Đánh giá độ linh hoạt hệ thần kinh trung ương thông qua chuỗi phản xạ thị giác vận động của công nhân tại nhà máy sản xuất thuốc phóng thuốc nổ

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Các nhà máy sản xuất thuốc phóng, thuốc nổ trực thuộc Tổng cục Công

nghiệp Quốc phòng - Bộ Quốc phòng là một trong những đơn vị có môi trường lao

động đặc thù, đóng vai trò lớn trong việc sản xuất các mặt hàng chuyên dụng (thuốc

phóng, thuốc súng, thuốc gợi nổ ) phục vụ cho công tác huấn luyện, chiến đấu.

Ngoài việc phải thường xuyên phải tiếp xúc với các hoá chất độc hại (NO2, NO,

CO2, bụi gỗ.), công nhân tại nhà máy còn chịu áp lực lớn trước nguy cơ cháy nổ

cao, ảnh hưởng nhiều đến trạng thái tâm sinh lý

pdf 9 trang phuongnguyen 280
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá độ linh hoạt hệ thần kinh trung ương thông qua chuỗi phản xạ thị giác vận động của công nhân tại nhà máy sản xuất thuốc phóng thuốc nổ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá độ linh hoạt hệ thần kinh trung ương thông qua chuỗi phản xạ thị giác vận động của công nhân tại nhà máy sản xuất thuốc phóng thuốc nổ

Đánh giá độ linh hoạt hệ thần kinh trung ương thông qua chuỗi phản xạ thị giác vận động của công nhân tại nhà máy sản xuất thuốc phóng thuốc nổ
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 20, 06-2020 66
ĐÁNH GIÁ ĐỘ LINH HOẠT HỆ THẦN KINH TRUNG ƯƠNG 
THÔNG QUA CHUỖI PHẢN XẠ THỊ GIÁC VẬN ĐỘNG CỦA CÔNG 
NHÂN TẠI NHÀ MÁY SẢN XUẤT THUỐC PHÓNG THUỐC NỔ 
TRẦN THỊ NHÀI (1), NGUYỄN HỒNG QUANG (1), BÙI THỊ HƯƠNG (1), 
HOÀNG VĂN HUẤN (1), TRẦN THU TRANG (1) 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Các nhà máy sản xuất thuốc phóng, thuốc nổ trực thuộc Tổng cục Công 
nghiệp Quốc phòng - Bộ Quốc phòng là một trong những đơn vị có môi trường lao 
động đặc thù, đóng vai trò lớn trong việc sản xuất các mặt hàng chuyên dụng (thuốc 
phóng, thuốc súng, thuốc gợi nổ) phục vụ cho công tác huấn luyện, chiến đấu. 
Ngoài việc phải thường xuyên phải tiếp xúc với các hoá chất độc hại (NO2, NO, 
CO2, bụi gỗ...), công nhân tại nhà máy còn chịu áp lực lớn trước nguy cơ cháy nổ 
cao, ảnh hưởng nhiều đến trạng thái tâm sinh lý. 
Trong thành phần của thuốc nổ công nghiệp AD1 có Trinitrotoluen (TNT), 
một trong những chất độc chính thâm nhập vào hệ thần kinh gây ra nhiễm độc [1]. 
Môi trường lao động ở đơn vị sản xuất, bảo quản đạn dược Quốc phòng bị ô nhiễm 
nặng bởi chất nổ TNT, nồng độ TNT cao gấp 21,3 lần tiêu chuẩn vệ sinh lao động 
(TCVSLĐ), 100% số mẫu khảo sát tại vị trí nấu, đổ và nghiền trộn TNT đều không 
đạt TCVSLĐ [2]. Người lao động làm việc lâu dài trong môi trường ô nhiễm TNT bị 
suy giảm sức khỏe rõ rệt, mắc các bệnh lý mãn tính: suy nhược thần kinh (16,84%), 
thiếu máu (18%) [3]. Để tạo ra nitrocellulose và nitroglycerine phải dùng các 
nguyên liệu đầu vào là axit nitric đậm đặc, bông cellulose hoặc cellulose gỗ, glixerin 
và các dung môi khác. Trong quá trình sản xuất, công nhân phải tiếp xúc với axit 
HNO3, khi bay hơi tạo ra môi trường có chứa NO2, NO gây tổn thương đường hô 
hấp, nhức đầu, mệt mỏi [4]. Nitroglycerine là chất rất độc, có tính nhạy nổ cao, rất 
nguy hiểm, làm giảm áp suất máu, gây đau đầu [5]. Tính chất công việc căng thẳng, 
cùng những yếu tố độc hại của môi trường sản xuất thuốc phóng thuốc nổ tác động 
liên tục và lâu dài trực tiếp tới các hệ cơ quan, đặc biệt dẫn tới sự thay đổi mức độ 
linh hoạt của hệ thần kinh trung ương (HTKTW). 
Nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu đánh giá mức độ linh hoạt HTKTW 
của công nhân trực tiếp sản xuất thuốc phóng thuốc nổ lâu dài thông qua chuỗi test 
phản xạ thị giác vận động (PXTGVĐ). Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học để 
đánh giá mức độ ảnh hưởng của môi trường lao động và đặc thù nghề nghiệp tới hệ 
thần kinh, nhằm đề xuất các biện pháp để duy trì và cải thiện sức khỏe cho công 
nhân tại nhà máy. 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
247 cán bộ, công nhân làm việc tại 2 Nhà máy sản xuất thuốc phóng, thuốc nổ 
X và Y, có độ tuổi từ 30-56 được chia thành 2 nhóm: 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 20, 06-2020 67
- Nhóm nghiên cứu (A): 158 công nhân làm việc trong các phân xưởng trực 
tiếp tham gia vào quá trình sản xuất các sản phẩm thuốc phóng, thuốc nổ (tuổi trung 
bình 41 ± 2,5). 
- Nhóm đối chứng (B): 89 cán bộ làm việc tại các bộ phận hành chính - hậu 
cần và công nhân tại một số phân xưởng sản xuất không tiếp xúc hóa chất (tuổi 
trung bình 40 ± 3,1). 
2.2. Thiết kế nghiên cứu 
Phương pháp mô tả cắt ngang và so sánh đối chứng. 
2.3. Phương pháp nghiên cứu 
Đánh giá độ linh hoạt, khả năng tiếp nhận - xử lý thông tin của HTKTW dựa 
trên chuỗi PXTGVĐ bằng ánh sáng màu với mức độ khó tăng dần. PXTGVĐ được 
tiến hành thông qua 2 thiết bị đánh giá trạng thái tâm sinh lý của Liên Bang Nga: 
Ritm-MET và UPFT-1/30 (Medicom MTD). Hướng dẫn cho các đối tượng nghiên 
cứu làm quen test 01 lần, sau đó tiến hành đo đạc 03 lần và lấy giá trị trung bình. 
Các nội dung nghiên cứu được thực hiện gồm tiến hành đo thời gian PXTGVĐ trung 
bình từ khi có kích thích ánh sáng đến khi phản xạ, thời gian phản xạ tối đa/tối thiểu, 
kết quả đo tính bằng mili giây (ms); tính số lỗi, độ chính xác của phản xạ và mức độ 
kích hoạt của HTKTW. 
2.3.1. Phản xạ thị giác vận động đơn giản với ánh sáng đơn sắc 
Đánh giá khả năng tiếp nhận - xử lý thông tin chính xác của HTKTW từ cơ 
quan thị giác trong điều kiện hạn chế về thời gian. Đối tượng nghiên cứu cần phản 
xạ trả lời 40 tính hiệu ánh sáng màu vàng được máy đưa ra nhanh nhất có thể và hạn 
chế mắc lỗi. Khoảng thời gian giữa hai lần xuất hiện của tín hiệu ngẫu nhiên và 
không cố định (từ 700 đến 1400 ms). Lỗi được tính khi phản xạ sớm trước 150ms 
khi tín hiệu xuất hiện hoặc bỏ qua tín hiệu sau 500ms khi tín hiệu xuất hiện [6]. 
Khả năng tiếp nhận và xử lý các thông tin của HTKTW được đánh giá thông 
qua các chỉ số sau: thời gian phản xạ trung bình (tTB = tổng thời gian phản xạ/số 
phản xạ chính xác), thời gian phản xạ tối đa (tmax), thời gian phản xạ tối thiểu (tmin), 
tỷ lệ phản xạ sai (Nsai = số phản xạ sai/tổng số phản xạ,%), mức độ chức năng của 
HTKTW (F, đvqư) được thiết bị đưa ra dựa trên thuật toán được thiết lập sẵn. 
2.3.2. Phản xạ thị giác vận động phức tạp với tổ hợp ánh sáng màu 
Đánh giá sự thay đổi của các quá trình thần kinh thông qua khả năng phản xạ, 
phân tích tín hiệu với các kích thích ánh sáng có chọn lọc. Trên thiết bị sẽ xuất hiện 20 
lần tín hiệu đèn sáng là tổ hợp ngẫu nhiên của 3 màu: đỏ - vàng - xanh lá. Đối tượng 
sẽ phải lựa chọn và trả lời lại thiết bị với tổ hợp màu đúng: bên trái - màu đỏ và bên 
phải - màu xanh lá, tín hiệu ở giữa là ngẫu nhiên (đỏ, vàng, xanh lá), còn các trường 
hợp còn lại thì bỏ qua. Mỗi tổ hợp màu sẽ xuất hiện trong vòng 2 giây, khoảng cách 
giữa các lần xuất hiện của tín hiệu là ngẫu nhiên từ 2-5 giây. Lỗi được tính trong 3 
trường hợp sau: đối tượng bỏ qua không phản xả trả lời tín hiệu đúng trong vòng 2 
giây, phản xạ trả lời đối với tín hiệu sai hoặc phản xạ trả lời sớm trong thời gian 
200ms. Khi số lỗi ≥ 5 kết quả test không đáng tin cậy và cần được tiến hành lại [7]. 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 20, 06-2020 68
Khả năng tiếp nhận và xử lý các thông tin của HTKTW được đánh giá thông 
qua các chỉ số sau: thời gian phản xạ trung bình (tTB = tổng thời gian phản xạ/số 
phản xạ chính xác), thời gian phản xạ tối đa (tmax), thời gian phản xạ tối thiểu (tmin), 
số lượng phản xạ chính xác (Nđúng/20), độ nhanh và chính xác của phản xạ theo 
thang điểm từ 1-10 điểm (bảng 1). 
Bảng 1. Thang điểm tính độ nhanh và chính xác của phản xạ thị giác [7] 
tTB, giây Điểm đánh giá Mức độ phản xạ 
0,200 ≤ tTB < 0,257 10 Rất cao 
0,257 ≤ tTB < 0,292 9 Rất cao 
0,292 ≤ tTB < 0,311 8 Cao 
0,311 ≤ tTB < 0,342 7 Cao 
0,342 ≤ tTB < 0,366 6 Trung bình 
0,366 ≤ tTB < 0,397 5 Trung bình 
0,397 ≤ tTB < 0,436 4 Thấp 
0,436 ≤ tTB < 0,475 3 Thấp 
0,475 ≤ tTB < 0,530 2 Rất thấp 
0,530 ≤ tTB <2,000 1 Rất thấp 
2.3.3. Phản xạ thị giác vận động với mục tiêu di động 
Đánh giá khả năng tập trung chú ý và độ linh hoạt của HTKTW thông qua độ 
chính xác của PXTGVĐ, tương quan giữa hai quá trình hưng phấn/ức chế của 
HTKTW. Đồng thời căn cứ vào đặc điểm phản xạ có thể dự báo xu hướng thay đổi 
trạng thái chức năng khi mệt mỏi và chịu tác động của những yếu tố ngoại cảnh bất 
lợi. Đối tượng nghiên cứu cần tập trung chú ý quan sát theo đường dải màu di động 
và phản xạ chính xác để dải màu dừng đúng mục tiêu. Đường dải màu di chuyển sẽ 
xuất hiện 40 lần, hướng và vận tốc thay đổi ngẫu nhiên, khoảng thời gian xuất hiện 
giữa 2 dải màu là không cố định (từ 700 đến 1200 ms). Lỗi được tính khi phản xạ 
sớm trước khi dải màu xuất hiện hoặc không phản xạ sau khi dải màu đã chạy quá 
tâm 20mm. Quy ước: thời gian phản xạ nếu dải màu dừng đúng tâm có giá trị bằng 
0, dừng trước tâm có giá trị dương “+”, dừng quá tâm có giá trị âm “-”) [6]. 
Độ linh hoạt của HTKTW được đánh giá qua các chỉ số: tỷ lệ phản xạ đúng 
(Nđúng = số phản xạ trúng tâm/tổng số phản xạ, %); độ lệch trung bình của phản xạ 
đúng mục tiêu (chính xác), độ lệch trung bình của phản xạ dừng trước mục tiêu 
(sớm), độ lệch trung bình của phản xạ dừng quá mục tiêu (trễ). 
2.4. Xử lý số liệu 
Số liệu nghiên cứu được xử lý thống kê bằng phần mềm Microsoft Excel 
2010. Phép thử t-test được sử dụng để đánh giá độ tin cậy của sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê khi p<0,05. 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 20, 06-2020 69
3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
3.1. Độ nhạy của phản xạ thị giác vận động với ánh sáng đơn sắc 
PXTGVĐ với ánh sáng đơn sắc là phản xạ đơn giản nhất, chỉ đánh giá khả 
năng phản xạ nhanh hay chậm của HTKTW khi tiếp nhận kích thích ánh sáng. Thời 
gian phản xạ là chỉ số tổng hợp về tốc độ dẫn truyền kích thích theo các thành phần 
khác nhau của cung phản xạ, do đó thời gian phản xạ được xem là một tiêu chí đánh 
giá độ nhạy với kích thích ánh sáng [8]. Kết quả thực hiện test PXTGVĐ với ánh 
sáng đơn sắc màu vàng được trình bày tại bảng 2. 
Bảng 2. Kết quả thực hiện test PXTGVĐ với ánh sáng đơn sắc màu vàng 
Chỉ tiêu 
đánh giá 
Giới hạn 
tiêu chuẩn 
Kết quả nghiên cứu 
( തܺ ± SD) 
Tỷ lệ đối tượng đạt 
tiêu chuẩn, % 
p Nhóm A 
(n = 158) 
Nhóm B 
(n = 89) 
Nhóm A 
(n = 158) 
Nhóm B 
(n = 89) 
tTB, ms < 240 296 ± 3 309 ± 6 0 3,37 < 0,05 
tmin, ms 180 ÷ 200 205 ± 4 218 ± 6 7,87 6,33 < 0,05 
tmax, ms 250 ÷ 350 533 ± 24 546 ± 16 7,59 6,74 < 0,05 
Nsai, % ≤ 5 3,6 ± 0,5 3,7 ± 0,7 84,18 82,02 > 0,05 
F, đvqư > 3,7 3,5 ± 0,03 3,3 ± 0,05 38,61 32,58 < 0,05 
Kết quả tại bảng 2 cho thấy, thời gian phản xạ (tTB) trả lời tín hiệu của đối 
tượng nghiên cứu ở 2 nhóm A (296±3ms) và B (309±6 ms) đều nằm ngoài tiêu 
chuẩn cho phép của thiết bị (< 240 ms) [6]. Sự khác biệt giữa 2 nhóm nghiên cứu có 
ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Nhóm A không có đối tượng nghiên cứu đạt ngưỡng 
tiêu chuẩn, còn ở nhóm B có 3,37% (3/89) đối tượng nghiên cứu có thời gian phản 
xạ trung bình 235 ms (< 240 ms) nằm trong tiêu chuẩn của thiết bị. Nghiên cứu của 
tác giả Hoàng Văn Huấn và cs (2018) cho thấy thời gian PXTGVĐ trung bình với 
ánh sáng đơn sắc của các thủy thủ tàu ngầm là 291±3 ms [9]. Trong nghiên cứu của 
Nguyễn Thu Hà và cs, thời gian PXTGVĐ trung bình của công nhân lao động trên 
cao tại Công ty điện lực là 269±7 ms và của nhân viên hành chính là 267±2 ms [10]. 
Điều này phản ánh trong điều kiện hạn chế về thời gian, khả năng tiếp nhận - xử lý 
thông tin của HTKTW đối với công nhân tại nhà máy sản xuất thuốc phóng, thuốc 
nổ là chậm hơn so với các đối tượng lao động đặc thù khác tại Việt Nam. Thời gian 
phản xạ tối thiểu (tmin) và thời gian phản xạ tối đa (tmax) của 2 nhóm A và B đều vượt 
ngưỡng tiêu chuẩn của thiết bị (~1,4 lần) và sự khác biệt giữa 2 nhóm này mang ý 
nghĩa thống kê với p < 0,05. Giá trị tmin, tmaxcủa nhóm A nhỏ hơn của nhóm B và 
gần với giá trị tiêu chuẩn hơn. Tỷ lệ công nhân có tmin, tmax nằm trong giới hạn tiêu 
chuẩn của nhóm A (7,87% và 7,59%) nhiều hơn của nhóm B (6,33% và 6,74%). 
Khả năng phản xạ và độ nhạy với ánh sáng của công nhân nhóm A là cao hơn so với 
công nhân nhóm B. Điều này có thể giải thích là do môi trường lao động đặc thù, 
công nhân nhóm A sản xuất theo dây chuyền, tính chất công việc đơn giản, nên khi 
thực hiện các test đơn giản họ thực hiện tốt hơn nhóm B. 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 20, 06-2020 70
Tốc độ và khả năng phản xạ phụ thuộc chủ yếu vào trạng thái của HTKTW và 
trạng thái này thay đổi theo điều kiện môi trường lao động thường xuyên [11]. Tỷ lệ 
phản xạ sai (Nsai) của công nhân nhóm A (3,6±0,5%) và B (3,7±0,7%) đều nằm 
trong tiêu chuẩn của thiết bị (≤ 5%) và hầu hết công nhân (> 80%) vẫn có mức độ 
phản xạ tốt với ánh sáng. Test PXTGVĐ với ánh sáng đơn sắc cũng cho phép đánh 
giá độ nhạy của phản xạ thông qua chỉ số mức độ chức năng của HTKTW (F, đvqư). 
Nhóm A và nhóm B có mức độ chức năng của HTKTW lần lượt là 3,5±0,03 và 
3,3±0,05, thấp hơn giới hạn tiêu chuẩn của thiết bị (> 3,7), điều này phản ánh khả 
năng phản xạ và tốc độ xử lý của HTKTW của công nhân đều nằm ở mức thấp và có 
sự khác biệt giữa 2 nhóm có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Tỷ lệ công nhân có mức 
độ chức năng của HTKTW đạt tiêu chuẩn của nhóm A (38,61%) và nhóm B 
(32,58%) tương đương với 1/3 công nhân có tốc độ xử lý thông tin trong điều kiện 
giới hạn về thời gian là tốt và ổn định. Hơn thế nữa kết quả nghiên cứu cho thấy giá 
trị tối thiểu của mức độ chức năng HTKTW nhóm B là 1,89 và nhóm A là 2,38. 
Điều này một lần nữa chỉ ra sự ảnh hưởng, tác động của môi trường lao động khác 
biệt tới 2 nhóm nghiên cứu, với công việc mang tính chất đơn điệu, lặp đi lặp lại 
thường xuyên thì công nhân nhóm A có độ nhạy và khả năng xử lý của HTKTW cao 
hơn nhóm B. 
3.2. Độ chính xác của phản xạ thị giác vận động với tổ hợp ánh sáng màu 
Thời gian phản xạ trung bình được tính từ khi xuất hiện tín hiệu ánh sáng cho 
đến khi đối tượng nghiên cứu có phản xạ trả lời tín hiệu trên thiết bị [7]. Kết quả 
nghiên cứu của công nhân tại nhà máy sản xuất thuốc phóng thuốc nổ ở Bảng 3 cho 
thấy thời gian phản xạ trung bình (tTB, ms) với tổ hợp ánh sáng màu của nhóm A và 
B có giá trị tương ứng lần lượt là 626±12 ms và 588±16 ms, sự khác biệt của 2 
nhóm có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Khả năng phản xạ và tốc độ xử lý của công 
nhân tại nhà máy thuốc phóng thuốc nổ chậm hơn so với bộ đội ra đa khi thực hiện 
trên cùng một thiết bị, thời gian phản xạ trung bình là 493±22 ms [12]. Tuy nhiên độ 
chính xác (Nđúng/20 lần) của công nhân nhóm A (19,3±0,1) và nhóm B (19,0±0,1) 
nằm ở mức cao, trên 95%. Điều này cho thấy khả năng xử lý và độ chính xác phản 
xạ của công nhân tại nhà máy là tỷ lệ nghịch với nhau. Do đặc thù công việc được 
rèn luyện trong thời gian dài, phải chính xác trong từng thao tác để tránh những tai 
nạn nguy hiểm, bất ngờ đã giúp công nhân tuy có khả năng phản xạ chậm, nhưng độ 
chính xác luôn nằm ở mức cao. Thời gian phản xạ tối thiểu (tmin) và tối đa (tmax) của 
công nhân nhóm B nhanh hơn công nhân nhóm A, sự khác biệt này có ý nghĩa thống 
kê với p < 0,05. Khi thực hiện test này, tỷ lệ đối tượng không mắc lỗi ở 2 nhóm là 
tương đương nhau: nhóm A là 50,56% và nhóm B là 48,41%. Điều này có thể giải 
thích là khi công việc đòi hỏi độ phức tạp, cũng như khi thực hiện test cần sự kết 
hợp thì nhóm B đạt kết quả tốt hơn nhóm A. 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 20, 06-2020 71
Bảng 3. Kết quả thực hiện test PXTGVĐ với tổ hợp ánh sáng màu 
Chỉ tiêu đánh giá Kết quả nghiên cứu (
തܺ ± SD) 
p 
Nhóm A (n = 158) Nhóm B (n = 89) 
tTB, ms 626 ± 12 588 ± 16 < 0,05 
tmin, ms 470 ± 9 441 ± 12 < 0,05 
tmax, ms 885 ± 23 815 ± 28 < 0,05 
Nđúng, lần 19,3 ± 0,1 19,0 ± 0,1 > 0,05 
Tỷ lệ đối tượng 
không mắc lỗi, % 50,56 48,41 - 
Theo bảng 1,cả 2 nhóm A và B đều có điểm đánh giá về độ nhanh và chính 
xác của PXTGVĐ là 1 (mức rất thấp). Dù độ chính xác phản xạ của công nhân là 
tương đối cao nhưng do khả năng phản xạ quá chậm dẫn đến mức độ phản xạ chỉ 
nằm ngưỡng thấp và rất thấp (hình 1). 
Hình 1. Mức độ phản xạ nhanh và chính xác với tổ hợp ánh sáng màu đỏ - xanh lá 
Theo thang điểm của thiết bị, đa số công nhân nhóm A (82,05%) và nhóm B 
(76,47%) có mức độ phản xạ rất thấp. Mức độ phản xạ tối đa mà công nhân có thể 
đạt được chỉ nằm ở ngưỡng trung bình của thiết bị và với tỷ lệ rất nhỏ, dưới 5%. 
Kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy mức độ cẩn thận và chính xác khi thực 
hiện nghiên cứu của công nhân tại nhà máy tương đối lớn, nhưng tốc độ tiếp nhận - 
xử lý thông tin, khả năng phản xạ của công nhân không cao. 
3.3. Độ linh hoạt của hệ thần kinh qua phản xạ thị giác với mục tiêu di động 
Tốc độ và độ chính xác của PXTGVĐ không phải là đại lượng bất biến mà 
thay đổi dưới sự tác động của các yếu tố ngoại cảnh đến HTKTW: khả năng tập 
trung chú ý, trí thông minh, trạng thái cảm xúc, trạng thái tâm lý, điều kiện làm việc 
và thiết bị nghiên cứu [13]. Kết quả thực hiện PXTGVĐ với mục tiêu di động được 
trình bày tại bảng 4. 
004
014
082
Nhóm A
Rất cao Cao
005
019
076
Nhóm B
Trung Bình Thấp Rất thấp
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 20, 06-2020 72
Bảng 4. Kết quả thực hiện test PXTGVĐ với mục tiêu di động 
Chỉ tiêu 
đánh giá 
Giới hạn 
tiêu chuẩn 
Kết quả nghiên cứu ( തܺ ± SD) 
P Nhóm A 
(n = 158) 
Nhóm B 
(n = 89) 
Nđúng, % > 25 16,8 ± 0,6 15,1 ± 0,7 > 0,05 
Tỷ lệ đối tượng phản xạ 
trúng mục tiêu >25%, % 11,39 15,36 - 
Kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng phản xạ chính xác của công nhân với 
mục tiêu di động là rất thấp, dưới ngưỡng tiêu chuẩn của thiết bị (> 25%): 16,8±0,6% 
(nhóm A) và 15,1±0,7% (nhóm B), sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với 
p > 0,05. Kết quả này cũng là thấp hơn khi so sánh với nghiên cứu được thực hiện 
tương tự trên thủy thủ tàu ngầm, tỷ lệ phản xạ chính xác là 22±1,0% [6]. Điều này 
cho thấy hoạt động nghề nghiệp đơn điệu và thiếu các kích thích thường xuyên có tác 
động rất lớn tới khả năng phản xạ của công nhân với mục tiêu di động. Tỷ lệ đối 
tượng có phản xạ trúng mục tiêu trên 25% ở nhóm A (11,39%) là thấp hơn so với 
nhóm B (15,36%), một lần nữa phản ánh trạng thái chức năng cơ thể căng thẳng, mệt 
mỏi của công nhân nhóm A khi chịu tác động của những yếu tố ngoại cảnh bất lợi. 
Sự thay đổi các đặc điểm phản xạ thị giác với mục tiêu di động phản ánh khả 
năng tập trung chú ý và mức độ linh hoạt của HTKTW. Độ lệch trung bình phản xạ 
sớm và trễ của công nhân nhóm A là 27,45% và 9,25%, nhóm B là 25,90% và 
9,75% đều vượt ngưỡng theo tiêu chuẩn thiết bị (<15% và <6%) (hình 2). Kết quả 
này phản ánh xu hướng phản xạ sớm và vội với độ linh hoạt thấp của HTKTW ở cả 
2 nhóm nghiên cứu, đặc biệt là của nhóm A. 
Hình 2. Độ lệch trung bình của các PXTGVĐ với mục tiêu di động, % 
15,0
1,1
-6,0
27,45
1,02
-9,25
25,9
1,01
-9,75
-15
-10
-5
0
5
10
15
20
25
30
phản xạ sớm phản xạ chính xácĐộ
 lệ
ch
 tr
un
g 
bì
nh
, %
Phản xạ
Tiêu chuẩn
Nhóm A
Nhóm B
phản xạ trễ 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 20, 06-2020 73
4. KẾT LUẬN 
- Khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin từ chuỗi phản xạ thị giác vận động tới 
hệ thần kinh trung ương của công nhân tại nhà máy sản xuất thuốc phóng thuốc nổ 
nằm ở mức thấp. 
- Mặc dù tốc độ tiếp nhận và xử lý thông tin chậm, độ linh hoạt của hệ thần 
kinh trung ương thấp, nhưng mức độ cẩn thận và chính xác trong thao tác của công 
nhân nằm ở ngưỡng cao, trên 95%. 
- So với những đối tượng khác cùng làm việc trong nhà máy, nhóm công nhân 
trực tiếp tiếp xúc với hóa chất sản xuất thuốc phóng thuốc nổ có độ nhạy cao và khả 
năng phản xạ nhanh với ánh sáng đơn sắc; tốc độ xử lý chậm nhưng chính xác với tổ 
hợp ánh sáng màu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bolt H.M., Genotoxicity and potential carcinogenicity of 2,4,6-TNT 
trinitrotoluene: structural and toxicological considerations, Rev Environ 
Health, 2006, p.28. 
2. Nguyễn Liễu, Nghiên cứu thực trạng ô nhiễm môi trường lao động và sức 
khỏe bệnh tật của công nhân tại một số nhà máy xí nghiệp quốc phòng, Y học 
lao động và vệ sinh môi trường, 2010, số 13. 
3. Nguyễn Văn Thuyên, Thực trạng ô nhiễm trinitrotoluen (TNT) trong môi 
trường lao động và tình hình sức khỏe của người lao động ở một số đơn vị sản 
xuất, kiển nghiệm, sửa chữa và bảo quản đạn dược quốc phòng, Tạp chí Y học 
Tp. Hồ Chí Minh, 2014, số 6. 
4. Naderi M., Ghanei M., Shohrati M., Saburi A., Babaei M., Systemic 
complications of trinitrotoluene (TNT) in exposed workers, 2013, p.4. 
5. Sabbioni G., Biomonitoring of workers cleaning up ammunition waste sites, 
Biomarkers, 2007, 12(6):73. 
6. ИНМЭТ РИТМ-МЭТ ПК, Автоматизированный комплекс 
ритмографический для предсменного медико-психофизиологического 
контроля функционального состояния оперативного персонала. 
Руководство пользователя, 2016. 
7. НПКФ «МЕДИКОМ МТД», Модуль психомоторных тестов. 
Методический справочник А 7479-02_МС., 2017. 
8. Кубарко А.И., Изменение световой чувствительности зрительной 
системы с возрастом и при ишемической оптической нейропатии, 
Журнал неврологии и психиатрии, 2015, 1:18-23. 
9. Hoàng Văn Huấn, Biến đổi trạng thái chức năng cơ thể của thủy thủ tàu ngầm 
sau một năm đi biển, Tạp chí KH&CN Nhiệt đới, 2019, 19:72-79. 
10. Nguyễn Thu Hà, Thực trạng điều kiện lao động và biến đổi chỉ tiêu tâm sinh lý 
của người lao động trên cao, Báo cáo Hội nghị KH YHLĐ toàn quốc lần thứ 
V, Hà Nội, 2004, tr.165-174. 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 20, 06-2020 74
11. Бодров В.А., Психология профессиональной пригодности. Учебное 
пособие для вузов-М., ПЕР СЭ, 2011, c.511 (Современное образование). 
12. Bùi Thị Hương, Đặc điểm phản xạ với kích thích ánh sáng của bộ đội radar 
bằng test phản xạ thị giác vận động đơn giản và phức tạp, Tạp chí sinh lý học 
Việt Nam, 2019, 23:40-50. 
13. Шутова С.В., Сенсомоторные реакции как характеристика функции 
состояния ЦНС, Вестник ТГУ, 2013, т.18, вып.5. 
SUMMARY 
ASSESSMENT ON REACTION SPEED OF THE CENTRAL NERVOUS 
SYSTEM BASED BY VISUAL REFLEXES OF WORKERS AT GUNPOWDER 
FACTORIES 
The study was conducted to evaluate the ability of receiving - processing 
information through the visual organ to the central nervous system by visual reflexes 
tests with monochromatic light, color light complexes and moving targets. 
Participants were 247 workers aged 27 to 57 from two factories manufacturing 
explosive X and Y. They were divided into 2 groups: one group working in direct 
contact with chemicals manufacturing explosives (n=158) and the other group 
working in other workshops that do not come in direct contact with chemicals 
manufacturing explosives (n=89). Visual reflexes is assessed through criteria: 
average visual reflex time from light stimulation to reflex (ms), maximum and 
minimum reflex time (ms), error rate (%), accuracy of reflex (%) and activation 
speed of the central nervous system. The results showed that the ability of receiving 
and processing information from the visual organs to the central nervous system of 
workers at the explosives factory manufacturing was lower than those at other 
working environment. Although their speed of receiving and processing information, 
and activation speed of their central nervous system were low, their level of 
cautiousness and accuracy during manufacturing is high. The group of workers 
directly exposed to explosive chemicals had high sensitivity and were capable of 
quick reflex to monochrome light. Their processing speed was slow but their 
answers of the color light combination were accurate. 
Keywords: Workers, central nervous system, visual reflexes, công nhân, hệ 
thần kinh trung ương, phản xạ thị giác vận động. 
Nhận bài ngày 08 tháng 01 năm 2020 
Phản biện xong ngày 13 tháng 02 năm 2020 
Hoàn thiện ngày 24 tháng 02 năm 2020 
 (1) Viện Y sinh Nhiệt đới, Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_do_linh_hoat_he_than_kinh_trung_uong_thong_qua_chuo.pdf