghiên 
cứu của Degidi (2012) [2] thì tỉ lệ biến chứng phục 
hình trong nghiên cứu của chúng tôi là 2/22 hàm 
phục hình chiếm tỉ lệ 9% cao hơn so với nghiên cứu 
của Degidi (2012) là 1/22 chiếm tỉ lệ là 4,65%. Tỉ lệ 
thành công phục hình trong nghiên cứu của chúng 
tôi là 91% thấp hơn so với nghiên cứu của Degidi 
(2012) là 95,45% [2]. Eccellente và cs (2010) cho 
rằng tỉ lệ thành công của hàm phục hình là do hệ 
thống khoá cài SynCone đưa đến sự vững ổn của 
hàm phục hình, giảm kích thước của nền hàm và cải 
thiện tình trạng vệ sinh răng miệng [3].
Qua nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy, phục 
hình hàm phủ sẽ cho kết quả tốt hơn nếu sử dụng 
nhựa nấu thay cho nhựa tự cứng.
Viêm niêm mạc quanh implant là sang thương 
thường hay gặp trên lâm sàng và hơn 50% implant bị 
viêm niêm mạc quanh implant. Biểu hiện của viêm 
niêm mạc quanh implant là chảy máu nướu khi thăm 
khám và thường được điều trị bằng cách hướng dẫn 
vệ sinh răng miệng và cho bệnh nhân súc bằng dung 
dịch chlorhexidine 2%.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, Bảng 3.4 cho 
thấy, tỉ lệ viêm niêm mạc quanh implant giảm theo 
thời gian từ thời điểm sau 3 tháng (T3) chiếm tỉ lệ 
29,6%, xuống còn 21,6% ở thời điểm T6 và 13,7% ở 
thời điểm T12. Không có implant nào bị viêm quanh 
implant. Mức độ tiêu xương xung quanh phần cổ 
implant là một trong các tiêu chí đánh giá sự thành 
41
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 4 - tháng 8/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
công hay thất bại của implant sau khi gắn phục 
hình. Thông thường, trong năm đầu tiên mức độ 
tiêu xương quanh cổ implant trên phim X quang là 
1,5mm và mỗi năm sau đó nếu mức độ tiêu xương ít 
hơn 0,2mm thì implant được xem là cấy ghép thành 
công [1]. Trong nghiên cứu nghiên cứu của chúng 
tôi, mức độ tiêu mào xương trung bình sau 12 tháng 
là 0,12 ± 0,29mm. Có sự tiêu xương ít trong năm đầu 
ở các implant trong nghiên cứu của chúng tôi có thể 
được giải thích bởi thành phần cấu tạo của implant 
đặc biệt là dạng kết nối chuyển bệ và tính chất bề 
mặt làm thúc đẩy phản ứng tạo xương trong trường 
hợp chịu lực tức thì của implant[10]. Một số nghiên 
cứu trên động vật và người đều cho thấy kết nối 
chuyển bệ của implant làm giảm sự tiêu xương sau 
khi cấy ghép implant. Ngoài ra, thiết kế vi ren đến 
sát cổ implant trong hầu hết các trường hợp cũng 
làm tăng sự tích hợp xương. Các thử nghiệm trong in 
vitro và trên động vật đều cho thấy các bề mặt vi thể 
gồ ghề của implant được xử lí bằng phương pháp 
fluor hóa biến đổi trong nghiên cứu này cho thấy 
tăng sự tiếp xức giữa xương và implant, đặc biệt sự 
tạo xương dường như tăng lên nhiều hơn trong giai 
đoạn sớm của quá trình lành thương so với thồi cát 
truyền thống [10].
5. KẾT LUẬN
Tuy còn nhiều hạn chế, thử nghiệm lâm sàng 
này đã cho thấy những thành công trong việc điều 
trị mất răng toàn bộ hàm dưới bằng implant chịu 
lực tức thì được kết nối với với hệ thống chụp lồng 
Syncone Ankylos 4o nối với abutment. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Albrektsson T, Zarb G, Worthington P et al (1986), 
“The long-term efficacy of currently used dental implants: 
a review and proposed criteria of success”, Int J Oral Max-
illofac Implants, 1(1), pp. 11-25
2. Degidi M, Nardi D, Sighinolfi G et al (2012), “Imme-
diate rehabilitation of the edentulous mandible using An-
kylos SynCone telescopic copings and intraoral welding: 
a pilot study”, International Journal of Periodontics & Re-
storative Dentistry, 32(6), pp. 189-194.
3. Eccellente T, Piombino M, Piattelli A et al (2010), “A 
new treatment concept for immediate loading of implants 
inserted in the edentulous mandible”, Quintessence inter-
national, 41(6), 489-495.
4. Gotfredsen K, Holm B (2000), “Implant-supported 
mandibular overdentures retained with ball or bar attach-
ments: a randomized prospective 5-year study”, Interna-
tional Journal of Prosthodontics, 13(2), pp. 125-130.
5. Hermann F, Lerner H, Palti A (2007), “Factors 
influencing the preservation of the periimplant marginal 
bone”, Implant Dentistry, 16(2), pp.165-175.
6. Lang NP, Löe H (1972), “The relationship between 
the width of keratinized gingiva and gingival health”, 
Journal of Periodontology, 43(10), pp.623-627.
7. May D, Romanos GE (2002), “Immediate im-
plant-supported mandibular overdentures retained by 
conical crowns: a new treatment concept”, Quintessence 
international, 33(1), pp. 5-12
8. Misch C (1990), “Classifications and treatment 
options of the completely edentulous arch in implant 
dentistry”, Dentistry today, 9(8), pp.26-30.
9. Romanos GE, May S, May D (2011), “Treatment 
concept of the edentulous mandible with prefabricated 
telescopic abutments and immediate functional loading”, 
International Journal of Oral & Maxillofacial Implants, 
26(3), pp. 593-597.
10. Schincaglia GP, Rubin S, Thacker S et al (2016), 
“Marginal Bone Response Around Immediate-and De-
layed-Loading Implants Supporting a Locator-Retained 
Mandibular Overdenture: A Randomized Controlled 
Study”, International Journal of Oral & Maxillofacial Im-
plants, 31(2), pp. 448-458.
11. Verma SG, Kapoor D (2017), “Biological Factors 
Responsible to the Failure of Osseointegrated Dental Im-
plants”, J Dent & Oral Disord, 3(2), pp. 1-4
12. Zarb G (2008), Osseointegration: on continuing 
synergies in surgery, prosthodontics, biomaterials, Quin-
tessence Publishing Company.

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_hieu_qua_cua_ham_phu_tren_implant_chiu_luc_tuc_thi.pdf