Đánh giá độ lọt thai trong chuyển dạ sinh ngôi chỏm bằng siêu âm ngả đáy chậu

Đánh giá độ lọt ngôi chỏm (ngôi chẩm) trong quá trình chuyển dạ Trong thực hành lâm sàng, hiện tượng lọt được xem khi đường kính lọt của ngôi đã đi qua được mặt phẳng của eo trên (đường kính lọt của ngôi phải đi qua một trong hai đường kính chéo của eo trên: 12,75 cm). Đường kính chéo là đường kính đi từ khớp cùng-Chậu bên này sang gai mào chậu lược bên đối diện. Gọi là đường kính chéo phải hay chéo trái là tùy thuộc vào đường kính đó đi qua khớp cùng-chậu bên phải hay bên trái. Trước khi ngôi lọt, thường có một số động tác để giúp cho ngôi có thể thu nhỏ tối đa các đường kính của nó. Đó là các hiện tượng bình chỉnh và hiện tượng thay đổi tư thế (hay thu hình). Ngôi có thể lọt theo kiểu đối xứng hay không đối xứng

pdf 6 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá độ lọt thai trong chuyển dạ sinh ngôi chỏm bằng siêu âm ngả đáy chậu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá độ lọt thai trong chuyển dạ sinh ngôi chỏm bằng siêu âm ngả đáy chậu

Đánh giá độ lọt thai trong chuyển dạ sinh ngôi chỏm bằng siêu âm ngả đáy chậu
3TỔNG QUAN Y VĂN
Đánh giá độ lọt thai trong chuyển dạ sinh ngôi 
chỏm bằng siêu âm ngả đáy chậu 
Huỳnh Nguyễn Khánh Trang*; Trần Thị Thanh Thủy** 
Đánh giá độ lọt ngôi chỏm (ngôi 
chẩm) trong quá trình chuyển dạ 
Trong thực hành lâm sàng, hiện tượng lọt 
được xem khi đường kính lọt của ngôi đã 
đi qua được mặt phẳng của eo trên (đường 
kính lọt của ngôi phải đi qua một trong hai 
đường kính chéo của eo trên: 12,75 cm). 
Đường kính chéo là đường kính đi từ khớp 
cùng-chậu bên này sang gai mào chậu lược 
bên đối diện. Gọi là đường kính chéo phải 
hay chéo trái là tùy thuộc vào đường kính 
đó đi qua khớp cùng-chậu bên phải hay 
bên trái. Trước khi ngôi lọt, thường có một 
số động tác để giúp cho ngôi có thể thu 
nhỏ tối đa các đường kính của nó. Đó là 
các hiện tượng bình chỉnh và hiện tượng 
thay đổi tư thế (hay thu hình). Ngôi có thể 
lọt theo kiểu đối xứng hay không đối 
xứng. 
 Qua khám lâm sàng bác sỹ chẩn đoán 
ngôi thai đã lọt dựa vào phần trình diện 
ngôi thai tương quan mốc trên khung chậu 
người mẹ. Việc đánh giá độ lọt của đầu 
thai trong chuyển dạ thì luôn dựa vào mối 
tương quan giữa đầu thai và 2 gai hông.5 
Tuy nhiên, trong thực tế khi khám độ lọt 
thì vẫn có sự sai lệch khá nhiều trong cách 
đánh giá giữa những bác sĩ có kinh 
nghiệm, điều này phản ánh lên sự khó 
khăn và kém tin cậy của việc đánh giá dựa 
vào lâm sàng, đặc biệt khi đầu thai có 
bướu huyết thanh hoặc bị uốn khuôn hoặc 
có dấu chồng xương. 
 Trong những trường hợp thai trình chậm 
tiến triển khi phải đánh giá thai đã lọt hay 
chưa lọt. Nhất là khi có kết hợp với hoàn 
cảnh cần phải đem thai ra nhanh như suy 
__________________________________
* ĐH. Y dược Tp Hồ Chí Minh, Email: 
[email protected], DĐ: 0903882015 
** BV. Hùng Vương. 
tuần hoàn nhau thai việc quyết định có 
dùng dụng cụ để hỗ trợ sinh như giác hút 
sản khoa hay kềm sản khoa việc đánh giá 
lọt trở nên quan trọng hơn bao giờ vì ảnh 
hưởng đến sinh mạng của thai nhi. Do vậy, 
các nghiên cứu dùng phương tiện siêu âm 
đánh giá diễn tiến quá trình chuyển dạ , 
trong đó siêu âm được báo cáo là một công 
cụ hỗ trợ trong việc đánh giá độ lọt của 
thai trong khung chậu sản phụ,6,8 và được 
sử dụng ngày càng nhiều do tính hữu dụng 
trong việc đánh giá tiến trình chuyển dạ 
một cách khách quan.1 
 Y văn ghi nhận có nhiều phương cách 
siêu âm để đánh giá tiến triển ngôi thai so 
với khung chậu trong chuyển dạ nhằm 
đánh gía tiến triển của chuyển dạ và tiên 
lượng thành công của sanh ngả âm đạo.1 
Đánh giá khoảng cách đầu thai – 
đáy chậu 
Năm 2006, Eggebo và cộng sự7 thực hiện 
nghiên cứu đo khoảng cách giữa đầu thai 
và đáy chậu nhằm đánh giá sự đi xuống 
của đầu thai, vào thời điểm từ lúc ối vỡ 
non cho đến lúc sanh, và cần thiết khi sanh 
thủ thuật. 
 Bên cạnh việc đánh giá chiều dài cổ tử 
cung, góc của cổ tử cung với thân tử cung. 
Khoảng cách đầu thai - đáy chậu được đo 
bằng cách tính khoảng cách ngắn nhất từ 
bề mặt da đáy chậu đến bờ ngoài xương sọ 
qua mặt phẳng ngang (hình 1). Tác giả rút 
ra một trong số các kết luận. khoảng cách 
giữa đầu thai và đáy chậu càng ngắn thì 
thời gian sanh càng nhanh, ít mổ sanh hơn, 
và giảm đau sản khoa ít hơn. Nghiên cứu 
ghi nhận khoảng cách này dễ đo ngay cả 
không phải là chuyên gia và an toàn đối 
với vỡ ối. 
4THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 1, Tháng 1 – 2017
Hình 1. Khoảng cách đầu-đáy chậu trên siêu âm. 
Khoảng cách đầu – đáy chậu là 4,77 cm; Nguồn: 
Eggebo và cộng sự (2006) 
Khoảng cách đầu thai – khớp vệ 
Youssef và cộng sự15 giới thiệu 1 phương 
pháp đo mới bằng siêu âm 3 chiều: khoảng 
cách đầu thai - khớp vệ (hình 2,3). 
 Khoảng cách đầu thai - khớp vệ là 
khoảng cách giữa bờ thấp nhất của xương 
mu và phần gần nhất của xương sọ thai 
dọc theo 1 đường vuông góc với trục dọc 
của xương mu. 
 Khoảng cách đầu thai - khớp vệ có mối 
tương quan âm tính có ý nghĩa với cả 2: 
khám âm đạo đánh giá độ lọt và góc tiến 
triển. Do đó, khoảng cách đầu thai - khớp 
vệ là một dấu chỉ đơn gỉan và đáng tin cậy 
về sự xuống của thai trong chuyển dạ. 
Phép đo khoảng cách đầu thai - khớp vệ có 
độ tin cậy cao trong cùng người theo dõi 
(r=0,0995, P< 0,001) và giữa những người 
theo dõi khác (r=0,995, P<0,001). 
 Trong một nghiên cứu gần đây, nhiều 
thông số siêu âm trong chuyển dạ gồm 
siêu âm14 độ lọt đầu thai qua đáy chậu, góc 
tiến triển, khoảng cách đầu thai - khớp vệ, 
khoảng cách đầu thai - đáy chậu, cho thấy 
có mối tương quan tốt với nhau cũng như 
có mối tương quan trung bình với khám 
âm đạo khi đánh giá độ lọt đầu thai.14 
Hình 2. Đầu dò để dọc 
Hình 3. Khoảng cách đầu thai - khớp vệ1 
Hướng đầu thai 
Nhiều tác giả nỗ lực mô tả độ lọt đầu thai 
bằng cách sử dụng những mốc trong siêu 
âm, bao gồm: hướng đầu thai theo trục dọc 
xương mu. Xem chuyển động chính của 
đầu thai và đường cong xương chậu, khái 
niệm hướng đầu thai hợp lý để đánh giá độ 
lọt (hình 4). Như đã đề cập ở trên, hướng 
đầu thai đi ngang hoặc đi xuống thì liên 
quan đến thành công kém nếu sanh dụng 
cụ.10 Nghiên cứu của Ghi và cộng sự9 báo 
cáo: khi nghiên cứu 60 thai phụ đủ tháng, 
ngôi chỏm, giai đoạn 2 của chuyển dạ, 
thực hiện một loạt siêu âm qua đáy chậu 
với mặt phẳng dọc thay vì khám âm đạo để 
đánh giá chuyển dạ. Các hướng: hướng 
xuống, hướng ngang, hướng lên của đầu 
thai lần lượt là ≤+1, ≤+2, ≤+3cm so với 2 
gai hông. Khả năng lọt ≤+3cm là đặc biệt 
cao với hướng lên của đầu thai, phối hợp 
với góc xoay <45o . 
5TỔNG QUAN Y VĂN
Hình 4: Hướng đầu thai1 
Ứng dụng lâm sàng chọn kỹ thuật siêu âm để có được một cuộc sanh ngả âm đạo tự nhiên 
hoặc thủ thuật thành công theo bảng 1 sau:1 
Bảng 1. Chọn lựa phương cách siêu âm theo tình huống lâm sàng 
Tình huống lâm sàng Mục đích siêu âm 
Giai đoạn 1 chuyển dạ 
Để phát hiện kiểu thế chẩm sau Kiểm tra kiểu thế và hướng lưng thai 
Giai đoạn 2 chuyển dạ 
Khi nghi ngờ kiểu thế chẩm sau 
Xác định bất đối xứng trong kiểu thế ngang 
Kiểm tra kiểu thế và hướng lưng của thai 
Kiểm tra dấu hiệu mắt lác (squint sign) và dấu hiệu 
mặt trời mọc (sunset of thalamus and cerabellum 
signs) 
Đo độ lọt của thai hoặc trong trường hợp chuyển dạ 
bất thường (chuyển dạ kéo dài, ngưng tiến) 
Kiểm tra góc tiến triển, khoảng cách đầu - đáy chậu, 
khoảng cách đầu thai - khớp vệ, độ lọt qua siêu âm 
giữa 2 môi lớn, và hướng thai và xoay thai 
Để sanh giác hút sản khoa thành công Kiểm tra những dấu hiệu: góc tiến triển > 120o; đầu 
thai hướng lên; và xoay < 45
o 
Khái niệm góc tiến triển (Angle of 
progression) 
Định nghĩa: là góc được tạo bởi 1 đường 
giữa xương mu và 1 đường chạy từ dưới 
đỉnh xương mu tiếp tuyến với xương sọ 
thai.3 
 Cách thực hiện:3 Đầu dò được bao lại 
bằng găng tay cao su sạch có gel siêu âm, 
sau đó đặt đầu dò giữa 2 môi lớn ở phía 
dưới xương mu. ở mặt cắt dọc, bảo đảm 
quan sát thấy trục dọc của xương mu bằng 
cách nhẹ nhàng hướng đầu dò lên trên. 
Trong cùng một mặt phẳng, phần trình 
diện thấp nhất của xương sọ thai cũng dễ 
dàng thấy rõ. Trên mặt phẳng dọc, vẽ 1 
đường giữa trục dọc xương mu, đường thứ 
hai từ đầu dưới xương mu xuống tiếp 
tuyến với đường viền xương sọ thai. Góc 
giữa 2 đường được đo trực tiếp trên màn 
hình hoặc bằng cách đo góc ở bản in giấy. 
Vì xương mu là một cấu trúc ngắn hơn, 
nên cẩn thận xác định chính xác 2 điểm 
cuối của nó để trục dọc xương mu được 
chính xác. 
 Mức 2 gai hông là dấu chỉ quan trọng 
trong lâm sàng đánh giá độ lọt zero. 
Barbera và cộng sự2 đã mở rộng mô hình 
hình học từ những hình ảnh chụp cắt lớp vi 
tính của 70 phụ nữ không có thai và đo 
góc tạo bởi điểm giữa đường nối 2 gai 
hông và trục dọc xương mu. Họ thấy rằng 
siêu âm qua đáy chậu với góc 99 o thì 
tương ứng với độ lọt zero. 
Ứng dụng của góc tiến triển từ chưa 
chuyển dạ, chuyển dạ giai đoạn 1 đến 
chuyển dạ giai đoạn 2 (hình 5). 
 Phép đo góc tiến triển có lẽ là yếu tố 
tiên đoán mới khi bắt đầu chuyển dạ tự 
nhiên ở con so, đủ tháng. Với số liệu từ 77 
con so, cho thấy rằng chuyển dạ tự nhiên 
6THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 1, Tháng 1 – 2017
xảy ra trong vòng 7 ngày sẽ có góc tiến 
triển lớn hơn những người có chuyển dạ 
sau 7 ngày.4 Phân tích hồi qui tuyến tính 
cho thấy rằng góc tiến triển lớn hơn là dấu 
chỉ độc lập chuyển dạ tự nhiên trong vòng 
7 ngày. Hơn nữa, góc tiến triển liên quan 
phủ định với chiều dài cổ tử cung và tương 
quan tích cực với tuổi thai.4
Hình 5. Góc tiến triển11 
Khái niệm góc tiến triển tiên lượng cách 
sanh được nghiên cứu tích cực hơn 10 năm 
qua. Một nghiên cứu đã xác định rằng, 
nếu góc tiến triển hẹp ở người con so chưa 
vào chuyển dạ thì có liên quan đến tỷ lệ 
mổ sanh cao hơn lúc thai trưởng thành. 
Levy và cộng sự12 thực hiện siêu âm qua 
đáy chậu ở thai phụ chưa chuyển dạ, tuổi 
thai ≥39 tuần. Họ so sánh góc tiến triển 
giữa những người đã mổ sanh và sanh ngả 
âm đạo cũng như giữa con so và con rạ. 
Góc tiến triển hẹp <95o ở con so chưa vào 
chuyển dạ, đủ tháng thì liên quan đến tăng 
tỷ lệ mổ sanh. Tuy nhiên, nếu con rạ có 
góc tiến triển hẹp hơn con so thì lại không 
liên quan đến mổ sanh. Nghiên cứu quan 
sát tiến cứu của Ki Hoon Ahn (2014) cũng 
cho kết quả tương tự,11 họ đo góc tiến triển 
ở thai phụ con so chưa chuyển dạ, ≥37 
tuần. So sánh góc tiến triển giữa người 
sanh ngả âm đạo và mổ sanh thì góc tiến 
triển trung bình trước khi bắt đầu chuyển 
dạ ở người mổ sanh thì hẹp hơn ở người 
sanh ngả âm đạo (86,81± 5,49o so với 
95,21 ± 10,86 o, P 
99 o (lâm sàng độ lọt =0 hoặc lớn hơn) thì 
liên quan sanh ngả âm đạo 100% trường 
hợp. Kết quả này đề nghị góc tiến triển là 
một phương pháp khách quan, không xâm 
lấn nhằm tiên lượng cách sanh trước 
chuyển dạ. 
 Barbera và cộng sự3 đánh giá góc tiến 
triển (thay vì họ dùng thuật ngữ góc xuống 
của thai) khi siêu âm qua đáy chậu. Sau 
khi phân tích 75 trường hợp được đo lại 
bởi cùng một người theo dõi thì thấy rằng 
độ lệch chuẩn trung bình của người đo là 
2,9o; trong khi đó thì sai số là 1,24o giữa 
những người đo được tính qua 15 ước định 
được người thứ hai đo lại . Vì vậy họ kết 
luận là siêu âm qua đáy chậu cung cấp 
những số đo có tính khách quan, chính 
xác, thực hiện lại được nhằm đánh giá độ 
lọt ngôi thai qua góc tiến triển trong quá 
trình chuyển dạ. 
 Tutschek và cộng sự13 đề nghị dùng siêu 
âm giữa 2 môi lớn để đo độ lọt thai. Họ đo 
trục dài nhất thấy được của đầu thai nằm 
giữa 2 mặt phẳng phần xương lọt sâu nhất 
của đầu thai và đường dưới xương mu; họ 
trừ đi 3 cm từ mức 2 gai hông, bởi vì 
đường dưới xương mu chỉ ra mặt phẳng sọ 
7TỔNG QUAN Y VĂN
3cm đến mặt phẳng song song qua 2 gai 
hông (hình 6). 
 Tác giả thấy có mối tương quan giữa 
góc tiến triển và độ lọt đầu thai đo được 
trên siêu âm qua đáy chậu theo công thức 
sau:14 
Độ lọt đầu thai = Góc tiến triển × 0,0937 – 10,911 
Hình 6. Tương quan độ lột đầu thai với góc tiến 
triển 
 Trong thực hành lâm sàng khi đối diện 
trước một tình huống phải quyết định: 
sanh ngả âm đạo tự nhiên hay sanh thủ 
thuật hay mổ sanh? Công cụ nào sẽ hỗ trợ 
cho nhà lâm sàng trong việc ra quyết định? 
 Nhiều nhà nghiên cứu cố gắng làm rõ 
những yếu tố tiên lượng cho một cuộc 
sanh thủ thuật. Gần đây, siêu âm trong 
chuyển dạ tập trung vào những yếu tố này. 
Góc tiến triển là một công cụ hữu ích để 
đánh giá độ lọt. 
 Kalache và cộng sự11 thực hiện nghiên 
cứu tiến cứu trên 41 bệnh nhân ≥37 tuần 
với chuyển dạ thất bại giai đoạn 2, họ so 
sánh góc tiến triển qua hình ảnh siêu âm 
qua đáy chậu. Góc tiến triển 120o sẽ sanh 
giác hút thành công và dễ dàng hoặc sanh 
ngả âm đạo tự nhiên hơn 90% 
 Tutschek và cộng sự13 thấy rằng, với 
góc tiến triển trên 120o thì tỷ lệ sanh ngả 
âm đạo là 93%. 
 Barbera và cộng sự3 đo góc tiến triển 
qua siêu âm đáy chậu trong giai đoạn 2 
chuyển dạ thì 100% đều sanh ngả âm đạo 
khi góc tiến triển trên 120o. 
Kết luận 
Có nhiều phương cách ứng dụng siêu âm 
đánh giá diễn tiến trong chuyển dạ hỗ trợ 
các phương cách truyền thống đánh giá 
hiện nay nhằm để có một quyết định gần 
đúng nhất trong các can thiệp hỗ trợ sinh 
để giảm bớt các nguy cơ trong cuộc sinh 
cho thai nhi và thai phụ. 
Tài liệu tham khảo 
1. Ahn K H, Oh M J (2014), "Intrapartum 
ultrasound: A useful method for evaluating 
labor progress and predicting operative vaginal 
delivery", Obstet Gynecol Sci, 57 (6), pp. 427-
435. 
2. Barbera A F, Imani F, Becker T, et al. (2009), 
"Anatomic relationship between the pubic 
symphysis and ischial spines and its clinical 
significance in the assessment of fetal head 
engagement and station during labor", 
Ultrasound Obstet Gynecol, 33 (3), pp. 320-
325. 
3. Barbera A F, Pombar X, Perugino G, et al. 
(2009), "A new method to assess fetal head 
descent in labor with transperineal ultrasound", 
Ultrasound Obstet Gynecol, 33 (3), pp. 313-
319. 
4. Cho G J, Hong H R, Seol H J, et al. (2015), 
"Use of the angle of progression on 
ultrasonography to predict spontaneous onset 
of labor within 7 days", J Perinat Med, 43 (2), 
pp. 185-189. 
5. Cunningham F, Leveno KJ, Bloom SL, Hauth 
JC, Gilstrap LC III, Wenstrom KD (eds). Normal 
labor and delivery In: 22, ed. Williams 
Obtetrics. 22 ed: McGraw-Hill, 2005;409-441. 
6. Dietz H P, Lanzarone V (2005), "Measuring 
engagement of the fetal head: validity and 
reproducibility of a new ultrasound technique", 
Ultrasound Obstet Gynecol, 25 (2), pp. 165-
168. 
7. Eggebo T M, Gjessing L K, Heien C, et al. 
(2006), "Prediction of labor and delivery by 
transperineal ultrasound in pregnancies with 
prelabor rupture of membranes at term", 
Ultrasound Obstet Gynecol, 27 (4), pp. 387-
391. 
8. Eggebo T M, Heien C, Okland I, et al. (2008), 
"Ultrasound assessment of fetal head-
perineum distance before induction of labor", 
Ultrasound Obstet Gynecol, 32 (2), pp. 199-
204. 
9. Ghi T, Farina A, Pedrazzi A, et al. (2009), 
"Diagnosis of station and rotation of the fetal 
head in the second stage of labor with 
intrapartum translabial ultrasound", Ultrasound 
Obstet Gynecol, 33 (3), pp. 331-336. 
10. Henrich W, Dudenhausen J, Fuchs I, et al. 
(2006), "Intrapartum translabial ultrasound 
(ITU): sonographic landmarks and correlation 
with successful vacuum extraction", Ultrasound 
Obstet Gynecol, 28 (6), pp. 753-760. 
11. Kalache K D, Duckelmann A M, Michaelis S A, 
et al. (2009), "Transperineal ultrasound 
imaging in prolonged second stage of labor 
8THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 1, Tháng 1 – 2017
with occipitoanterior presenting fetuses: how 
well does the 'angle of progression' predict the 
mode of delivery?", Ultrasound Obstet 
Gynecol, 33 (3), pp. 326-330. 
12. Levy R, Zaks S, Ben-Arie A, et al. (2012), "Can 
angle of progression in pregnant women before 
onset of labor predict mode of delivery?", 
Ultrasound Obstet Gynecol, 40 (3), pp. 332-
337. 
13. Tutschek B, Braun T, Chantraine F, et al. 
(2011), "A study of progress of labour using 
intrapartum translabial ultrasound, assessing 
head station, direction, and angle of descent", 
BJOG, 118 (1), pp. 62-69. 
14. Tutschek B, Torkildsen E A, Eggebo T M 
(2013), "Comparison between ultrasound 
parameters and clinical examination to assess 
fetal head station in labor", Ultrasound Obstet 
Gynecol, 41 (4), pp. 425-429. 
15. Youssef A, Maroni E, Ragusa A, et al. (2013), 
"Fetal head-symphysis distance: a simple and 
reliable ultrasound index of fetal head station in 
labor", Ultrasound Obstet Gynecol, 41 (4), pp. 
419-424. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_do_lot_thai_trong_chuyen_da_sinh_ngoi_chom_bang_sie.pdf