Đánh giá hiệu quả của capecitabine duy trì trong ung thư dạ dày giai đoạn muộn sau điều trị bước một

Mục tiêu: Đánh giá thời gian đến khi bệnh tiến triển trong điều trị ung thư dạ dày sau điều trị hóa chất

bước một bằng capecitabine và ghi nhận một số tác độc tính của phác đồ.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 42 bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn IV hoặc tái phát di căn

sau phẫu thuật, được điều trị hóa chất duy trì capecitabine sau hóa chất bước một tại bệnh viện K.

Phương pháp nghiên cứu: Mô tả, hồi cứu kết hợp tiến cứu.

Kết quả: Nghiên cứu tiến hành trên 42 bệnh nhân ung thư dạ dày tái phát di căn, có 29 bệnh nhân nam,

13 bệnh nhân nữ. Tuổi trung bình là 55,6, trong đó bệnh nhân trẻ tuổi nhất là 25, lớn tuổi nhất là 75. Đa số

bệnh nhân trong nghiên cứu được sử dụng hóa chất phác đồ XELOX. Thời gian sống thêm bệnh không tiến

triển (PFS) trung vị là 11,2 tháng. Thời gian đến khi bệnh tiến triển liên quan đến đến nhóm tuổi, PFS tốt hơn ở

nhóm người ≤ 60 tuổi, nồng độ CEA trước điều trị, không liên quan đến các yếu tố như giới, vị trí di căn, đáp

ứng hóa chất ban đầu, chỉ số toàn trạng, loại mô học hay độ mô học. Về tác dụng không mong muốn của phác

đồ, không có BN nào thiếu máu nặng, hạ bạch cầu, tiểu cầu độ 3, 4 hay tỷ lệ BN hạ BC độ 1,2 lần lượt là 7,1%

và 4,8%. BN gặp hạ TC độ 1, 2 với tỷ lệ 19,0% và 2,4%. Nghiên cứu có 23,8 % BN biểu hiện hội chứng tay

chân độ 2; 16,7% độ 3.

pdf 9 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá hiệu quả của capecitabine duy trì trong ung thư dạ dày giai đoạn muộn sau điều trị bước một", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hiệu quả của capecitabine duy trì trong ung thư dạ dày giai đoạn muộn sau điều trị bước một

Đánh giá hiệu quả của capecitabine duy trì trong ung thư dạ dày giai đoạn muộn sau điều trị bước một
TIÊU HÓA 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
331 
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CAPECITABINE DUY TRÌ TRONG 
UNG THƯ DẠ DÀY GIAI ĐOẠN MUỘN SAU ĐIỀU TRỊ BƯỚC MỘT 
PHÙNG THỊ HUYỀN1, NGUYỄN THỊ HÒA2, NGUYỄN VĔN TÀI3, 
NGUYỄN VĔN HÙNG3, NGUYỄN THANH LONG4 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá thời gian đến khi bệnh tiến triển trong điều trị ung thư dạ dày sau điều trị hóa chất 
bước một bằng capecitabine và ghi nhận một số tác độc tính của phác đồ. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 42 bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn IV hoặc tái phát di cĕn 
sau phẫu thuật, được điều trị hóa chất duy trì capecitabine sau hóa chất bước một tại bệnh viện K. 
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả, hồi cứu kết hợp tiến cứu. 
Kết quả: Nghiên cứu tiến hành trên 42 bệnh nhân ung thư dạ dày tái phát di cĕn, có 29 bệnh nhân nam, 
13 bệnh nhân nữ. Tuổi trung bình là 55,6, trong đó bệnh nhân trẻ tuổi nhất là 25, lớn tuổi nhất là 75. Đa số 
bệnh nhân trong nghiên cứu được sử dụng hóa chất phác đồ XELOX. Thời gian sống thêm bệnh không tiến 
triển (PFS) trung vị là 11,2 tháng. Thời gian đến khi bệnh tiến triển liên quan đến đến nhóm tuổi, PFS tốt hơn ở 
nhóm người ≤ 60 tuổi, nồng độ CEA trước điều trị, không liên quan đến các yếu tố như giới, vị trí di cĕn, đáp 
ứng hóa chất ban đầu, chỉ số toàn trạng, loại mô học hay độ mô học. Về tác dụng không mong muốn của phác 
đồ, không có BN nào thiếu máu nặng, hạ bạch cầu, tiểu cầu độ 3, 4 hay tỷ lệ BN hạ BC độ 1,2 lần lượt là 7,1% 
và 4,8%. BN gặp hạ TC độ 1, 2 với tỷ lệ 19,0% và 2,4%. Nghiên cứu có 23,8 % BN biểu hiện hội chứng tay 
chân độ 2; 16,7% độ 3. 
Kết luận: Điều trị duy trì capecitabine sau điều trị bước một cho hiệu quả thời gian sống thêm bệnh không 
tiến triển cao và dung nạp tốt. 
Từ khóa: Ung thư dạ dày giai đoạn muộn, điều trị duy trì capecitabine. 
ABTRACT 
Effectiveness of capecitabine maintenance in advanced gastric cancer after first - line chemotherapy 
Objectives: To evaluate progression - free survival in advanced gastric cancer after first - line 
chemotherapy by capecitabine maintenance, and to report toxicity profile of this regimen. 
Patients and methods: There were 42 patients with stage IV or recurrent/metastatic gastric cancer treated 
with capecitabine maintenance after first - line chemotherapy at National Cancer Hospital. This was descriptive 
study. 
Results: There were 29 men and 13 women in this study. The average age was 55.6, whereas the 
youngest patient was 25 and the oldest patient was 75. Most patients in this study were treated with XELOX 
regimen. After first-line chemotherapy, stable disease rate was 21.4%, partial response rate was 71.4%, and 
complete response was 7.2%. Median progression-free survival (PFS) was 11.2 months. PFS was related to 
age, PFS was longer in patients ≤ 60 tuổi, baseline CEA, and not associated with sex, sites of metastasis, firs - 
line chemotherapy response, performance status, histological types, and grades. About toxicity profiles, there 
was no patient with severe anemia, neutropenia, and thrombopenia (grade 3 and 4). Rate of grade 1, 2 
neutropenia were 7.1 % and 4.8%, respectively. Patients with grade 1, 2 thrombopenia were 19.0% and 2.4%, 
respectively. There were 23.8 % and 16.7% of patients suffering from grade 2 and 3 hand-foot syndrome. 
1
 TS.BS. Khoa Nội 6 - Bệnh viện K 
2
 BSNT. Khoa Nội 6 - Bệnh viện K 
3
 ThS.BSNT. Bộ môn Ung thư, Trường Đại học Y Hà Nội 
4
 BSNT. Bộ môn Ung thư, Trường Đại học Y Hà Nội 
TIÊU HÓA 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
332 
Conclusion: Capecitabine maintenance after first-line chemotherapy showed improved PFS and good 
tolerance. 
Key words: Advanced gastric cancer, capecitabine maintenance. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư dạ dày đứng thứ nĕm trong số các 
bệnh ung thư thường gặp trên toàn thế giới và là 
nguyên nhân tử vong thứ ba do bệnh lý ung thư ở 
cả hai giới. Tỷ lệ mắc cao nhất ở Đông Á (chủ yếu ở 
Trung Quốc), Đông Âu, Trung Âu, Nam Mỹ[1]. 
Tại Việt Nam, ung thư dạ dày là loại ung thư khá phổ 
biến, đứng thứ hai sau ung thư phổi ở nam và đứng 
thứ ba sau ung thư vú, cổ tử cung ở nữ giới; chiếm 
13,5% trong tổng số các bệnh ung thư[2]. 
Phẫu thuật đóng vai trò chủ yếu trong điều trị 
ung thư dạ dày, cũng giống như hầu hết các ung thư 
tiêu hóa khác. Tuy nhiên, bệnh thường được chẩn 
đoán ở giai đoạn muộn do triệu chứng lâm sàng 
không điển hình. Hầu hết các trường hợp ung thư 
dạ dày phát hiện ở giai đoạn còn khả nĕng phẫu 
thuật thường đã có xâm lấn tại chỗ (khối u đã xâm 
lấn các lớp thành dạ dày hoặc vượt quá thành 
dạ dày hoặc có di cĕn hạch quanh dạ dày). Những 
trường hợp này có nguy cơ tái phát, di cĕn cao sau 
phẫu thuật[3]. Các nghiên cứu ở Mỹ và Hàn Quốc 
cho thấy ung thư dạ dày có thể tái phát tại chỗ, 
tại vùng hoặc tái phát, di cĕn xa; tỷ lệ tái phát thay 
đổi 25% đến 48% giữa các nghiên cứu[4,5]. Việc xác 
định vị trí tái phát cũng như xem xét thể trạng bệnh 
nhân liên quan trực tiếp đến việc lựa chọn phác đồ 
điều trị, trong đó hóa trị là phương pháp điều trị quan 
trọng với mục đích giảm triệu chứng và kéo dài thời 
gian sống cho bệnh nhân[6,7]. 
Lợi ích sống còn của điều trị hóa chất so với 
chĕm sóc triệu chứng đơn thuần đã được nghiên 
cứu trong nhóm bệnh nhân ung thư dạ dày tái, 
di cĕn cho thấy hoá chất làm tĕng thời gian sống 
thêm của bệnh nhân[8,9,10,11]. Một số phác đồ được 
khuyến cáo trong điều trị bước ung thư dạ dày tái 
phát, di cĕn với vai trò quan trọng của hóa chất 
fluorouracil như: cisplastin và fluorouracil (CF) có 
hoặc không kết hợp trastuzumab; epirubicin, 
cisplatin và capecitabine (ECX); epirubicin, 
oxaliplatine và capecitabin (EOX), capecitabine và 
oxaliplatin (XELOX)[12,13]. Sau điều trị bước một 
đạt đáp ứng tối đa, điều trị hóa chất capecitabine 
duy trì đã được chứng minh có hiệu quả trong nhiều 
nghiên cứu cho thấy tĕng sống thêm và chất lượng 
sống cho bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn tái 
phát, di cĕn, hiệu quả về thời gian sống thêm bệnh 
không tiến triển (PFS) tĕng từ khoảng 7 tháng ở 
nhóm theo dõi lên 11 tháng ở nhóm được điều trị 
duy trì[14,15,16,17,18,19]. 
Tại Việt Nam, capecitabine duy trì được sử 
dụng rộng rãi trong điều trị ung thư vú, ung thư đại 
trực tràng, và gần đây là ung thư dạ dày giai đoạn 
tiến triển sau điều trị hóa chất bước một. Tuy nhiên 
chưa có nghiên cứu chứng minh hiệu quả và mức 
độ an toàn của hóa chất capecitabine duy trì trên 
bệnh nhân ung thư dạ dày tái phát di cĕn sau khi đạt 
được đáp ứng hóa chất bước một tại Bệnh viện K. 
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với 
hai mục tiêu: 
1. Đánh giá thời gian sống thêm bệnh không 
tiến triển trong điều trị ung thư dạ dày sau điều trị 
hóa chất bước một. 
2. Ghi nhận một số tác độc tính của phác đồ 
điều trị. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
42 bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn IV hoặc 
tái phát di cĕn sau phẫu thuật, được điều trị hóa chất 
duy trì capecitabine sau hóa chất bước một tại bệnh 
viện K từ tháng 5 nĕm 2015 đến tháng 5/2018. 
Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân 
Bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định ung 
thư dạ dày giai đoạn IV hoặc tái phát di cĕn sau 
phẫu thuật, điều trị hóa chất bước một đạt đáp ứng 
hoặc bệnh giữ nguyên. 
Giải phẫu bệnh là ung thư biểu mô tuyến. 
Chẩn đoán xác định ung thư dạ dày tái phát, 
di cĕn dựa trên chẩn đoán hình ảnh và/ hoặc mô 
bệnh học. 
Chỉ số toàn trạng từ 0-2 theo thang điểm 
ECOG. 
Chức nĕng tủy xương, chức nĕng gan thận 
bình thường. 
BN không mắc các bệnh cấp và mạn tính trầm 
trọng. 
Có hồ sơ lưu trữ đầy đủ. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân không đủ các tiêu chuẩn trên. 
Bệnh nhân có nguy cơ tử vong gần do các bệnh 
trầm trọng khác (bệnh tim mạch, rối loạn tâm thần, 
nhiễm trùng cấp, ung thư khác đang tiến triển). 
TIÊU HÓA 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
333 
- Bệnh nhân bỏ điều trị không phải vì lý do 
chuyên môn. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi 
cứu kết hợp với tiến cứu. 
Các bước tiến hành 
Bước 1: Lựa chọn bệnh nhân theo đúng các 
tiêu chuẩn lựa chọn và ghi nhận các đặc điểm lâm 
sàng, cận lâm sàng trước điều trị. 
Bước 2: Tiến hành điều trị: các bệnh nhân 
được điều trị với phác đồ hóa chất uống capecitabin 
1000mg/m2, 2 liều/ngày trong 14 ngày, chu kì 21 
ngày. Trong quá trình điều trị, nếu bệnh nhân xuất 
hiện các tác dụng không mong muốn, bệnh nhân sẽ 
được tạm dừng điều trị hoá chất, xử lý tác dụng 
không mong muốn và theo dõi sát. Khi tình trạng ổn 
định, đánh giá có thể tiếp tục điều trị hoá chất, bệnh 
nhân sẽ được tiếp tục điều trị theo đúng phác đồ. 
Bệnh nhân được duy trì điều trị phác đồ hóa chất 
đến khi bệnh tiến triển hoặc tác dụng không mong 
muốn không chấp nhận được. 
Bước 3: Đánh giá hiệu quả điều trị. 
Đánh giá thời gian sống không bệnh tiến triển 
(PFS): là khoảng thời gian được tính từ khi bắt đầu 
điều trị tới khi bệnh tiến triển. 
Đánh giá bệnh tiến triển: dựa vào các triệu 
chứng lâm sàng, các xét nghiệm như chụp X-quang 
phổi, X-quang xương, chụp CT lồng ngực, CT/MRI 
sọ não, siêu âm ổ bụng, tế bào hạch ngoại vi, dịch 
màng phổi, định lượng CEA. 
Đánh giá các độc tính dựa vào tiêu chuẩn phân 
độ độc tính thuốc chống ung thư của Viện Ung thư 
Quốc gia Mỹ (CTCAE 4.0). 
Thu thập và xử lý số liệu 
Nhập số liệu, làm sạch, mã hóa số liệu bằng 
phần mềm SPSS 16.0. 
Phương pháp thống kê được sử dụng bao gồm: 
Trung bình, độ lệch chuẩn, so sánh tỷ lệ: Test Chi 
square. Giá trị p ≤ 0,05 được coi là có ý nghĩa thống 
kê. 
Đánh giá thời gian sống không bệnh tiến triển 
bằng phương pháp Kaplan - Meier. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng 
Đặc điểm chung 
Tuổi trung bình 55,6 ± 10,8, tuổi cao nhất 
75 tuổi, tuổi thấp nhất 25 tuổi. 
Nhóm tuổi thường gặp nhất là nhóm 50 - 59 tuổi 
chiếm tỉ lệ 38,1%. 
Tỷ lệ nam/nữ: 2,2/1. 
Tỉ lệ bệnh nhân có chỉ số toàn trạng (PS) 1 là 
59,5%, PS 2 là 40,5%. 
Bảng 1. Tỉ lệ bệnh nhân giai đoạn tiến xa tại chỗ và 
vị trí di cĕn 
Vị trí Số bệnh nhân Tỷ lệ (%) 
Giai đoạn tiến xa tại chỗ 8 19,0 
Di cĕn gan 8 19,0 
Di cĕn phúc mạc 17 40,5 
Di cĕn nơi khác 9 21,5 
Tổng 42 100 
Nhận xét: 40,5% bệnh nhân di cĕn phúc mạc, 
19% bệnh nhân giai đoạn tiến xa tại chỗ, tại vùng, 
19% bệnh nhân di cĕn gan. 
Bảng 2. Đặc điểm mô bệnh học 
 Đặc điểm Số bệnh 
nhân 
Tỷ lệ % 
Mô 
bệnh 
học 
Carcinome tuyến 29 69,0 
Carcinome tuyến nhầy 3 7,1 
Carcinome tế bào nhẫn 10 23,8 
Độ mô 
học 
Cao 0 0 
Vừa 13 31,0 
Thấp 29 69,0 
Tổng 42 100 
Nhận xét. Ung thư biểu mô tuyến chiếm tỉ lệ cao 
nhất 69,0%. Độ mô học thấp chiếm tỉ lệ cao nhất 
69,0%. 
Bảng 3. Phác đồ hóa chất và đáp ứng với phác đồ 
ban đầu 
 Đặc điểm Số bệnh nhân Tỷ lệ % 
Phác đồ 
bước 1 
XELOX 21 50,0 
EOX 11 26,2 
Phác đồ khác 10 23,8 
Đáp ứng 
Hoàn toàn 3 7,2 
Một phần 30 71,4 
Bệnh giữ nguyên 9 21,4 
Tổng 42 100 
Nhận xét. 50% bệnh nhân được điều trị hóa 
chất bước một phác đồ XELOX, đa số các bệnh 
nhân đạt đáp ứng một phần sau điều trị bước một 
chiếm tỉ lệ 71,4%. 
TIÊU HÓA 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
334 
Kết quả điều trị 
Số chu kì điều trị 
Tổng số chu kì là 470 chu kì, số chu kì điều trị 
trung bình là 11,1 ± 10,9 chu kì. Bệnh nhân điều trị 
dài nhất là 48 chu kì, bệnh nhân được điều trị ngắn 
nhất là 3 chu kì. 
Thời gian sống thêm không tiến triển 
Bảng 4. Thời gian sống thêm không tiến triển 
Thời điểm Số bệnh nhân Tỷ lệ % 
3 tháng 36 92,6 
6 tháng 21 68,8 
12 tháng 7 46,4 
24 tháng 3 33,2 
Tổng 42 100 
Nhận xét. Thời gian sống thêm bệnh không tiến 
triển trung vị là 11,2 tháng. Đa số bệnh nhân tiến 
triển trong 12 tháng đầu sau điều trị. Tại thời điểm 
24 tháng, xác suất bệnh không tiến triển là 33,2%. 
Biểu đồ 1. Sống thêm không bệnh tiến triển 
Liên quan giữa thời gian sống thêm bệnh không 
tiến triển với một số yếu tố 
Liên quan sống thêm không bệnh tiến triển với tuổi 
Biểu đồ 2. Liên quan sống thêm không tiến triển 
với tuổi 
Thời gian sống thêm không tiến triển có liên 
quan đến yếu tố nhóm tuổi, sự khác biệt giữa nhóm 
tuổi trẻ hơn 60 tuổi và lớn hơn 60 tuổi có ý nghĩa 
thống kê với p = 0,035. 
Liên quan sống thêm không bệnh tiến triển với giới 
Biểu đồ 3. Liên quan sống thêm không tiến triển 
với giới 
Thời gian sống thêm bệnh không tiến triển 
nhóm nam và nữ là như nhau với p=0,852. 
Liên quan sống thêm không bệnh tiến triển với loại 
mô bệnh học 
Biểu đồ 4. Liên quan sống thêm không tiến triển với 
loại mô bệnh học 
Không khác biệt với p = 0,441. 
Liên quan sống thêm không bệnh tiến triển với độ 
biệt hóa 
Biểu đồ 5. Liên quan sống thêm không tiến triển 
với độ mô học 
Không khác biệt với p = 0,434. 
TIÊU HÓA 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
335 
Liên quan sống thêm không bệnh tiến triển với chỉ số 
toàn trạng 
Biểu đồ 6. Liên quan sống thêm không tiến triển 
với chỉ số toàn trạng 
Không khác biệt với p = 0,942. 
Liên quan sống thêm không bệnh tiến triển với chỉ số 
CEA 
Biểu đồ 7. Liên quan sống thêm không tiến triển 
với chỉ số CEA 
Khác biệt với p = 0,047. 
Liên quan sống thêm không bệnh tiến triển với vị trí 
di cĕn 
Biểu đồ 8. Liên quan sống thêm không tiến triển 
với vị trí di cĕn 
Không khác biệt với p = 0,837. 
Liên quan sống thêm không bệnh tiến triển có phẫu 
thuật hay không 
Biểu đồ 9. Liên quan sống thêm không tiến triển với 
tình trạng phẫu thuật 
Không khác biệt với p = 0,726. 
Liên quan sống thêm không bệnh tiến triển với đáp 
ứng hóa chất bước một 
Không có khác biệt khi so sánh 3 nhóm đáp 
ứng bước một, p = 0,167. 
Các tác dụng không mong muốn 
Bảng 4. Tác dụng không mong muốn trên huyết học 
Các 
chỉ số 
Tác dụng không mong muốn 
Độ 0 
(%) 
Độ 1 
(%) 
Độ 2 
(%) 
Độ 3 
(%) 
Độ 4 
(%) 
Thiếu 
máu 
15 
(35,7) 
20 
(47,6) 
7 (16,7) 0 (0) 0 (0) 
Hạ BC 37 
(88,1) 
3 (7,1) 2 (4,8) 0 (0) 0 (0) 
Hạ BC 
hạt 
36 
(85,7) 
4 (9,5) 2 (4,8) 0 (0) 0 (0) 
Hạ TC 33 
(78,6) 
8 (19,0) 1(2,4) 0 (0) 0 (0) 
Nhận xét: 47,6% bệnh nhân có thiếu máu độ 1, 
hạ bạch cầu, hạ bạch cầu hạt và hạ tiểu cầu chiếm tỉ 
lệ thấp và chủ yếu ở mức độ 1. 
TIÊU HÓA 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
336 
Bảng 5. Tác dụng không mong muốn 
trên gan và thận 
Các chỉ 
số 
Tác dụng không mong muốn 
Độ 0 (%) Độ 1 (%) Độ 2 
(%) 
Độ 3 
(%) 
Độ 4 
(%) 
AST 30 (71,4) 10 (23,8) 2 (4,8) 0 (0) 0 (0) 
ALT 36 (85,7) 5 (11,9) 1 (2,4) 0 (0) 0 (0) 
Bilirubin 32 (76,2) 10 (23,8) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 
Ure 40 (95,2) 2 (4,8) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 
Creatinin 37 (88,1) 5 (11,9) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 
Nhận xét. Độc tính gan, thận ít gặp, chủ yếu ở 
mức độ 1, có 2 bệnh nhân có độc tính gan độ 2, 
chiếm tỉ lệ 4,8%. 
Bảng 6. Tác dụng không mong muốn khác 
Các chỉ 
số 
Tác dụng không mong muốn 
Độ 0 
(%) 
Độ 1 
(%) 
Độ 2 
(%) 
Độ 3 
(%) 
Độ 4 
(%) 
Chán ĕn 15 
(35,7) 
19 
(45,2) 
8 (19,1) 0 (0) 0 (0) 
Buồn nôn, 
nôn 
33 
(78,6) 
6 (14,3) 3 (7,1) 0 (0) 0 (0) 
Ỉa chảy 35 
(83,3) 
7 (16,7) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 
Táo bón 
37 
(88,1) 
5 (11,9) 0 (0) 0 (0) 0 (0) 
Hội chứng 
bàn tay 
bàn chân 
5 (11,9) 
20 
(47,6) 
10 
(23,8) 
7 (16,7) 0 (0) 
 ...  ứng hoàn toàn; theo Lu và cộng sự bệnh ổn 
định chiếm 76,7%, đáp ứng một phần và toàn bộ lần 
lượt là 16,7%, 6,7%; trong nghiên cứu của Eren thì 
không ghi nhân trường hợp nào đáp ứng hoàn toàn, 
đáp ứng một phần chiếm 81,1%, bệnh ổn định là 
18,9%, tuy nhiên nghiên cứu này chỉ có 11 được 
chọn vào để phân tích. Kết quả điều trị hóa chất 
bước một đạt đáp ứng tối thiểu bệnh ổn định là điều 
kiện tiên quyết để chuyển sang điều trị duy trì, ở giai 
đoạn muộn thì khả nĕng đáp ứng bệnh sẽ kém hơn 
do tổn thương lan rộng, di cĕn xa. Phần lớn bệnh 
nhân chỉ duy trì được sự ổn định bệnh, rất ít người 
đạt đáp ứng bệnh hoàn toàn. 
Kết quả điều trị 
Mục tiêu điều trị quan trọng đối với các bệnh 
nhân ung thư dạ dày giai đoạn muộn là cải thiện 
triệu chứng và kéo dài thời gian sống thêm cho bệnh 
nhân. Lợi ích sống còn của điều trị hóa chất so với 
chĕm sóc giảm nhẹ đơn thuần cũng đã được nghiên 
cứu trong nhóm bệnh ung thư dạ dày tiến triển, tái 
phát và di cĕn. Nghiên cứu so sánh ngẫu nhiên đã 
cho thấy thời gian sống thêm bệnh không tiến triển 
TIÊU HÓA 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
337 
(5 tháng so với 2 tháng) dài hơn ở đối tượng có điều 
trị hóa chất. Nhiều bệnh nhân điều trị hóa chất (45%) 
có chất lượng cuộc sống được cải thiện hoặc ở mức 
cao kéo dài hơn so với nhóm bệnh nhân không điều 
trị hóa chất (20%). Câu hỏi được đặt ra là sau khi 
bệnh nhân đạt được đáp ứng tối đa sau khi điều trị 
hóa chất bước một, thì lựa chọn tiếp theo cho bệnh 
nhân là như thế nào? 
Điều trị duy trì Capecitabine đã được nghiên 
cứu trong bệnh ung thư dạ dày giai đoạn muộn sau 
khi điều trị hóa chất tấn công bước một đạt bệnh ổn 
định hay lui bệnh. Trong các nghiên cứu được tiến 
hành, cho thấy có sự cải thiện về thời gian sống 
thêm toàn bộ cũng như thời gian sống thêm bệnh 
không tiến triển; đồng thời là khả nĕng dung nạp tốt 
hơn, bệnh nhân uống thuốc tại nhà, độc tính chấp 
nhận được giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của 
bệnh nhân. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi 
cũng đặt trọng tâm vào đánh giá thời gian sống thêm 
bệnh không tiến triển với những bệnh nhân ung thư 
dạ dày giai đoạn muộn có điều trị duy trì 
capecitabine. Theo nghiên cứu của chúng tôi, trung 
vị PFS là 11,2 tháng. Kết quả của chúng tôi khá 
tương đồng với các báo cáo của Lu là 11 tháng, 
Qiu là 11,4 tháng và Eren là 10,4 tháng[14,15]. Trong 
nghiên cứu của Qiu, nhóm không điều trị 
capecitabine mà chỉ nhận chĕm sóc giảm nhẹ đơn 
thuần trung vị PFS chỉ đạt 7,1 tháng, sự khác biệt 
này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Còn trong 
nghiên cứu của Gong và cộng sự, capecitabine điều 
trị duy trì được bắt đầu sau 6 chu kì hóa chất 
paclitaxel - capecitabine. Với 45 bệnh nhân nhận 
điều trị duy trì capecitabine OS ghi nhận được là 
18 tháng, tác giả cũng báo cáo rằng không có yếu tố 
tiên lượng độc lập nào được tìm thấy liên quan đến 
OS[17]. Hiệu quả thực sự của capecitabine duy trì 
trong ung thư dạ dày tái phát di cĕn hiện đang còn 
gây nhiều tranh luận. Tuy nhiên từ thực tế bằng 
chứng nghiên cứu đã có, và lợi ích dung nạp tốt, dễ 
sử dụng, capecitabine hoặc một số chế phẩm khác 
của 5FU đường uống được ưu tiên sử dụng trong 
điều trị duy trì sau khi bệnh nhân đạt được đáp ứng 
tối đa với một phác đồ hóa chất bước một. 
Các yếu tố liên quan đến đáp ứng và thời gian 
sống thêm 
Tuổi và giới 
Qua phân tích cho thấy có sự liên quan giữa 
thời gian sống thêm bệnh không tiến triển và độ tuổi. 
Ở các bệnh nhân trong nhóm tuổi 60 có thời gian 
sống thêm bệnh không tiến triển dài hơn so với 
nhóm tuổi < 60. Bệnh nhân cao tuổi là thách thức 
với bác sĩ lâm sàng trong điều trị hóa chất, tuy nhiên 
với bản chất của capecitabine là thuốc uống, 
độc tính chấp nhận được với cả bệnh nhân lớn tuổi, 
nên được bệnh nhân chấp nhận điều trị hơn các 
phác đồ điều trị khác. Có khá nhiều nghiên cứu 
điều trị hóa chất trên đối tượng người cao tuổi cho 
kết quả khả quan, thậm chí còn thấy PFS không 
khác biệt với nhóm người trẻ tuổi. Tuy nhiên, nghiên 
cứu của Fanotto báo cáo tại hội nghị ASCO 2016 
khi nghiên cứu yếu tố tiên lượng sống thêm của 868 
bệnh nhân ung thư dạ dày tiến triển. Tác giả nhận 
thấy độ tuổi không phải là một yếu tố tiên lượng có 
ý nghĩa với cả PFS và OS. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi cho thấy về giới không có sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê về thời gian sống thêm bệnh 
không tiến triển. Một số nghiên cứu quốc tế và trong 
nước cho thấy thời gian sống thêm bệnh không tiến 
triển ở nữ cao hơn nam giới, có thể do đặc điểm 
chung của nữ giới có tuổi thọ cao hơn, tuân thủ điều 
trị hơn, ít sử dụng các chất có nguy cơ cao như 
rượu, thuốc lá 
Loại mô bệnh học và độ mô học 
Theo các nghiên cứu đã báo cáo, ung thư biểu 
mô tế bào nhẫn và thể nhày có tiên lượng xấu hơn 
UTBM tuyến. Tuy nhiên theo nghiên cứu của chúng 
tôi, thời gian sống thêm không tiến triển liên quan 
không có ý nghĩa thống kê với loại mô bệnh học và 
độ mô học. Có thể do cỡ mẫu nghiên cứu nhỏ, thực 
hiện trên đối tượng bệnh tái phát, di cĕn, nên không 
đại diện được cho toàn quần thể các bệnh nhân ung 
thư dạ dày. 
Liên quan PFS và nồng độ CEA trước điều trị: 
trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm bệnh nhân 
CEA 5mg/mL trước điều trị có tỷ PFS dài hơn so 
với nhóm có CEA > 5mg/mL. Kết quả này có ý nghĩa 
thống kê với p = 0,047. Trong nhiều nghiên cứu 
khác, giá trị của CEA trong dự báo đáp ứng điều trị 
của bệnh với hóa chất cũng được khẳng định. 
Theo Reiter và cộng sự, tỷ lệ sống sau hai nĕm của 
những bệnh nhân ở giai đoạn III/IV với mức CEA 
< 4ng/mL và CEA 4ng/mL lần lượt là 29% và 14%. 
Phân tích gộp trên 14651 bệnh nhân, Deng đưa ra 
kết luận, tĕng CEA ở các bệnh nhân ung thư dạ dày 
đi kèm tiên lượng kém hơn so với nhóm không tĕng 
CEA, và nguy cơ tử vong tĕng gấp đôi ở những 
bệnh nhân này. Với những kết quả này, vấn đề tiên 
lượng trong ung thư dạ dày có thể dựa vào xét 
nghiệm CEA trước điều trị cũng như trong quá trình 
theo dõi đáp ứng của điều trị bệnh. 
Liên quan PFS với tình trạng vị trí di cĕn: Di cĕn 
phúc mạc và đa ổ được coi là yếu tố tiên lượng xấu 
trong UTDD, tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng 
tôi không có sự khác biệt về PFS giữa các vị trí 
di cĕn cũng như tiến triển vùng. Có thể do cỡ mẫu 
nghiên cứu còn nhỏ nên không thấy được sự 
khác biệt. 
TIÊU HÓA 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
338 
Liên quan PFS với phẫu thuật triệu chứng: 
Trong NC của chúng tôi không có sự khác biệt về 
PFS giữa nhóm được phẫu thuật cắt dạ dày, u triệu 
chứng và nhóm không được phẫu thuật. Các yếu tố 
được cho là tốt khi bệnh nhân được cắt dạ dày bao 
gồm tổn thương tiến triển vùng, di cĕn gan, buồng 
trứng đơn ổ. Một số NC cho thấy cắt dạ dày ở bệnh 
nhân di cĕn phúc mạc ảnh hưởng xấu đến sống 
thêm của bệnh nhân. Có lẽ trong nghiên cứu rất 
nhiều bệnh nhân di cĕn phúc mạc, nên việc cắt 
dạ dày trên các bệnh nhân di cĕn phúc mạc cũng 
không đem lại hiệu quả về sống thêm? 
Liên quan PFS với hóa chất bước một: 
Đáp ứng sau điều trị hóa chất bước một có mối liên 
quan với thời gian đến khi bệnh tiến triển cũng như 
thời gian sống thêm toàn bộ trong bệnh ung thư 
dạ dày giai đoạn muộn. Trong nghiên cứu các bệnh 
nhân được chọn lựa có bệnh ổn định trở lên sau kết 
thúc hóa chất bước một để tiếp tục điều trị duy trì 
capeciatabine. Kết quả của chúng tôi cho thấy bệnh 
giữ ổn định có thời gian sống thêm bệnh không tiến 
triển trung bình cao hơn nhưng không có ý nghĩa 
thống kê. 
Một số tác dụng phụ 
Tác dụng không mong muốn trên huyết học 
Thiếu máu 
Trong nghiên cứu của chúng tôi thấy nếu tính 
chung thì có 27/42 bệnh nhân có tình trạng thiếu 
máu. Tỷ lệ bệnh nhân thiếu máu độ 1 và độ 2 lần 
lượt là 47,6% và 16,7%, không có bệnh nhân nào 
thiếu máu độ 3, 4. Mức độ thiếu máu của các 
bệnh nhân trong các nghiên cứu có sự khác nhau. 
Theo Qiu và công sự, tỷ lệ thiếu máu chiếm 87,5%, 
có 7,3% bệnh nhân thiếu máu độ 3, không gặp 
trường hợp thiếu máu độ 4[14]. Trong nghiên cứu 
của Eren thì có 9% bệnh nhân gặp thiếu máu độ 2 
trở lên, khá tương đồng với kết quả của chúng tôi[15]. 
Với biểu hiện thiếu máu không cần truyền máu 
thì nhìn chung là chấp nhận được với việc duy trì 
hóa chất. 
Hạ bạch cầu 
Qua nghiên cứu của chúng tôi thấy 11,9% bệnh 
nhân có hạ bạch cầu, trong đó hạ độ 1 là 7,1%, độ 2 
là 4,8% và không gặp bệnh nhân hạ BC độ 3, 4. 
Chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào sốt hạ 
bạch cầu trong nghiên cứu. Theo Qiu, tỷ lệ hạ bạch 
cầu chung là 23,4%, trong đó hạ độ 3 chiếm 9,4%, 
kết quả của nghiên cứu của Eren và Lu không ghi 
nhận trường hợp nào hạ bạch cầu độ 3 trở lên. Nói 
chung là tỷ lệ hạ bạch cầu khá tương đồng ở các 
nghiên cứu, mức độ chủ yếu là độ 1, 2, không cần trì 
hoãn hay giảm liều điều trị. 
Hạ tiểu cầu 
Hạ tiểu cầu có thể gây ra rất nhiều biến chứng 
nguy hiểm như: xuất huyết dưới da, niêm mạc, 
nội tạng và đặc biệt là xuất huyết não, có thể dẫn 
đến tử vong cho người bệnh. Ở nghiên cứu của 
chúng tôi, gặp 19% bệnh nhân hạ tiểu cầu độ 1, 
1 bệnh nhân hạ tiểu cầu độ 2. Qiu và cộng sự 
ghi nhận có 26,1% trường hợp có hạ tiểu cầu, 
12,5% bệnh nhân hạ tiểu cầu độ 3. Trong nghiên 
cứu của Lu thì có kết quả tương đồng với chúng tôi, 
tỷ lệ hạ tiểu cầu chung là 33,3%, chỉ có 1 bệnh nhân 
có hạ bạch cầu độ 3, chiếm 3,3%. Nhìn chung điều 
trị duy trì capecitabine là khá an toàn, sự ảnh hưởng 
lên tiểu cầu ít, an toàn cho bệnh nhân. 
Tác dụng phụ không mong muốn trên gan, thận 
Qua nghiên cứu chúng tôi thấy hóa chất 
sử dụng trong nghiên cứu ảnh hưởng đến chức 
nĕng gan, thận không nhiều. Kết quả cho thấy: Tĕng 
AST và ALT độ 1, độ 2 lần lượt là: 23,8% và 4,8% 
(độ 3); không có bệnh nhân tĕng men gan độ 3,4. 
Có 10 bệnh nhân có tĕng bilirubine độ 1, không phải 
trì hoãn điều trị. Đối với ung thư dạ dày tái phát 
di cĕn, tĕng bilirubine còn là một yếu tố rất cần được 
quan tâm trong trường hợp u hoặc hạch tái phát có 
chèn ép vào cuống gan gây tắc mật. Không có 
trường hợp nào tĕng ure và creatinine độ 2, độ 3, 
độ 4. Tỷ lệ tĕng độ 1 creatinin thấp với 11,9%, đây 
cũng là một yếu tố cần được theo dõi liên quan đến 
độ thanh thải creatinin và giảm liều capecitabine. 
Các bệnh nhân có độ thanh thải creatinin dưới 
30mg/ml không có chỉ định tiếp tục điều trị 
capecitabine. Dank cũng báo cáo tỷ lệ tĕng AST là 
27,2% (độ 3, 4: 2,5%), tĕng ALT là 29,7% (độ 3, 4: 
3,2%), tĕng creatinin 9,3% (độ 3, 4: 0,6%). Như vậy 
tĕng men gan có tỷ lệ gặp nhiều hơn, nhưng mức độ 
không quá nghiêm trọng, đồng thời có thể điều chỉnh 
bằng các thuốc hạ men gan và truyền dịch. 
Cũng cần lưu ý đối với những bệnh nhân có nguy cơ 
tĕng men gan từ trước như viêm gan do rượu hay 
viêm gan do virus. Cần kiểm soát các yếu tố nguy cơ 
khác trước khi bắt đầu điều trị cho bệnh nhân. Bên 
cạnh đó, tác dụng không mong muốn lên thận hầu 
như không đáng kể nên khá an toàn với bệnh nhân. 
Một số tác dụng phụ không mong muốn khác 
Tác dụng không mong muốn có thể gặp trên hệ 
tiêu hóa bao gồm chán ĕn chiếm tỉ lệ trên 50%, 
tuy nhiên chủ yếu mức độ 1. Hội chứng bàn tay bàn 
chân (HFS): Là biểu hiện độc tính trên da và tổ chức 
dưới da khi điều trị bằng capecitabine. Nghiên cứu 
của chúng tôi ghi nhận 88,1% bệnh nhân có hội 
chứng này, trong đó tỷ lệ gặp độ 1, độ 2, độ 3 là 
47,6%; 23,8% và 16,7%, không có bệnh nhân độ 4. 
5 bệnh nhân phải trì hoãn điều trị và giảm liều thuốc 
do hội chứng bàn tay bàn chân độ 3, 2 bệnh nhân 
TIÊU HÓA 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
339 
phải giảm liều vì độc tính hội chứng bàn tay chân độ 
3. Kết quả chúng tôi cao với các nghiên cứu khác về 
độ 1, 2. Theo kết quả nghiên cứu của Qiu thì tỷ lệ 
bệnh nhân có hội chứng bàn tay chân là 59,4%, 
độ 3, 4 là 4,7% và 1,6%[14]. Theo Eren và cộng sự thì 
HFS gặp ở 18% bệnh nhân, không có bệnh nhân 
nào biểu hiện độ 4[15]. Có thể do công tác dự phòng, 
chĕm sóc da cho bệnh nhân điều trị capecitabine 
được chú trọng hơn ở các nước phát triển nên tỉ lệ 
bệnh nhân có hội chứng tay chân độ 1, 2 thấp hơn. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 42 bệnh nhân ung thư dạ dày 
giai đoạn IV hoặc tái phát di cĕn sau phẫu thuật, 
được điều trị hóa chất duy trì capecitabine sau 
hóa chất bước một tại bệnh viện K từ tháng 5 nĕm 
2015 đến tháng 5/2018 chúng tôi xin rút ra một số 
kết luận sau: 
Kết quả điều trị 
Thời gian sống thêm bệnh không tiến triển trung 
vị là 11,2 tháng. 
Tại thời điểm 24 tháng, xác suất bệnh không 
tiến triển là 33,2%. 
Tác dụng không mong muốn của phác đồ 
Tỷ lệ BN thiếu máu độ 1 và 2 lần lượt là 47,6% 
và 16,7%; không có BN nào thiếu máu nặng độ 3, 4. 
Tỷ lệ BN hạ BC độ 1,2 lần lượt là 7,1% và 
4,8%. Không có trường hợp BN hạ BC độ 3,4 hay 
sốt hạ bạch cầu. 
BN gặp hạ TC độ 1, 2 với tỷ lệ 19,0% và 2,4%. 
Không có bệnh nhân hạ tiểu cầu độ 3, 4. 
BN chỉ gặp tiêu chảy độ 1 với tỷ lệ 16,7%. Tỷ lệ 
nôn, buồn nôn 20,4%, chủ yếu là độ 1. 
Nghiên cứu có 23,8% BN biểu hiện HFS độ 2; 
16,7% độ 3. Chủ yếu gặp HFS độ 1 với tỷ lệ 47,6%, 
không có bệnh nhân HFS độ 4. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. GLOBOCAN Cancer Fact Sheets: stomach 
Cancers. 
<
omach-new.asp>, accessed: 04/07/2016. 
2. Nguyễn Bá Đức, Đào Ngọc Phong (2008). Lịch 
sử nghiên cứu và tình hình bệnh ung thư. Dịch 
tễ học bệnh ung thư. Nhà xuất bản Y học, 
Hà nội. 
3. Gastric Cancer- New Therapeutic Options - 
NEJM. 
<
121>, accessed: 23/07/2016. 
4. D’Angelica M., Gonen M., Brennan M.F. và cộng 
sự. (2004). Patterns of Initial Recurrence in 
Completely Resected Gastric Adenocarcinoma. 
Ann Surg, 240(5), 808 - 816. 
5. Yoo C.H., Noh S.H., Shin D.W. và cộng sự. 
(2000). Recurrence following curative resection 
for gastric carcinoma. Br J Surg, 87 (2), 
236 - 242. 
6. NCCN - Evidence-Based Cancer Guidelines, 
Oncology Drug Compendium, Oncology 
Continuing Medical Education. 
, accessed: 13/06/2016. 
7. O’Sullivan B., Brierley J., và International Union 
against Cancer, btv. (2015). Stomach. UICC 
manual of clinical oncology. Ninth edition, John 
Wiley and Sons, Ltd, Chichester, West Sussex, 
UK฀; Hoboken, NJ. 
8. Glimelius B., Ekström K., Hoffman K. và cộng 
sự. (1997). Randomized comparison between 
chemotherapy plus best supportive care with 
best supportive care in advanced gastric cancer. 
Ann Oncol, 8 (2), 163 - 168. 
9. Casaretto L., Sousa P.L.R., và Mari J.J. (2006). 
Chemotherapy versus support cancer treatment 
in advanced gastric cancer: a meta-analysis. 
Braz J Med Biol Res, 39 (4), 431 - 440. 
10. Thuss-Patience P.C., Kretzschmar A., Bichev D. 
và cộng sự. (2011). Survival advantage for 
irinotecan versus best supportive care as 
second-line chemotherapy in gastric cancer--a 
randomised phase III study of the 
Arbeitsgemeinschaft Internistische Onkologie 
(AIO). Eur J Cancer, 47(15), 2306 - 2314. 
11. Kang J.H., Lee S.I., Lim D.H. và cộng sự. 
(2012). Salvage chemotherapy for pretreated 
gastric cancer: a randomized phase III trial 
comparing chemotherapy plus best supportive 
care with best supportive care alone. J Clin 
Oncol, 30 (13), 1513 - 1518. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_hieu_qua_cua_capecitabine_duy_tri_trong_ung_thu_da.pdf