Đánh giá dây chằng quạ đòn bằng cộng hưởng từ sau điều trị trật khớp cùng đòn bằng phẫu thuật tái tạo dây chằng quạ đòn dùng gân gấp nông ngón III

Mục tiêu: Đánh giá hình ảnh cộng hưởng từ về mức độ lành của dây chằng quạ

đòn sau khi điều trị bằng phẫu thuật tái tạo dây chằng quạ đòn bằng gân gấp gấp nông

ngón III.

Phương pháp: 15 bệnh nhân phải trải qua điều trị phẫu thuật trật khớp cùng

đòn bằng phẫu thuật tái tạo dây chằng quạ đòn theo giải phẫu bằng gân gấp nông ngón

III sau khoảng thời gian ít nhất là một năm sau phẫu thuật được mời trở lại để đánh giá

bằng cộng hưởng từ. Đánh giá này được thực hiện bằng các tiêu chuẩn tương tự với

thang đo được mô tả trong các tài liệu nghiên cứu sự phục hồi của dây chằng chéo trước

khớp gối và để đo các dây chằng quạ đòn đã phục hồi.

Kết quả: Một cấu trúc sẹo dạng sợi kết nối quạ đòn được hình thành trong 100%

các trường hợp. Trong 100% các trường hợp, hình ảnh của cấu trúc này đầy đủ độ I, II

hoặc ít nhất có 1 dây chằng lành hoàn toàn độ I, II theo phân loại của Ihara.

pdf 10 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá dây chằng quạ đòn bằng cộng hưởng từ sau điều trị trật khớp cùng đòn bằng phẫu thuật tái tạo dây chằng quạ đòn dùng gân gấp nông ngón III", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá dây chằng quạ đòn bằng cộng hưởng từ sau điều trị trật khớp cùng đòn bằng phẫu thuật tái tạo dây chằng quạ đòn dùng gân gấp nông ngón III

Đánh giá dây chằng quạ đòn bằng cộng hưởng từ sau điều trị trật khớp cùng đòn bằng phẫu thuật tái tạo dây chằng quạ đòn dùng gân gấp nông ngón III
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 19 - 9/2019 
76
ĐÁNH GIÁ DÂY CHẰNG QUẠ ĐÒN BẰNG CỘNG HƯỞNG TỪ 
SAU ĐIỀU TRỊ TRẬT KHỚP CÙNG ĐÒN 
BẰNG PHẪU THUẬT TÁI TẠO DÂY CHẰNG QUẠ ĐÒN 
DÙNG GÂN GẤP NÔNG NGÓN III
Lê Chí Dũng1, Vũ Xuân Thành2, Đỗ Hải Thanh Anh2
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá hình ảnh cộng hưởng từ về mức độ lành của dây chằng quạ 
đòn sau khi điều trị bằng phẫu thuật tái tạo dây chằng quạ đòn bằng gân gấp gấp nông 
ngón III. 
Phương pháp: 15 bệnh nhân phải trải qua điều trị phẫu thuật trật khớp cùng 
đòn bằng phẫu thuật tái tạo dây chằng quạ đòn theo giải phẫu bằng gân gấp nông ngón 
III sau khoảng thời gian ít nhất là một năm sau phẫu thuật được mời trở lại để đánh giá 
bằng cộng hưởng từ. Đánh giá này được thực hiện bằng các tiêu chuẩn tương tự với 
thang đo được mô tả trong các tài liệu nghiên cứu sự phục hồi của dây chằng chéo trước 
khớp gối và để đo các dây chằng quạ đòn đã phục hồi.
Kết quả: Một cấu trúc sẹo dạng sợi kết nối quạ đòn được hình thành trong 100% 
các trường hợp. Trong 100% các trường hợp, hình ảnh của cấu trúc này đầy đủ độ I, II 
hoặc ít nhất có 1 dây chằng lành hoàn toàn độ I, II theo phân loại của Ihara.
Kết luận: Sau khi đánh giá sau phẫu thuật bằng cách sử dụng cộng hưởng từ 
trên 15 bệnh nhân đã được điều trị trật khớp cùng đòn bằng phẫu thuật tái tạo dây 
chằng quạ đòn bằng gân gấp gấp nông ngón III, cho thấy dây chằng quạ đòn đã lành 
trong 100% các trường hợp và sự lành này hoàn toàn ở 100% trường hợp.
1 Bệnh viện Sài Gòn ITO
2 Đại học Y dược TP.HCM
Người phản hồi (Corresponding): Vũ Xuân Thành ([email protected])
Ngày nhận bài: 11/7/2019, ngày phản biện: 20/7/2019
Ngày bài báo được đăng: 30/9/2019
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
77
EVALUATION OF CORACOCLAVICULAR LIGAMENTS BY MRI 
AFTER CORACOCLAVICAL LIGAMENTS RECONSTRUCTION WITH 
THE FLEXOR DIGITORUM III SUPERFICIALIS TENDON TO TREAT 
ACROMIOCLAVICULAR JOINT DISLOCATION
ABSTRACT
Purpose: To evaluate the magnetic resonance imaging of coracoclavicular 
ligament after coracoclavicular ligaments reconstruction with the flexor digitorum III 
superficialis tendon to treat acromioclavicular joint dislocation.
Method: 15 patients with acromioclavicular joint dislocation were treated by 
coracoclavicular ligaments reconstruction with the flexor digitorum III superficialis 
tendon. At least 1-year postoperative, patients was evaluated by MRI. This evaluation 
is performed by the same scale described in the literature that studies the recovery of 
anterior cruciate ligament of knee and coracoclavicular ligament.
Result: 100% cases formed a fibrous scar structure connected coracoclavicular 
interval. In 100% of cases, the image of this structure is fully level I, II or at least 1 
ligament completely healed level I, II according to Ihara’s classification.
Conclusion: After postoperative evaluation by MRI, coracoclavicular ligaments 
were completely healed in 100% of cases.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trật khớp cùng đòn (TKCĐ) là 
một tình trạng bệnh lý chấn thương của vai 
chủ yếu xảy ra ở người trưởng thành trẻ 
tuổi. Sự thay đổi giải phẫu và cơ sinh học 
gây ra bởi sự rách, đứt dây chằng quạ đòn 
là một yếu tố quan trọng trong việc quyết 
định có nên điều trị phẫu thuật hay không 
phẫu thuật.(4, 5, 7)
Hệ thống phân loại trên phim 
chụp X-quang đã được thiết lập bởi 
Rockwood(1) bằng cách sử dụng vai bên 
đối diện như một tham số so sánh như sau: 
TKCĐ độ I: khoảng cách quạ đòn bình 
thường; TKCĐ độ II: tăng khoảng cách 
quạ đòn, nhưng nhỏ hơn 25%; TKCĐ độ 
III: khoảng cách quạ đòn tăng 25-100%; 
TKCĐ độ IV: đầu ngoài xương đòn di 
chuyển ra sau; TKCĐ độ V: khoảng cách 
quạ đòn tăng 100–300%; và TKCĐ độ 
VI: khoảng cách quạ đòn giảm hoặc đảo 
ngược.
Các dây chằng quạ đòn là yếu tố 
ổn định chính của khớp cùng đòn và nâng 
đỡ chính cho chi trên.(4, 5, 7) Tuy nhiên, 
ít được tìm hiểu về khả năng phục hồi 
của chúng sau khi điều trị phẫu thuật cho 
TKCĐ.
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 19 - 9/2019 
78
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
Chụp cộng hưởng từ (MRI) trên 
15 bệnh nhân từ 24 đến 60 tuổi (cả nam và 
nữ), với chẩn đoán ban đầu là TKCĐ độ 
III đến V, để đánh giá. Những bệnh nhân 
này được chọn từ mẫu của chúng tôi được 
bệnh nhân đồng ý. Chúng tôi ưu tiên chọn 
những ca thời gian từ lúc chấn thương đến 
lúc phẫu thuật lâu nhất (trên 3 tháng 8 ca), 
trật độ cao (6 ca độ V và 1 ca độ IV), kết 
quả X quang cuối cùng là mất nắn khớp (5 
ca) (bảng 2). Tất cả đều được phẫu thuật 
bởi cùng một nhóm phẫu thuật và với cùng 
một kỹ thuật: kết nối xương đòn với mỏm 
quạ bằng cách sử dụng gân gấp nông ngón 
III của chính bệnh nhân tái tạo dây chằng 
quạ đòn 2 bó theo giải phẫu với 2 đường 
hầm xương tại vị trí bám của dây chằng 
nón và thang tại xương đòn và 1 đường 
hầm xương ở mỏm quạ (hình 1, hình 2). 
Thời gian thực hiện theo dõi tối thiểu sau 
phẫu thuật là một năm.
Các bệnh nhân được chọn ra được 
yêu cầu đến chụp MRI bằng máy 1.5Tesla 
Siemens, trong các tiêu chuẩn được mô 
tả trong y văn để đánh giá dây chằng quạ 
đòn (Hình 3). Kỹ thuật chụp bao gồm các 
mặt cắt theo ba hướng trong đó mặt cắt 
coronal là mặt phẳng khảo sát chính với 
các lát cắt song song với đường thẳng vạch 
giữa đỉnh mỏm quạ và đỉnh của mấu động 
nhỏ xương cánh tay. Các lát cắt có độ dày 
2.5mm (trên hình T2W không và có xóa 
mỡ) và 0.8mm trên hình trọng proton 3D 
và được chụp khi bệnh nhân nằm ở vị trí 
trung tính. Các oil số hình ảnh như sau: 
chọn chuỗi xung turbo spin echo trường 
nhìn 160mmx160mm, kích thước ma trận 
307x384 cho 2D và 214x256 cho 3D, độ 
dày lát cắt là 2.5mm cho 2D và 0.8mm cho 
3D. Các kết quả đọc được đánh giá chung 
bởi một bác sĩ chẩn đoán hình ảnh chuyên 
MRI vùng vai.
Hình 1: Hình vẽ sơ đồ thể hiện các đường hầm xương tái tạo dây chằng quạ đòn 
2 bó theo giải phẫu với 2 đường hầm xương tại vị trí bám của dây chằng nón và thang 
tại xương đòn và 1 đường hầm xương ở mỏm quạ (14)
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
79
Hình 2: Tái tạo dây chằng quạ đòn với mảnh ghép luồn qua 3 đường hầm 
xương ở xương đòn và mỏm quạ. A: trên mẫu xác tươi, B: hình ảnh miêu tả 3 chiều (14).
Hình 3 – MRI sử dụng các tiêu chuẩn được mô tả để khảo sát dây chằng quạ 
đòn của một bệnh nhân đã trải qua điều trị phẫu thuật.
Để đánh giá sự hiện diện và chất 
lượng lành của dây chằng quạ đòn, chúng 
tôi đã sử dụng thang đo được mô tả trước 
đây trong y văn (11). Đây là một thang đo 
để đánh giá sự lành của mô ghép lấy từ các 
gân gấp của khớp gối, được sử dụng trong 
tái tạo sau tổn thương dây chằng chéo 
trước. Thang đo này phân loại ảnh chụp 
MRI của dây chằng thành bốn độ theo kích 
thước và dấu hiệu đồng nhất của chúng 
(Bảng 1). Dây chằng được phân loại là độ 
I và II ứng với có độ vững tốt và do đó có 
thể được phục hồi hoàn toàn và xem như 
lành, trong khi những loại được xếp độ III 
và IV được xem là phục hồi không hoàn 
toàn hoặc không được chữa lành. Hình 
dạng của mô sẹo thấy được (dây chằng 
mới) được đánh giá bằng phần mềm ứng 
dụng eFilm 3.0.
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 19 - 9/2019 
80
Bảng 1: Phân độ đánh giá sự lành của dây chằng bằng phương pháp MRI (11)
Phân độ Đặc điểm hình ảnh
I
Dải thẳng được xác định rõ ràng với kích thước bình 
thường với tín hiệu cường độ thấp đồng nhất
II
Dải thẳng được xác định rõ ràng với tín hiệu cường độ thấp 
đồng nhất và các điểm hiển thị tín hiệu cường độ cao
III
Dải mỏng với tín hiệu cường độ thấp có chứa 
các khối tín hiệu cường độ cao
IV Dải tín hiệu tối không thể phân biệt
Các phép đo sau cần được thực 
hiện: chiều dài, đo dọc theo hướng của các 
sợi của dây chằng mới, từ điểm giữa của 
nguyên ủy tại xương đòn đến điểm giữa 
của bám tận tại mỏm quạ; chiều rộng, trong 
mặt phẳng coronal ở phần gần (nguyên ủy 
tại xương đòn) và phần xa (bám tận tại 
mỏm quạ) (Hình 4A, B).
KẾT QUẢ
Quan sát các kết quả MRI, ảnh 
chụp của tất cả các bệnh nhân có xuất hiện 
mô sẹo dạng sợi kết nối đầu ngoài xương 
đòn với mỏm quạ. Tất cả 15 bệnh nhân có 
ít nhất 1 dây chằng thang hoặc nón phân 
loại là độ I hoặc II, được xem là dây chằng 
đã được lành tốt.
Về hình ảnh học của các dây chằng 
quạ đòn đã phục hồi, có sự phân biệt giữa 
hai dây chằng (dây chằng nón và thang) 
với sự khác nhau về số đo giữa các bệnh 
nhân (Bảng 3).
Bảng 2: Một số đặc điểm các bệnh nhân được chụp MRI 
Số thứ tự Tuổi Độ trật khớp
Thời gian từ lúc chấn 
thương đến khi mổ (tuần)
Kết quả X quang 
cuối cùng
1 60 V 28 TốtII
2 35 III 4 Tốt
3 44 III 12 Tốt
4 39 III 3 Tốt
5 31 V 24 Tốt
6 24 III 3 Tốt
7 47 III 240 (5 năm) Tốt
8 46 III 640 (13 năm 4 tháng) Tốt
9 35 IV 312 (6,5 năm) Tốt
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
81
10 40 III 28 Tốt
11 30 V 4 Mất nắn khớp
12 33 V 20 Mất nắn khớp
13 46 V 0,5 Mất nắn khớp
14 40 V 0,5 Mất nắn khớp
15 40 III 6 Mất nắn khớp
Bảng 3: Kết quả đánh giá MRI sau phẫu thuật ít nhất 1 năm ở bệnh nhân được 
điều trị phẫu thuật cho TKCĐ
Bệnh 
nhân
Phân 
độ 
lành 
dây 
chằng 
nón 
Phân 
độ 
lành 
dây 
chằng 
thang
Chiều 
dài 
theo 
phương 
dọc của 
dây 
chằng 
nón 
mới
(mm)
Chiều 
dài theo 
phương 
dọc của 
dây 
chằng 
thang 
mới
(mm)
Chiều 
rộng 
của dây 
chằng 
nón 
(xương 
đòn) 
(mm)
Chiều 
rộng 
của dây 
chằng 
nón 
(mỏm 
quạ) 
(mm)
Chiều 
rộng 
của dây 
chằng 
thang 
(xương 
đòn) 
(mm)
Chiều 
rộng 
của 
dây 
chằng 
thang 
(mỏm 
quạ) 
(mm)
1 II III 21,5 18 9.63 11,7 9,59 mm 8,27
2 III II 18,4 15,3 5,13 6,38 9,47 mm 8,84
3 II I 17,5 19,7 6,76 6,95 7,26 mm 6,95
4 III II 19,3 19,2 13,4 15,5 9,14 mm 9,18
5 II II 17,9 20,8 6,85 13,3 9,16 mm 10,6
6 II II 17,5 20,5 12,1 10,3 12,3 mm 9,84
7 II I 18 18,2 11,1 12,2 11,5 mm 12
8 II I 18,9 22,4 9,16 12,8 8,21 mm 7,41
9 I III 17,8 16,2 8,02 11,2 11,7 
mm
11,4
10 II I 11,8 19,9 13,7 11 11,3 13,3 
11 II I 19,4 23,8 12,1 12,3 7,56 9,52
12 II I 18,8 19,2 8,87 11,4 11,5 10,7
13 II I 17,2 24 14,1 15,2 6,54 7,33
14 II III 16 20,1 10,6 11,9 5,65 7,21
15 II II 14 19 12 6 9 3,5
Trung 
bình
17,6 19,7 10,2 11,2 9,3 9,0
BÀN LUẬN
Để đánh giá sự lành của dây chằng 
quạ đòn, các thông số giải phẫu đã được 
thiết lập trước đây cho chấn thương dây 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 19 - 9/2019 
82
chằng đầu gối đã được sử dụng trong 
nghiên cứu này, do không có thông số 
được thiết lập trước cho dây chằng quạ 
đòn trong các tài liệu y văn. Khoảng thời 
gian được xem xét việc lành ở những bệnh 
nhân được điều trị phẫu thuật cho TKCĐ 
được xác định dựa trên thời gian sau phẫu 
thuật tối thiểu cần thiết cho dây chằng chéo 
trước khớp gối, tái tạo bằng cách sử dụng 
mô ghép từ gân gấp, để đạt được trạng 
thái mô học tương tự như ban đầu. Theo 
tài liệu y văn (9) thời gian dao động từ 30 
đến 52 tuần. Trong một nghiên cứu được 
tiến hành bởi Clayer và cộng sự (2), chụp 
MRI trên sáu bệnh nhân trải qua điều trị 
phẫu thuật cho TKCĐ, trong đó một vòng 
chỉ tan được sử dụng để cố định quạ đòn, 
họ đã được quan sát thấy rằng xuất hiện 
một cấu trúc dạng sợi kết nối mỏm quạ với 
xương đòn sáu tháng sau khi phẫu thuật.
MRI là một phương pháp kiểm 
tra hiệu quả và chính xác để đánh giá chi 
tiết cấu trúc dây chằng của các khớp trên 
cơ thể con người, chẳng hạn như vai và 
đầu gối (3). Nemec và cộng sự (12) đã so 
sánh MRI với ảnh chụp X quang để phân 
loại TKCĐ ở 44 bệnh nhân theo phân 
loại Rockwood. Các xét nghiệm phù hợp 
cho việc phân loại các chấn thương trong 
52,2% các trường hợp, trong đó chứng 
minh rằng MRI là một xét nghiệm đặc 
hiệu hơn. 
Hình 4: Các thông số được sử dụng 
để đo lường dây chằng mới giữa mỏm quạ 
và xương đòn, ở bệnh nhân sau thời gian 
phẫu thuật tối thiểu 1 năm sau khi điều trị 
phẫu thuật cho TKCĐ. A: chiều dài, chiều 
rộng ở nguyên ủy xương đòn và bám tận 
tại mỏm quạ của dây chằng thang. B: chiều 
dài, chiều rộng ở nguyên ủy xương đòn và 
bám tận tại mỏm quạ của dây chằng nón.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
một cấu trúc mô sẹo đã được quan sát 
bằng cách sử dụng MRI trong 100% các 
trường hợp được chụp. Nó có dạng sợi 
phân biệt rõ cả 2 dây chằng (dây chằng 
nón và thang) kết nối quạ đòn và có dấu 
hiệu của việc lành hoàn toàn trong 100% 
các trường hợp. Khác với nghiên cứu của 
Faira và công sự (8) đánh giá trên 10 bệnh 
nhân, 100% cũng có dạng sợi, hình thang 
và nối kết quạ đòn nhưng không phân biệt 
được hình ảnh 2 dây chằng (hình 5) và có 
tới 50% các trường hợp lành không hoàn 
toàn. Faria và cộng sự chỉ dùng 2 sợi chỉ 
neo không tan tái tạo dây chằng quạ đòn 
(hình 6) chứ không dùng gân tự thân tái 
tạo như chúng tôi. Trong nghiên cứu của 
Clayer và cộng sự (2), đánh giá cũng thấy 
có sự hình thành cấu trúc giải phẫu mô sợi 
ở các vùng của dây chằng quạ đòn nhưng 
không đánh giá mức độ lành của chúng. 
Takase và cộng sự (13) chụp MRI tất cả 
22 bệnh nhân trật khớp cùng đòn độ V cấp 
tính được tái tạo dây chằng quạ đòn theo 
giải phẫu với bó nón dùng gân gan tay 
dài tự thân và EndoButton, bó thang dùng 
dây chằng nhân tạo và EndoButton 1 năm 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
83
sau phẫu thuật thấy rõ hình ảnh dây chằng 
thang và nón trên 19 bệnh nhân (86%), 
nhưng không đánh giá cụ thể mức độ lành 
của dây chằng.
Hình 5: Các thông số được sử dụng để đo lường dây chằng mới giữa mỏm quạ 
và xương đòn, ở bệnh nhân sau thời gian phẫu thuật muộn sau khi điều trị phẫu thuật 
cho TKCĐ của tác giả Faria và cộng sự(8). Không thấy có sự phân biệt giữa 2 dây 
chằng thang và nón. A: chiều dài, B: chiều rộng ở nguyên ủy xương đòn và bám tận tại 
mỏm quạ.
Hình 6: Hình vẽ sơ đồ thể hiện vị trí của các neo và lỗ khoan trong xương đòn, 
(A) mặt sau và (B) mặt trước theo kỹ thuật của Faria và cộng sự. (8)
Trong một nghiên cứu giải phẫu 
trên dây chằng quạ đòn, Harris và cộng 
sự (10) đã thực hiện các phép đo trên 24 
vai của các tử thi và tìm thấy các kết quả 
sau đây: chiều dài của dây chằng nón, 19,4 
mm; chiều dài dây chằng thang, 19,3 mm; 
chiều rộng của nguyên ủy dây chằng nón 
trên xương đòn, 20,6 mm; chiều rộng của 
bám tận dây chằng nón trên mỏm quạ, 10,6 
mm; chiều rộng của nguyên ủy dây chằng 
thang trên xương đòn, 21,7 mm; và chiều 
rộng của bám tận dây chằng thang trên 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 19 - 9/2019 
84
mỏm quạ, 14,0 mm. Trong nghiên cứu, 
chúng tôi sử dụng MRI, các phương pháp 
tương tự để đo chiều dài của dây chằng 
mới được hình thành sau khi phẫu thuật. 
Các phương tiện để đo chiều rộng không 
thể so sánh được vì sự khác biệt về hình 
dạng giữa các dây chằng quạ đòn và dây 
chằng mới do chúng tôi khoan đường hầm 
xương tùy theo đường kính gân ghép để tái 
tạo dây chằng.
Không có mối tương quan lâm 
sàng và cơ sinh học nào liên quan đến kết 
quả của nghiên cứu này vì cỡ mẫu nhỏ.
KẾT LUẬN
Các đánh giá sau phẫu thuật bằng 
cách sử dụng cộng hưởng từ, trên 15 bệnh 
nhân đã được điều trị trật khớp cùng đòn 
bằng phẫu thuật tái tạo dây chằng quạ đòn 
theo giải phẫu bằng gân gấp gấp nông ngón 
III, cho thấy dây chằng quạ đòn đã lành 
trong 100% các trường hợp và sự lành này 
hoàn toàn ở 100% trường hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alyas F, Curtis M, Speed C, 
Saifuddin A, Connell D (2008). MR 
imaging appearances of acromioclavicular 
joint dislocation. Radiographics; 28 
(2):463–79.
2. Clayer M, Slavotinek J, 
Krishnan J (1997). The results of coraco-
clavicular slings for acromio-clavicular 
dislocation. Aust N Z J Surg.; 67 (6):343–
6.
3. Cohen M, Marcondes FB 
(2007). Lesões ligamentares. In: Cohen M, 
Mattar Júnior R, Garcia Filho RJ, editors. 
Tratado de ortopedia. Roca: São Paulo; p. 
401–11.
4. Collins DN. (2009). Disorders of 
acromioclavicular joint. In: Rockwood CA 
Jr, Matsen FA 3rd, Wirth MA, Lippitt SB, 
editors. The shoulder. 4th ed. Philadelphia: 
Saunders Elsevier; p. 453–526.
5. Costic RS, Vangura A, Fenwick 
JA, Rodosky MW, Debski RE.(2003). 
Viscoelastic behavior and structural 
properties of the coracoclavicular 
ligaments. Scand J Med Sci Sports. 
;13(5):305–10.
6. Dal Molin DC, Ribeiro FR, 
Brasil Filho R, Filardi Junior CS, Tenor 
Junior AC, Stipp WN, et al. (2012). Via 
de acesso cirúrgico posterossuperior 
para o tratamento das luxac¸ ões 
acromioclaviculares: resultados de 84 
casos operados. Rev Bras Ortop; 47 
(5):563–7.
7. Dawson PA, Adamson 
GJ, Pink MM, Kornswiet M, Lin S, 
Shankwiler JA, Lee TQ (2009). Relative 
contribution of acromioclavicular joint 
capsule and coracoclavicular ligaments 
to acromioclavicular stability. J Shoulder 
Elbow Surg.;18 (2):237–44.
8. Faria RS et al. (2015) 
Acromioclavicular dislocation: 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
85
postoperative evaluation of the 
coracoclavicular ligaments using magnetic 
resonamce. Rev Bras Ortop, Mar-Apr; 
50(2): 195–199.
9. Fu FH, Bennett CH, Lattermann 
C, Ma CB (1999). Current trends in 
anterior cruciate ligament reconstruction. 
Part I: Biology and biomechanics o 
reconstruction. Am J Sports Med.; 
27(6):821–30.
10. Harris RI, Vu DH, Sonnabend 
DH, Goldberg JA, Walsh WR (2001). 
Anatomic variance of the coracoclavicular 
ligaments. J Shoulder Elbow Surg.;10 
(6):585–8.
11. Ihara H, Miwa M, Deya K, 
Torisu K (1996). MRI of anterior cruciate 
ligament healing. J Comput Assist 
Tomogr.;20 (2): 317–21.
12. Nemec U, Oberleitner G, 
Nemec SF, Gruber M, Weber M, Czerny 
C, Krestan CR (2011). MRI versus 
radiography of acromioclavicular joint 
dislocation. AJR Am J Roentgenol.;197 
(4):968–73.
13. Takase K, Yamamoto K (2016). 
Arthroscopic procedures and therapeutic 
results of anatomical reconstruction of 
the coracoclavicular ligaments for AC 
joint dislocation. Orthop Traumatol Surg 
Res.;102 (5):583-587.
14. Yoo YS et al.(2010) “A 
Biomechanical Analysis of the Native 
Coracoclavicular Ligaments and Their 
Influence on a New Reconstruction Using 
a Coracoid Tunnel and Free Tendon Graft”. 
The Journal of Arthroscopic and Related 
Surgery.26(9):1153-61.

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_day_chang_qua_don_bang_cong_huong_tu_sau_dieu_tri_t.pdf