Đánh giá hiệu quả của capecitabine duy trì trong ung thư dạ dày giai đoạn muộn sau điều trị bước một
Mục tiêu: Đánh giá thời gian đến khi bệnh tiến triển trong điều trị ung thư dạ dày sau điều trị hóa chất
bước một bằng capecitabine và ghi nhận một số tác độc tính của phác đồ.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 42 bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn IV hoặc tái phát di căn
sau phẫu thuật, được điều trị hóa chất duy trì capecitabine sau hóa chất bước một tại bệnh viện K.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả, hồi cứu kết hợp tiến cứu.
Kết quả: Nghiên cứu tiến hành trên 42 bệnh nhân ung thư dạ dày tái phát di căn, có 29 bệnh nhân nam,
13 bệnh nhân nữ. Tuổi trung bình là 55,6, trong đó bệnh nhân trẻ tuổi nhất là 25, lớn tuổi nhất là 75. Đa số
bệnh nhân trong nghiên cứu được sử dụng hóa chất phác đồ XELOX. Thời gian sống thêm bệnh không tiến
triển (PFS) trung vị là 11,2 tháng. Thời gian đến khi bệnh tiến triển liên quan đến đến nhóm tuổi, PFS tốt hơn ở
nhóm người ≤ 60 tuổi, nồng độ CEA trước điều trị, không liên quan đến các yếu tố như giới, vị trí di căn, đáp
ứng hóa chất ban đầu, chỉ số toàn trạng, loại mô học hay độ mô học. Về tác dụng không mong muốn của phác
đồ, không có BN nào thiếu máu nặng, hạ bạch cầu, tiểu cầu độ 3, 4 hay tỷ lệ BN hạ BC độ 1,2 lần lượt là 7,1%
và 4,8%. BN gặp hạ TC độ 1, 2 với tỷ lệ 19,0% và 2,4%. Nghiên cứu có 23,8 % BN biểu hiện hội chứng tay
chân độ 2; 16,7% độ 3.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hiệu quả của capecitabine duy trì trong ung thư dạ dày giai đoạn muộn sau điều trị bước một
TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 331 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CAPECITABINE DUY TRÌ TRONG UNG THƯ DẠ DÀY GIAI ĐOẠN MUỘN SAU ĐIỀU TRỊ BƯỚC MỘT PHÙNG THỊ HUYỀN1, NGUYỄN THỊ HÒA2, NGUYỄN VĔN TÀI3, NGUYỄN VĔN HÙNG3, NGUYỄN THANH LONG4 TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá thời gian đến khi bệnh tiến triển trong điều trị ung thư dạ dày sau điều trị hóa chất bước một bằng capecitabine và ghi nhận một số tác độc tính của phác đồ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 42 bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn IV hoặc tái phát di cĕn sau phẫu thuật, được điều trị hóa chất duy trì capecitabine sau hóa chất bước một tại bệnh viện K. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả, hồi cứu kết hợp tiến cứu. Kết quả: Nghiên cứu tiến hành trên 42 bệnh nhân ung thư dạ dày tái phát di cĕn, có 29 bệnh nhân nam, 13 bệnh nhân nữ. Tuổi trung bình là 55,6, trong đó bệnh nhân trẻ tuổi nhất là 25, lớn tuổi nhất là 75. Đa số bệnh nhân trong nghiên cứu được sử dụng hóa chất phác đồ XELOX. Thời gian sống thêm bệnh không tiến triển (PFS) trung vị là 11,2 tháng. Thời gian đến khi bệnh tiến triển liên quan đến đến nhóm tuổi, PFS tốt hơn ở nhóm người ≤ 60 tuổi, nồng độ CEA trước điều trị, không liên quan đến các yếu tố như giới, vị trí di cĕn, đáp ứng hóa chất ban đầu, chỉ số toàn trạng, loại mô học hay độ mô học. Về tác dụng không mong muốn của phác đồ, không có BN nào thiếu máu nặng, hạ bạch cầu, tiểu cầu độ 3, 4 hay tỷ lệ BN hạ BC độ 1,2 lần lượt là 7,1% và 4,8%. BN gặp hạ TC độ 1, 2 với tỷ lệ 19,0% và 2,4%. Nghiên cứu có 23,8 % BN biểu hiện hội chứng tay chân độ 2; 16,7% độ 3. Kết luận: Điều trị duy trì capecitabine sau điều trị bước một cho hiệu quả thời gian sống thêm bệnh không tiến triển cao và dung nạp tốt. Từ khóa: Ung thư dạ dày giai đoạn muộn, điều trị duy trì capecitabine. ABTRACT Effectiveness of capecitabine maintenance in advanced gastric cancer after first - line chemotherapy Objectives: To evaluate progression - free survival in advanced gastric cancer after first - line chemotherapy by capecitabine maintenance, and to report toxicity profile of this regimen. Patients and methods: There were 42 patients with stage IV or recurrent/metastatic gastric cancer treated with capecitabine maintenance after first - line chemotherapy at National Cancer Hospital. This was descriptive study. Results: There were 29 men and 13 women in this study. The average age was 55.6, whereas the youngest patient was 25 and the oldest patient was 75. Most patients in this study were treated with XELOX regimen. After first-line chemotherapy, stable disease rate was 21.4%, partial response rate was 71.4%, and complete response was 7.2%. Median progression-free survival (PFS) was 11.2 months. PFS was related to age, PFS was longer in patients ≤ 60 tuổi, baseline CEA, and not associated with sex, sites of metastasis, firs - line chemotherapy response, performance status, histological types, and grades. About toxicity profiles, there was no patient with severe anemia, neutropenia, and thrombopenia (grade 3 and 4). Rate of grade 1, 2 neutropenia were 7.1 % and 4.8%, respectively. Patients with grade 1, 2 thrombopenia were 19.0% and 2.4%, respectively. There were 23.8 % and 16.7% of patients suffering from grade 2 and 3 hand-foot syndrome. 1 TS.BS. Khoa Nội 6 - Bệnh viện K 2 BSNT. Khoa Nội 6 - Bệnh viện K 3 ThS.BSNT. Bộ môn Ung thư, Trường Đại học Y Hà Nội 4 BSNT. Bộ môn Ung thư, Trường Đại học Y Hà Nội TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 332 Conclusion: Capecitabine maintenance after first-line chemotherapy showed improved PFS and good tolerance. Key words: Advanced gastric cancer, capecitabine maintenance. ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư dạ dày đứng thứ nĕm trong số các bệnh ung thư thường gặp trên toàn thế giới và là nguyên nhân tử vong thứ ba do bệnh lý ung thư ở cả hai giới. Tỷ lệ mắc cao nhất ở Đông Á (chủ yếu ở Trung Quốc), Đông Âu, Trung Âu, Nam Mỹ[1]. Tại Việt Nam, ung thư dạ dày là loại ung thư khá phổ biến, đứng thứ hai sau ung thư phổi ở nam và đứng thứ ba sau ung thư vú, cổ tử cung ở nữ giới; chiếm 13,5% trong tổng số các bệnh ung thư[2]. Phẫu thuật đóng vai trò chủ yếu trong điều trị ung thư dạ dày, cũng giống như hầu hết các ung thư tiêu hóa khác. Tuy nhiên, bệnh thường được chẩn đoán ở giai đoạn muộn do triệu chứng lâm sàng không điển hình. Hầu hết các trường hợp ung thư dạ dày phát hiện ở giai đoạn còn khả nĕng phẫu thuật thường đã có xâm lấn tại chỗ (khối u đã xâm lấn các lớp thành dạ dày hoặc vượt quá thành dạ dày hoặc có di cĕn hạch quanh dạ dày). Những trường hợp này có nguy cơ tái phát, di cĕn cao sau phẫu thuật[3]. Các nghiên cứu ở Mỹ và Hàn Quốc cho thấy ung thư dạ dày có thể tái phát tại chỗ, tại vùng hoặc tái phát, di cĕn xa; tỷ lệ tái phát thay đổi 25% đến 48% giữa các nghiên cứu[4,5]. Việc xác định vị trí tái phát cũng như xem xét thể trạng bệnh nhân liên quan trực tiếp đến việc lựa chọn phác đồ điều trị, trong đó hóa trị là phương pháp điều trị quan trọng với mục đích giảm triệu chứng và kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân[6,7]. Lợi ích sống còn của điều trị hóa chất so với chĕm sóc triệu chứng đơn thuần đã được nghiên cứu trong nhóm bệnh nhân ung thư dạ dày tái, di cĕn cho thấy hoá chất làm tĕng thời gian sống thêm của bệnh nhân[8,9,10,11]. Một số phác đồ được khuyến cáo trong điều trị bước ung thư dạ dày tái phát, di cĕn với vai trò quan trọng của hóa chất fluorouracil như: cisplastin và fluorouracil (CF) có hoặc không kết hợp trastuzumab; epirubicin, cisplatin và capecitabine (ECX); epirubicin, oxaliplatine và capecitabin (EOX), capecitabine và oxaliplatin (XELOX)[12,13]. Sau điều trị bước một đạt đáp ứng tối đa, điều trị hóa chất capecitabine duy trì đã được chứng minh có hiệu quả trong nhiều nghiên cứu cho thấy tĕng sống thêm và chất lượng sống cho bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn tái phát, di cĕn, hiệu quả về thời gian sống thêm bệnh không tiến triển (PFS) tĕng từ khoảng 7 tháng ở nhóm theo dõi lên 11 tháng ở nhóm được điều trị duy trì[14,15,16,17,18,19]. Tại Việt Nam, capecitabine duy trì được sử dụng rộng rãi trong điều trị ung thư vú, ung thư đại trực tràng, và gần đây là ung thư dạ dày giai đoạn tiến triển sau điều trị hóa chất bước một. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu chứng minh hiệu quả và mức độ an toàn của hóa chất capecitabine duy trì trên bệnh nhân ung thư dạ dày tái phát di cĕn sau khi đạt được đáp ứng hóa chất bước một tại Bệnh viện K. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với hai mục tiêu: 1. Đánh giá thời gian sống thêm bệnh không tiến triển trong điều trị ung thư dạ dày sau điều trị hóa chất bước một. 2. Ghi nhận một số tác độc tính của phác đồ điều trị. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu 42 bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn IV hoặc tái phát di cĕn sau phẫu thuật, được điều trị hóa chất duy trì capecitabine sau hóa chất bước một tại bệnh viện K từ tháng 5 nĕm 2015 đến tháng 5/2018. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân Bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định ung thư dạ dày giai đoạn IV hoặc tái phát di cĕn sau phẫu thuật, điều trị hóa chất bước một đạt đáp ứng hoặc bệnh giữ nguyên. Giải phẫu bệnh là ung thư biểu mô tuyến. Chẩn đoán xác định ung thư dạ dày tái phát, di cĕn dựa trên chẩn đoán hình ảnh và/ hoặc mô bệnh học. Chỉ số toàn trạng từ 0-2 theo thang điểm ECOG. Chức nĕng tủy xương, chức nĕng gan thận bình thường. BN không mắc các bệnh cấp và mạn tính trầm trọng. Có hồ sơ lưu trữ đầy đủ. Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân không đủ các tiêu chuẩn trên. Bệnh nhân có nguy cơ tử vong gần do các bệnh trầm trọng khác (bệnh tim mạch, rối loạn tâm thần, nhiễm trùng cấp, ung thư khác đang tiến triển). TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 333 - Bệnh nhân bỏ điều trị không phải vì lý do chuyên môn. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu kết hợp với tiến cứu. Các bước tiến hành Bước 1: Lựa chọn bệnh nhân theo đúng các tiêu chuẩn lựa chọn và ghi nhận các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng trước điều trị. Bước 2: Tiến hành điều trị: các bệnh nhân được điều trị với phác đồ hóa chất uống capecitabin 1000mg/m2, 2 liều/ngày trong 14 ngày, chu kì 21 ngày. Trong quá trình điều trị, nếu bệnh nhân xuất hiện các tác dụng không mong muốn, bệnh nhân sẽ được tạm dừng điều trị hoá chất, xử lý tác dụng không mong muốn và theo dõi sát. Khi tình trạng ổn định, đánh giá có thể tiếp tục điều trị hoá chất, bệnh nhân sẽ được tiếp tục điều trị theo đúng phác đồ. Bệnh nhân được duy trì điều trị phác đồ hóa chất đến khi bệnh tiến triển hoặc tác dụng không mong muốn không chấp nhận được. Bước 3: Đánh giá hiệu quả điều trị. Đánh giá thời gian sống không bệnh tiến triển (PFS): là khoảng thời gian được tính từ khi bắt đầu điều trị tới khi bệnh tiến triển. Đánh giá bệnh tiến triển: dựa vào các triệu chứng lâm sàng, các xét nghiệm như chụp X-quang phổi, X-quang xương, chụp CT lồng ngực, CT/MRI sọ não, siêu âm ổ bụng, tế bào hạch ngoại vi, dịch màng phổi, định lượng CEA. Đánh giá các độc tính dựa vào tiêu chuẩn phân độ độc tính thuốc chống ung thư của Viện Ung thư Quốc gia Mỹ (CTCAE 4.0). Thu thập và xử lý số liệu Nhập số liệu, làm sạch, mã hóa số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0. Phương pháp thống kê được sử dụng bao gồm: Trung bình, độ lệch chuẩn, so sánh tỷ lệ: Test Chi square. Giá trị p ≤ 0,05 được coi là có ý nghĩa thống kê. Đánh giá thời gian sống không bệnh tiến triển bằng phương pháp Kaplan - Meier. KẾT QUẢ Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng Đặc điểm chung Tuổi trung bình 55,6 ± 10,8, tuổi cao nhất 75 tuổi, tuổi thấp nhất 25 tuổi. Nhóm tuổi thường gặp nhất là nhóm 50 - 59 tuổi chiếm tỉ lệ 38,1%. Tỷ lệ nam/nữ: 2,2/1. Tỉ lệ bệnh nhân có chỉ số toàn trạng (PS) 1 là 59,5%, PS 2 là 40,5%. Bảng 1. Tỉ lệ bệnh nhân giai đoạn tiến xa tại chỗ và vị trí di cĕn Vị trí Số bệnh nhân Tỷ lệ (%) Giai đoạn tiến xa tại chỗ 8 19,0 Di cĕn gan 8 19,0 Di cĕn phúc mạc 17 40,5 Di cĕn nơi khác 9 21,5 Tổng 42 100 Nhận xét: 40,5% bệnh nhân di cĕn phúc mạc, 19% bệnh nhân giai đoạn tiến xa tại chỗ, tại vùng, 19% bệnh nhân di cĕn gan. Bảng 2. Đặc điểm mô bệnh học Đặc điểm Số bệnh nhân Tỷ lệ % Mô bệnh học Carcinome tuyến 29 69,0 Carcinome tuyến nhầy 3 7,1 Carcinome tế bào nhẫn 10 23,8 Độ mô học Cao 0 0 Vừa 13 31,0 Thấp 29 69,0 Tổng 42 100 Nhận xét. Ung thư biểu mô tuyến chiếm tỉ lệ cao nhất 69,0%. Độ mô học thấp chiếm tỉ lệ cao nhất 69,0%. Bảng 3. Phác đồ hóa chất và đáp ứng với phác đồ ban đầu Đặc điểm Số bệnh nhân Tỷ lệ % Phác đồ bước 1 XELOX 21 50,0 EOX 11 26,2 Phác đồ khác 10 23,8 Đáp ứng Hoàn toàn 3 7,2 Một phần 30 71,4 Bệnh giữ nguyên 9 21,4 Tổng 42 100 Nhận xét. 50% bệnh nhân được điều trị hóa chất bước một phác đồ XELOX, đa số các bệnh nhân đạt đáp ứng một phần sau điều trị bước một chiếm tỉ lệ 71,4%. TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 334 Kết quả điều trị Số chu kì điều trị Tổng số chu kì là 470 chu kì, số chu kì điều trị trung bình là 11,1 ± 10,9 chu kì. Bệnh nhân điều trị dài nhất là 48 chu kì, bệnh nhân được điều trị ngắn nhất là 3 chu kì. Thời gian sống thêm không tiến triển Bảng 4. Thời gian sống thêm không tiến triển Thời điểm Số bệnh nhân Tỷ lệ % 3 tháng 36 92,6 6 tháng 21 68,8 12 tháng 7 46,4 24 tháng 3 33,2 Tổng 42 100 Nhận xét. Thời gian sống thêm bệnh không tiến triển trung vị là 11,2 tháng. Đa số bệnh nhân tiến triển trong 12 tháng đầu sau điều trị. Tại thời điểm 24 tháng, xác suất bệnh không tiến triển là 33,2%. Biểu đồ 1. Sống thêm không bệnh tiến triển Liên quan giữa thời gian sống thêm bệnh không tiến triển với một số yếu tố Liên quan sống thêm không bệnh tiến triển với tuổi Biểu đồ 2. Liên quan sống thêm không tiến triển với tuổi Thời gian sống thêm không tiến triển có liên quan đến yếu tố nhóm tuổi, sự khác biệt giữa nhóm tuổi trẻ hơn 60 tuổi và lớn hơn 60 tuổi có ý nghĩa thống kê với p = 0,035. Liên quan sống thêm không bệnh tiến triển với giới Biểu đồ 3. Liên quan sống thêm không tiến triển với giới Thời gian sống thêm bệnh không tiến triển nhóm nam và nữ là như nhau với p=0,852. Liên quan sống thêm không bệnh tiến triển với loại mô bệnh học Biểu đồ 4. Liên quan sống thêm không tiến triển với loại mô bệnh học Không khác biệt với p = 0,441. Liên quan sống thêm không bệnh tiến triển với độ biệt hóa Biểu đồ 5. Liên quan sống thêm không tiến triển với độ mô học Không khác biệt với p = 0,434. TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 335 Liên quan sống thêm không bệnh tiến triển với chỉ số toàn trạng Biểu đồ 6. Liên quan sống thêm không tiến triển với chỉ số toàn trạng Không khác biệt với p = 0,942. Liên quan sống thêm không bệnh tiến triển với chỉ số CEA Biểu đồ 7. Liên quan sống thêm không tiến triển với chỉ số CEA Khác biệt với p = 0,047. Liên quan sống thêm không bệnh tiến triển với vị trí di cĕn Biểu đồ 8. Liên quan sống thêm không tiến triển với vị trí di cĕn Không khác biệt với p = 0,837. Liên quan sống thêm không bệnh tiến triển có phẫu thuật hay không Biểu đồ 9. Liên quan sống thêm không tiến triển với tình trạng phẫu thuật Không khác biệt với p = 0,726. Liên quan sống thêm không bệnh tiến triển với đáp ứng hóa chất bước một Không có khác biệt khi so sánh 3 nhóm đáp ứng bước một, p = 0,167. Các tác dụng không mong muốn Bảng 4. Tác dụng không mong muốn trên huyết học Các chỉ số Tác dụng không mong muốn Độ 0 (%) Độ 1 (%) Độ 2 (%) Độ 3 (%) Độ 4 (%) Thiếu máu 15 (35,7) 20 (47,6) 7 (16,7) 0 (0) 0 (0) Hạ BC 37 (88,1) 3 (7,1) 2 (4,8) 0 (0) 0 (0) Hạ BC hạt 36 (85,7) 4 (9,5) 2 (4,8) 0 (0) 0 (0) Hạ TC 33 (78,6) 8 (19,0) 1(2,4) 0 (0) 0 (0) Nhận xét: 47,6% bệnh nhân có thiếu máu độ 1, hạ bạch cầu, hạ bạch cầu hạt và hạ tiểu cầu chiếm tỉ lệ thấp và chủ yếu ở mức độ 1. TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 336 Bảng 5. Tác dụng không mong muốn trên gan và thận Các chỉ số Tác dụng không mong muốn Độ 0 (%) Độ 1 (%) Độ 2 (%) Độ 3 (%) Độ 4 (%) AST 30 (71,4) 10 (23,8) 2 (4,8) 0 (0) 0 (0) ALT 36 (85,7) 5 (11,9) 1 (2,4) 0 (0) 0 (0) Bilirubin 32 (76,2) 10 (23,8) 0 (0) 0 (0) 0 (0) Ure 40 (95,2) 2 (4,8) 0 (0) 0 (0) 0 (0) Creatinin 37 (88,1) 5 (11,9) 0 (0) 0 (0) 0 (0) Nhận xét. Độc tính gan, thận ít gặp, chủ yếu ở mức độ 1, có 2 bệnh nhân có độc tính gan độ 2, chiếm tỉ lệ 4,8%. Bảng 6. Tác dụng không mong muốn khác Các chỉ số Tác dụng không mong muốn Độ 0 (%) Độ 1 (%) Độ 2 (%) Độ 3 (%) Độ 4 (%) Chán ĕn 15 (35,7) 19 (45,2) 8 (19,1) 0 (0) 0 (0) Buồn nôn, nôn 33 (78,6) 6 (14,3) 3 (7,1) 0 (0) 0 (0) Ỉa chảy 35 (83,3) 7 (16,7) 0 (0) 0 (0) 0 (0) Táo bón 37 (88,1) 5 (11,9) 0 (0) 0 (0) 0 (0) Hội chứng bàn tay bàn chân 5 (11,9) 20 (47,6) 10 (23,8) 7 (16,7) 0 (0) ... ứng hoàn toàn; theo Lu và cộng sự bệnh ổn định chiếm 76,7%, đáp ứng một phần và toàn bộ lần lượt là 16,7%, 6,7%; trong nghiên cứu của Eren thì không ghi nhân trường hợp nào đáp ứng hoàn toàn, đáp ứng một phần chiếm 81,1%, bệnh ổn định là 18,9%, tuy nhiên nghiên cứu này chỉ có 11 được chọn vào để phân tích. Kết quả điều trị hóa chất bước một đạt đáp ứng tối thiểu bệnh ổn định là điều kiện tiên quyết để chuyển sang điều trị duy trì, ở giai đoạn muộn thì khả nĕng đáp ứng bệnh sẽ kém hơn do tổn thương lan rộng, di cĕn xa. Phần lớn bệnh nhân chỉ duy trì được sự ổn định bệnh, rất ít người đạt đáp ứng bệnh hoàn toàn. Kết quả điều trị Mục tiêu điều trị quan trọng đối với các bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn muộn là cải thiện triệu chứng và kéo dài thời gian sống thêm cho bệnh nhân. Lợi ích sống còn của điều trị hóa chất so với chĕm sóc giảm nhẹ đơn thuần cũng đã được nghiên cứu trong nhóm bệnh ung thư dạ dày tiến triển, tái phát và di cĕn. Nghiên cứu so sánh ngẫu nhiên đã cho thấy thời gian sống thêm bệnh không tiến triển TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 337 (5 tháng so với 2 tháng) dài hơn ở đối tượng có điều trị hóa chất. Nhiều bệnh nhân điều trị hóa chất (45%) có chất lượng cuộc sống được cải thiện hoặc ở mức cao kéo dài hơn so với nhóm bệnh nhân không điều trị hóa chất (20%). Câu hỏi được đặt ra là sau khi bệnh nhân đạt được đáp ứng tối đa sau khi điều trị hóa chất bước một, thì lựa chọn tiếp theo cho bệnh nhân là như thế nào? Điều trị duy trì Capecitabine đã được nghiên cứu trong bệnh ung thư dạ dày giai đoạn muộn sau khi điều trị hóa chất tấn công bước một đạt bệnh ổn định hay lui bệnh. Trong các nghiên cứu được tiến hành, cho thấy có sự cải thiện về thời gian sống thêm toàn bộ cũng như thời gian sống thêm bệnh không tiến triển; đồng thời là khả nĕng dung nạp tốt hơn, bệnh nhân uống thuốc tại nhà, độc tính chấp nhận được giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng đặt trọng tâm vào đánh giá thời gian sống thêm bệnh không tiến triển với những bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn muộn có điều trị duy trì capecitabine. Theo nghiên cứu của chúng tôi, trung vị PFS là 11,2 tháng. Kết quả của chúng tôi khá tương đồng với các báo cáo của Lu là 11 tháng, Qiu là 11,4 tháng và Eren là 10,4 tháng[14,15]. Trong nghiên cứu của Qiu, nhóm không điều trị capecitabine mà chỉ nhận chĕm sóc giảm nhẹ đơn thuần trung vị PFS chỉ đạt 7,1 tháng, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Còn trong nghiên cứu của Gong và cộng sự, capecitabine điều trị duy trì được bắt đầu sau 6 chu kì hóa chất paclitaxel - capecitabine. Với 45 bệnh nhân nhận điều trị duy trì capecitabine OS ghi nhận được là 18 tháng, tác giả cũng báo cáo rằng không có yếu tố tiên lượng độc lập nào được tìm thấy liên quan đến OS[17]. Hiệu quả thực sự của capecitabine duy trì trong ung thư dạ dày tái phát di cĕn hiện đang còn gây nhiều tranh luận. Tuy nhiên từ thực tế bằng chứng nghiên cứu đã có, và lợi ích dung nạp tốt, dễ sử dụng, capecitabine hoặc một số chế phẩm khác của 5FU đường uống được ưu tiên sử dụng trong điều trị duy trì sau khi bệnh nhân đạt được đáp ứng tối đa với một phác đồ hóa chất bước một. Các yếu tố liên quan đến đáp ứng và thời gian sống thêm Tuổi và giới Qua phân tích cho thấy có sự liên quan giữa thời gian sống thêm bệnh không tiến triển và độ tuổi. Ở các bệnh nhân trong nhóm tuổi 60 có thời gian sống thêm bệnh không tiến triển dài hơn so với nhóm tuổi < 60. Bệnh nhân cao tuổi là thách thức với bác sĩ lâm sàng trong điều trị hóa chất, tuy nhiên với bản chất của capecitabine là thuốc uống, độc tính chấp nhận được với cả bệnh nhân lớn tuổi, nên được bệnh nhân chấp nhận điều trị hơn các phác đồ điều trị khác. Có khá nhiều nghiên cứu điều trị hóa chất trên đối tượng người cao tuổi cho kết quả khả quan, thậm chí còn thấy PFS không khác biệt với nhóm người trẻ tuổi. Tuy nhiên, nghiên cứu của Fanotto báo cáo tại hội nghị ASCO 2016 khi nghiên cứu yếu tố tiên lượng sống thêm của 868 bệnh nhân ung thư dạ dày tiến triển. Tác giả nhận thấy độ tuổi không phải là một yếu tố tiên lượng có ý nghĩa với cả PFS và OS. Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy về giới không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian sống thêm bệnh không tiến triển. Một số nghiên cứu quốc tế và trong nước cho thấy thời gian sống thêm bệnh không tiến triển ở nữ cao hơn nam giới, có thể do đặc điểm chung của nữ giới có tuổi thọ cao hơn, tuân thủ điều trị hơn, ít sử dụng các chất có nguy cơ cao như rượu, thuốc lá Loại mô bệnh học và độ mô học Theo các nghiên cứu đã báo cáo, ung thư biểu mô tế bào nhẫn và thể nhày có tiên lượng xấu hơn UTBM tuyến. Tuy nhiên theo nghiên cứu của chúng tôi, thời gian sống thêm không tiến triển liên quan không có ý nghĩa thống kê với loại mô bệnh học và độ mô học. Có thể do cỡ mẫu nghiên cứu nhỏ, thực hiện trên đối tượng bệnh tái phát, di cĕn, nên không đại diện được cho toàn quần thể các bệnh nhân ung thư dạ dày. Liên quan PFS và nồng độ CEA trước điều trị: trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm bệnh nhân CEA 5mg/mL trước điều trị có tỷ PFS dài hơn so với nhóm có CEA > 5mg/mL. Kết quả này có ý nghĩa thống kê với p = 0,047. Trong nhiều nghiên cứu khác, giá trị của CEA trong dự báo đáp ứng điều trị của bệnh với hóa chất cũng được khẳng định. Theo Reiter và cộng sự, tỷ lệ sống sau hai nĕm của những bệnh nhân ở giai đoạn III/IV với mức CEA < 4ng/mL và CEA 4ng/mL lần lượt là 29% và 14%. Phân tích gộp trên 14651 bệnh nhân, Deng đưa ra kết luận, tĕng CEA ở các bệnh nhân ung thư dạ dày đi kèm tiên lượng kém hơn so với nhóm không tĕng CEA, và nguy cơ tử vong tĕng gấp đôi ở những bệnh nhân này. Với những kết quả này, vấn đề tiên lượng trong ung thư dạ dày có thể dựa vào xét nghiệm CEA trước điều trị cũng như trong quá trình theo dõi đáp ứng của điều trị bệnh. Liên quan PFS với tình trạng vị trí di cĕn: Di cĕn phúc mạc và đa ổ được coi là yếu tố tiên lượng xấu trong UTDD, tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi không có sự khác biệt về PFS giữa các vị trí di cĕn cũng như tiến triển vùng. Có thể do cỡ mẫu nghiên cứu còn nhỏ nên không thấy được sự khác biệt. TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 338 Liên quan PFS với phẫu thuật triệu chứng: Trong NC của chúng tôi không có sự khác biệt về PFS giữa nhóm được phẫu thuật cắt dạ dày, u triệu chứng và nhóm không được phẫu thuật. Các yếu tố được cho là tốt khi bệnh nhân được cắt dạ dày bao gồm tổn thương tiến triển vùng, di cĕn gan, buồng trứng đơn ổ. Một số NC cho thấy cắt dạ dày ở bệnh nhân di cĕn phúc mạc ảnh hưởng xấu đến sống thêm của bệnh nhân. Có lẽ trong nghiên cứu rất nhiều bệnh nhân di cĕn phúc mạc, nên việc cắt dạ dày trên các bệnh nhân di cĕn phúc mạc cũng không đem lại hiệu quả về sống thêm? Liên quan PFS với hóa chất bước một: Đáp ứng sau điều trị hóa chất bước một có mối liên quan với thời gian đến khi bệnh tiến triển cũng như thời gian sống thêm toàn bộ trong bệnh ung thư dạ dày giai đoạn muộn. Trong nghiên cứu các bệnh nhân được chọn lựa có bệnh ổn định trở lên sau kết thúc hóa chất bước một để tiếp tục điều trị duy trì capeciatabine. Kết quả của chúng tôi cho thấy bệnh giữ ổn định có thời gian sống thêm bệnh không tiến triển trung bình cao hơn nhưng không có ý nghĩa thống kê. Một số tác dụng phụ Tác dụng không mong muốn trên huyết học Thiếu máu Trong nghiên cứu của chúng tôi thấy nếu tính chung thì có 27/42 bệnh nhân có tình trạng thiếu máu. Tỷ lệ bệnh nhân thiếu máu độ 1 và độ 2 lần lượt là 47,6% và 16,7%, không có bệnh nhân nào thiếu máu độ 3, 4. Mức độ thiếu máu của các bệnh nhân trong các nghiên cứu có sự khác nhau. Theo Qiu và công sự, tỷ lệ thiếu máu chiếm 87,5%, có 7,3% bệnh nhân thiếu máu độ 3, không gặp trường hợp thiếu máu độ 4[14]. Trong nghiên cứu của Eren thì có 9% bệnh nhân gặp thiếu máu độ 2 trở lên, khá tương đồng với kết quả của chúng tôi[15]. Với biểu hiện thiếu máu không cần truyền máu thì nhìn chung là chấp nhận được với việc duy trì hóa chất. Hạ bạch cầu Qua nghiên cứu của chúng tôi thấy 11,9% bệnh nhân có hạ bạch cầu, trong đó hạ độ 1 là 7,1%, độ 2 là 4,8% và không gặp bệnh nhân hạ BC độ 3, 4. Chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào sốt hạ bạch cầu trong nghiên cứu. Theo Qiu, tỷ lệ hạ bạch cầu chung là 23,4%, trong đó hạ độ 3 chiếm 9,4%, kết quả của nghiên cứu của Eren và Lu không ghi nhận trường hợp nào hạ bạch cầu độ 3 trở lên. Nói chung là tỷ lệ hạ bạch cầu khá tương đồng ở các nghiên cứu, mức độ chủ yếu là độ 1, 2, không cần trì hoãn hay giảm liều điều trị. Hạ tiểu cầu Hạ tiểu cầu có thể gây ra rất nhiều biến chứng nguy hiểm như: xuất huyết dưới da, niêm mạc, nội tạng và đặc biệt là xuất huyết não, có thể dẫn đến tử vong cho người bệnh. Ở nghiên cứu của chúng tôi, gặp 19% bệnh nhân hạ tiểu cầu độ 1, 1 bệnh nhân hạ tiểu cầu độ 2. Qiu và cộng sự ghi nhận có 26,1% trường hợp có hạ tiểu cầu, 12,5% bệnh nhân hạ tiểu cầu độ 3. Trong nghiên cứu của Lu thì có kết quả tương đồng với chúng tôi, tỷ lệ hạ tiểu cầu chung là 33,3%, chỉ có 1 bệnh nhân có hạ bạch cầu độ 3, chiếm 3,3%. Nhìn chung điều trị duy trì capecitabine là khá an toàn, sự ảnh hưởng lên tiểu cầu ít, an toàn cho bệnh nhân. Tác dụng phụ không mong muốn trên gan, thận Qua nghiên cứu chúng tôi thấy hóa chất sử dụng trong nghiên cứu ảnh hưởng đến chức nĕng gan, thận không nhiều. Kết quả cho thấy: Tĕng AST và ALT độ 1, độ 2 lần lượt là: 23,8% và 4,8% (độ 3); không có bệnh nhân tĕng men gan độ 3,4. Có 10 bệnh nhân có tĕng bilirubine độ 1, không phải trì hoãn điều trị. Đối với ung thư dạ dày tái phát di cĕn, tĕng bilirubine còn là một yếu tố rất cần được quan tâm trong trường hợp u hoặc hạch tái phát có chèn ép vào cuống gan gây tắc mật. Không có trường hợp nào tĕng ure và creatinine độ 2, độ 3, độ 4. Tỷ lệ tĕng độ 1 creatinin thấp với 11,9%, đây cũng là một yếu tố cần được theo dõi liên quan đến độ thanh thải creatinin và giảm liều capecitabine. Các bệnh nhân có độ thanh thải creatinin dưới 30mg/ml không có chỉ định tiếp tục điều trị capecitabine. Dank cũng báo cáo tỷ lệ tĕng AST là 27,2% (độ 3, 4: 2,5%), tĕng ALT là 29,7% (độ 3, 4: 3,2%), tĕng creatinin 9,3% (độ 3, 4: 0,6%). Như vậy tĕng men gan có tỷ lệ gặp nhiều hơn, nhưng mức độ không quá nghiêm trọng, đồng thời có thể điều chỉnh bằng các thuốc hạ men gan và truyền dịch. Cũng cần lưu ý đối với những bệnh nhân có nguy cơ tĕng men gan từ trước như viêm gan do rượu hay viêm gan do virus. Cần kiểm soát các yếu tố nguy cơ khác trước khi bắt đầu điều trị cho bệnh nhân. Bên cạnh đó, tác dụng không mong muốn lên thận hầu như không đáng kể nên khá an toàn với bệnh nhân. Một số tác dụng phụ không mong muốn khác Tác dụng không mong muốn có thể gặp trên hệ tiêu hóa bao gồm chán ĕn chiếm tỉ lệ trên 50%, tuy nhiên chủ yếu mức độ 1. Hội chứng bàn tay bàn chân (HFS): Là biểu hiện độc tính trên da và tổ chức dưới da khi điều trị bằng capecitabine. Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 88,1% bệnh nhân có hội chứng này, trong đó tỷ lệ gặp độ 1, độ 2, độ 3 là 47,6%; 23,8% và 16,7%, không có bệnh nhân độ 4. 5 bệnh nhân phải trì hoãn điều trị và giảm liều thuốc do hội chứng bàn tay bàn chân độ 3, 2 bệnh nhân TIÊU HÓA TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 339 phải giảm liều vì độc tính hội chứng bàn tay chân độ 3. Kết quả chúng tôi cao với các nghiên cứu khác về độ 1, 2. Theo kết quả nghiên cứu của Qiu thì tỷ lệ bệnh nhân có hội chứng bàn tay chân là 59,4%, độ 3, 4 là 4,7% và 1,6%[14]. Theo Eren và cộng sự thì HFS gặp ở 18% bệnh nhân, không có bệnh nhân nào biểu hiện độ 4[15]. Có thể do công tác dự phòng, chĕm sóc da cho bệnh nhân điều trị capecitabine được chú trọng hơn ở các nước phát triển nên tỉ lệ bệnh nhân có hội chứng tay chân độ 1, 2 thấp hơn. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 42 bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn IV hoặc tái phát di cĕn sau phẫu thuật, được điều trị hóa chất duy trì capecitabine sau hóa chất bước một tại bệnh viện K từ tháng 5 nĕm 2015 đến tháng 5/2018 chúng tôi xin rút ra một số kết luận sau: Kết quả điều trị Thời gian sống thêm bệnh không tiến triển trung vị là 11,2 tháng. Tại thời điểm 24 tháng, xác suất bệnh không tiến triển là 33,2%. Tác dụng không mong muốn của phác đồ Tỷ lệ BN thiếu máu độ 1 và 2 lần lượt là 47,6% và 16,7%; không có BN nào thiếu máu nặng độ 3, 4. Tỷ lệ BN hạ BC độ 1,2 lần lượt là 7,1% và 4,8%. Không có trường hợp BN hạ BC độ 3,4 hay sốt hạ bạch cầu. BN gặp hạ TC độ 1, 2 với tỷ lệ 19,0% và 2,4%. Không có bệnh nhân hạ tiểu cầu độ 3, 4. BN chỉ gặp tiêu chảy độ 1 với tỷ lệ 16,7%. Tỷ lệ nôn, buồn nôn 20,4%, chủ yếu là độ 1. Nghiên cứu có 23,8% BN biểu hiện HFS độ 2; 16,7% độ 3. Chủ yếu gặp HFS độ 1 với tỷ lệ 47,6%, không có bệnh nhân HFS độ 4. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. GLOBOCAN Cancer Fact Sheets: stomach Cancers. < omach-new.asp>, accessed: 04/07/2016. 2. Nguyễn Bá Đức, Đào Ngọc Phong (2008). Lịch sử nghiên cứu và tình hình bệnh ung thư. Dịch tễ học bệnh ung thư. Nhà xuất bản Y học, Hà nội. 3. Gastric Cancer- New Therapeutic Options - NEJM. < 121>, accessed: 23/07/2016. 4. D’Angelica M., Gonen M., Brennan M.F. và cộng sự. (2004). Patterns of Initial Recurrence in Completely Resected Gastric Adenocarcinoma. Ann Surg, 240(5), 808 - 816. 5. Yoo C.H., Noh S.H., Shin D.W. và cộng sự. (2000). Recurrence following curative resection for gastric carcinoma. Br J Surg, 87 (2), 236 - 242. 6. NCCN - Evidence-Based Cancer Guidelines, Oncology Drug Compendium, Oncology Continuing Medical Education. , accessed: 13/06/2016. 7. O’Sullivan B., Brierley J., và International Union against Cancer, btv. (2015). Stomach. UICC manual of clinical oncology. Ninth edition, John Wiley and Sons, Ltd, Chichester, West Sussex, UK; Hoboken, NJ. 8. Glimelius B., Ekström K., Hoffman K. và cộng sự. (1997). Randomized comparison between chemotherapy plus best supportive care with best supportive care in advanced gastric cancer. Ann Oncol, 8 (2), 163 - 168. 9. Casaretto L., Sousa P.L.R., và Mari J.J. (2006). Chemotherapy versus support cancer treatment in advanced gastric cancer: a meta-analysis. Braz J Med Biol Res, 39 (4), 431 - 440. 10. Thuss-Patience P.C., Kretzschmar A., Bichev D. và cộng sự. (2011). Survival advantage for irinotecan versus best supportive care as second-line chemotherapy in gastric cancer--a randomised phase III study of the Arbeitsgemeinschaft Internistische Onkologie (AIO). Eur J Cancer, 47(15), 2306 - 2314. 11. Kang J.H., Lee S.I., Lim D.H. và cộng sự. (2012). Salvage chemotherapy for pretreated gastric cancer: a randomized phase III trial comparing chemotherapy plus best supportive care with best supportive care alone. J Clin Oncol, 30 (13), 1513 - 1518.
File đính kèm:
danh_gia_hieu_qua_cua_capecitabine_duy_tri_trong_ung_thu_da.pdf

