Đánh giá dây chằng quạ đòn bằng cộng hưởng từ sau điều trị trật khớp cùng đòn bằng phẫu thuật tái tạo dây chằng quạ đòn dùng gân gấp nông ngón III
Mục tiêu: Đánh giá hình ảnh cộng hưởng từ về mức độ lành của dây chằng quạ
đòn sau khi điều trị bằng phẫu thuật tái tạo dây chằng quạ đòn bằng gân gấp gấp nông
ngón III.
Phương pháp: 15 bệnh nhân phải trải qua điều trị phẫu thuật trật khớp cùng
đòn bằng phẫu thuật tái tạo dây chằng quạ đòn theo giải phẫu bằng gân gấp nông ngón
III sau khoảng thời gian ít nhất là một năm sau phẫu thuật được mời trở lại để đánh giá
bằng cộng hưởng từ. Đánh giá này được thực hiện bằng các tiêu chuẩn tương tự với
thang đo được mô tả trong các tài liệu nghiên cứu sự phục hồi của dây chằng chéo trước
khớp gối và để đo các dây chằng quạ đòn đã phục hồi.
Kết quả: Một cấu trúc sẹo dạng sợi kết nối quạ đòn được hình thành trong 100%
các trường hợp. Trong 100% các trường hợp, hình ảnh của cấu trúc này đầy đủ độ I, II
hoặc ít nhất có 1 dây chằng lành hoàn toàn độ I, II theo phân loại của Ihara.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá dây chằng quạ đòn bằng cộng hưởng từ sau điều trị trật khớp cùng đòn bằng phẫu thuật tái tạo dây chằng quạ đòn dùng gân gấp nông ngón III
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 19 - 9/2019 76 ĐÁNH GIÁ DÂY CHẰNG QUẠ ĐÒN BẰNG CỘNG HƯỞNG TỪ SAU ĐIỀU TRỊ TRẬT KHỚP CÙNG ĐÒN BẰNG PHẪU THUẬT TÁI TẠO DÂY CHẰNG QUẠ ĐÒN DÙNG GÂN GẤP NÔNG NGÓN III Lê Chí Dũng1, Vũ Xuân Thành2, Đỗ Hải Thanh Anh2 TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá hình ảnh cộng hưởng từ về mức độ lành của dây chằng quạ đòn sau khi điều trị bằng phẫu thuật tái tạo dây chằng quạ đòn bằng gân gấp gấp nông ngón III. Phương pháp: 15 bệnh nhân phải trải qua điều trị phẫu thuật trật khớp cùng đòn bằng phẫu thuật tái tạo dây chằng quạ đòn theo giải phẫu bằng gân gấp nông ngón III sau khoảng thời gian ít nhất là một năm sau phẫu thuật được mời trở lại để đánh giá bằng cộng hưởng từ. Đánh giá này được thực hiện bằng các tiêu chuẩn tương tự với thang đo được mô tả trong các tài liệu nghiên cứu sự phục hồi của dây chằng chéo trước khớp gối và để đo các dây chằng quạ đòn đã phục hồi. Kết quả: Một cấu trúc sẹo dạng sợi kết nối quạ đòn được hình thành trong 100% các trường hợp. Trong 100% các trường hợp, hình ảnh của cấu trúc này đầy đủ độ I, II hoặc ít nhất có 1 dây chằng lành hoàn toàn độ I, II theo phân loại của Ihara. Kết luận: Sau khi đánh giá sau phẫu thuật bằng cách sử dụng cộng hưởng từ trên 15 bệnh nhân đã được điều trị trật khớp cùng đòn bằng phẫu thuật tái tạo dây chằng quạ đòn bằng gân gấp gấp nông ngón III, cho thấy dây chằng quạ đòn đã lành trong 100% các trường hợp và sự lành này hoàn toàn ở 100% trường hợp. 1 Bệnh viện Sài Gòn ITO 2 Đại học Y dược TP.HCM Người phản hồi (Corresponding): Vũ Xuân Thành ([email protected]) Ngày nhận bài: 11/7/2019, ngày phản biện: 20/7/2019 Ngày bài báo được đăng: 30/9/2019 CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 77 EVALUATION OF CORACOCLAVICULAR LIGAMENTS BY MRI AFTER CORACOCLAVICAL LIGAMENTS RECONSTRUCTION WITH THE FLEXOR DIGITORUM III SUPERFICIALIS TENDON TO TREAT ACROMIOCLAVICULAR JOINT DISLOCATION ABSTRACT Purpose: To evaluate the magnetic resonance imaging of coracoclavicular ligament after coracoclavicular ligaments reconstruction with the flexor digitorum III superficialis tendon to treat acromioclavicular joint dislocation. Method: 15 patients with acromioclavicular joint dislocation were treated by coracoclavicular ligaments reconstruction with the flexor digitorum III superficialis tendon. At least 1-year postoperative, patients was evaluated by MRI. This evaluation is performed by the same scale described in the literature that studies the recovery of anterior cruciate ligament of knee and coracoclavicular ligament. Result: 100% cases formed a fibrous scar structure connected coracoclavicular interval. In 100% of cases, the image of this structure is fully level I, II or at least 1 ligament completely healed level I, II according to Ihara’s classification. Conclusion: After postoperative evaluation by MRI, coracoclavicular ligaments were completely healed in 100% of cases. ĐẶT VẤN ĐỀ Trật khớp cùng đòn (TKCĐ) là một tình trạng bệnh lý chấn thương của vai chủ yếu xảy ra ở người trưởng thành trẻ tuổi. Sự thay đổi giải phẫu và cơ sinh học gây ra bởi sự rách, đứt dây chằng quạ đòn là một yếu tố quan trọng trong việc quyết định có nên điều trị phẫu thuật hay không phẫu thuật.(4, 5, 7) Hệ thống phân loại trên phim chụp X-quang đã được thiết lập bởi Rockwood(1) bằng cách sử dụng vai bên đối diện như một tham số so sánh như sau: TKCĐ độ I: khoảng cách quạ đòn bình thường; TKCĐ độ II: tăng khoảng cách quạ đòn, nhưng nhỏ hơn 25%; TKCĐ độ III: khoảng cách quạ đòn tăng 25-100%; TKCĐ độ IV: đầu ngoài xương đòn di chuyển ra sau; TKCĐ độ V: khoảng cách quạ đòn tăng 100–300%; và TKCĐ độ VI: khoảng cách quạ đòn giảm hoặc đảo ngược. Các dây chằng quạ đòn là yếu tố ổn định chính của khớp cùng đòn và nâng đỡ chính cho chi trên.(4, 5, 7) Tuy nhiên, ít được tìm hiểu về khả năng phục hồi của chúng sau khi điều trị phẫu thuật cho TKCĐ. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 19 - 9/2019 78 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Chụp cộng hưởng từ (MRI) trên 15 bệnh nhân từ 24 đến 60 tuổi (cả nam và nữ), với chẩn đoán ban đầu là TKCĐ độ III đến V, để đánh giá. Những bệnh nhân này được chọn từ mẫu của chúng tôi được bệnh nhân đồng ý. Chúng tôi ưu tiên chọn những ca thời gian từ lúc chấn thương đến lúc phẫu thuật lâu nhất (trên 3 tháng 8 ca), trật độ cao (6 ca độ V và 1 ca độ IV), kết quả X quang cuối cùng là mất nắn khớp (5 ca) (bảng 2). Tất cả đều được phẫu thuật bởi cùng một nhóm phẫu thuật và với cùng một kỹ thuật: kết nối xương đòn với mỏm quạ bằng cách sử dụng gân gấp nông ngón III của chính bệnh nhân tái tạo dây chằng quạ đòn 2 bó theo giải phẫu với 2 đường hầm xương tại vị trí bám của dây chằng nón và thang tại xương đòn và 1 đường hầm xương ở mỏm quạ (hình 1, hình 2). Thời gian thực hiện theo dõi tối thiểu sau phẫu thuật là một năm. Các bệnh nhân được chọn ra được yêu cầu đến chụp MRI bằng máy 1.5Tesla Siemens, trong các tiêu chuẩn được mô tả trong y văn để đánh giá dây chằng quạ đòn (Hình 3). Kỹ thuật chụp bao gồm các mặt cắt theo ba hướng trong đó mặt cắt coronal là mặt phẳng khảo sát chính với các lát cắt song song với đường thẳng vạch giữa đỉnh mỏm quạ và đỉnh của mấu động nhỏ xương cánh tay. Các lát cắt có độ dày 2.5mm (trên hình T2W không và có xóa mỡ) và 0.8mm trên hình trọng proton 3D và được chụp khi bệnh nhân nằm ở vị trí trung tính. Các oil số hình ảnh như sau: chọn chuỗi xung turbo spin echo trường nhìn 160mmx160mm, kích thước ma trận 307x384 cho 2D và 214x256 cho 3D, độ dày lát cắt là 2.5mm cho 2D và 0.8mm cho 3D. Các kết quả đọc được đánh giá chung bởi một bác sĩ chẩn đoán hình ảnh chuyên MRI vùng vai. Hình 1: Hình vẽ sơ đồ thể hiện các đường hầm xương tái tạo dây chằng quạ đòn 2 bó theo giải phẫu với 2 đường hầm xương tại vị trí bám của dây chằng nón và thang tại xương đòn và 1 đường hầm xương ở mỏm quạ (14) CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 79 Hình 2: Tái tạo dây chằng quạ đòn với mảnh ghép luồn qua 3 đường hầm xương ở xương đòn và mỏm quạ. A: trên mẫu xác tươi, B: hình ảnh miêu tả 3 chiều (14). Hình 3 – MRI sử dụng các tiêu chuẩn được mô tả để khảo sát dây chằng quạ đòn của một bệnh nhân đã trải qua điều trị phẫu thuật. Để đánh giá sự hiện diện và chất lượng lành của dây chằng quạ đòn, chúng tôi đã sử dụng thang đo được mô tả trước đây trong y văn (11). Đây là một thang đo để đánh giá sự lành của mô ghép lấy từ các gân gấp của khớp gối, được sử dụng trong tái tạo sau tổn thương dây chằng chéo trước. Thang đo này phân loại ảnh chụp MRI của dây chằng thành bốn độ theo kích thước và dấu hiệu đồng nhất của chúng (Bảng 1). Dây chằng được phân loại là độ I và II ứng với có độ vững tốt và do đó có thể được phục hồi hoàn toàn và xem như lành, trong khi những loại được xếp độ III và IV được xem là phục hồi không hoàn toàn hoặc không được chữa lành. Hình dạng của mô sẹo thấy được (dây chằng mới) được đánh giá bằng phần mềm ứng dụng eFilm 3.0. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 19 - 9/2019 80 Bảng 1: Phân độ đánh giá sự lành của dây chằng bằng phương pháp MRI (11) Phân độ Đặc điểm hình ảnh I Dải thẳng được xác định rõ ràng với kích thước bình thường với tín hiệu cường độ thấp đồng nhất II Dải thẳng được xác định rõ ràng với tín hiệu cường độ thấp đồng nhất và các điểm hiển thị tín hiệu cường độ cao III Dải mỏng với tín hiệu cường độ thấp có chứa các khối tín hiệu cường độ cao IV Dải tín hiệu tối không thể phân biệt Các phép đo sau cần được thực hiện: chiều dài, đo dọc theo hướng của các sợi của dây chằng mới, từ điểm giữa của nguyên ủy tại xương đòn đến điểm giữa của bám tận tại mỏm quạ; chiều rộng, trong mặt phẳng coronal ở phần gần (nguyên ủy tại xương đòn) và phần xa (bám tận tại mỏm quạ) (Hình 4A, B). KẾT QUẢ Quan sát các kết quả MRI, ảnh chụp của tất cả các bệnh nhân có xuất hiện mô sẹo dạng sợi kết nối đầu ngoài xương đòn với mỏm quạ. Tất cả 15 bệnh nhân có ít nhất 1 dây chằng thang hoặc nón phân loại là độ I hoặc II, được xem là dây chằng đã được lành tốt. Về hình ảnh học của các dây chằng quạ đòn đã phục hồi, có sự phân biệt giữa hai dây chằng (dây chằng nón và thang) với sự khác nhau về số đo giữa các bệnh nhân (Bảng 3). Bảng 2: Một số đặc điểm các bệnh nhân được chụp MRI Số thứ tự Tuổi Độ trật khớp Thời gian từ lúc chấn thương đến khi mổ (tuần) Kết quả X quang cuối cùng 1 60 V 28 TốtII 2 35 III 4 Tốt 3 44 III 12 Tốt 4 39 III 3 Tốt 5 31 V 24 Tốt 6 24 III 3 Tốt 7 47 III 240 (5 năm) Tốt 8 46 III 640 (13 năm 4 tháng) Tốt 9 35 IV 312 (6,5 năm) Tốt CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 81 10 40 III 28 Tốt 11 30 V 4 Mất nắn khớp 12 33 V 20 Mất nắn khớp 13 46 V 0,5 Mất nắn khớp 14 40 V 0,5 Mất nắn khớp 15 40 III 6 Mất nắn khớp Bảng 3: Kết quả đánh giá MRI sau phẫu thuật ít nhất 1 năm ở bệnh nhân được điều trị phẫu thuật cho TKCĐ Bệnh nhân Phân độ lành dây chằng nón Phân độ lành dây chằng thang Chiều dài theo phương dọc của dây chằng nón mới (mm) Chiều dài theo phương dọc của dây chằng thang mới (mm) Chiều rộng của dây chằng nón (xương đòn) (mm) Chiều rộng của dây chằng nón (mỏm quạ) (mm) Chiều rộng của dây chằng thang (xương đòn) (mm) Chiều rộng của dây chằng thang (mỏm quạ) (mm) 1 II III 21,5 18 9.63 11,7 9,59 mm 8,27 2 III II 18,4 15,3 5,13 6,38 9,47 mm 8,84 3 II I 17,5 19,7 6,76 6,95 7,26 mm 6,95 4 III II 19,3 19,2 13,4 15,5 9,14 mm 9,18 5 II II 17,9 20,8 6,85 13,3 9,16 mm 10,6 6 II II 17,5 20,5 12,1 10,3 12,3 mm 9,84 7 II I 18 18,2 11,1 12,2 11,5 mm 12 8 II I 18,9 22,4 9,16 12,8 8,21 mm 7,41 9 I III 17,8 16,2 8,02 11,2 11,7 mm 11,4 10 II I 11,8 19,9 13,7 11 11,3 13,3 11 II I 19,4 23,8 12,1 12,3 7,56 9,52 12 II I 18,8 19,2 8,87 11,4 11,5 10,7 13 II I 17,2 24 14,1 15,2 6,54 7,33 14 II III 16 20,1 10,6 11,9 5,65 7,21 15 II II 14 19 12 6 9 3,5 Trung bình 17,6 19,7 10,2 11,2 9,3 9,0 BÀN LUẬN Để đánh giá sự lành của dây chằng quạ đòn, các thông số giải phẫu đã được thiết lập trước đây cho chấn thương dây TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 19 - 9/2019 82 chằng đầu gối đã được sử dụng trong nghiên cứu này, do không có thông số được thiết lập trước cho dây chằng quạ đòn trong các tài liệu y văn. Khoảng thời gian được xem xét việc lành ở những bệnh nhân được điều trị phẫu thuật cho TKCĐ được xác định dựa trên thời gian sau phẫu thuật tối thiểu cần thiết cho dây chằng chéo trước khớp gối, tái tạo bằng cách sử dụng mô ghép từ gân gấp, để đạt được trạng thái mô học tương tự như ban đầu. Theo tài liệu y văn (9) thời gian dao động từ 30 đến 52 tuần. Trong một nghiên cứu được tiến hành bởi Clayer và cộng sự (2), chụp MRI trên sáu bệnh nhân trải qua điều trị phẫu thuật cho TKCĐ, trong đó một vòng chỉ tan được sử dụng để cố định quạ đòn, họ đã được quan sát thấy rằng xuất hiện một cấu trúc dạng sợi kết nối mỏm quạ với xương đòn sáu tháng sau khi phẫu thuật. MRI là một phương pháp kiểm tra hiệu quả và chính xác để đánh giá chi tiết cấu trúc dây chằng của các khớp trên cơ thể con người, chẳng hạn như vai và đầu gối (3). Nemec và cộng sự (12) đã so sánh MRI với ảnh chụp X quang để phân loại TKCĐ ở 44 bệnh nhân theo phân loại Rockwood. Các xét nghiệm phù hợp cho việc phân loại các chấn thương trong 52,2% các trường hợp, trong đó chứng minh rằng MRI là một xét nghiệm đặc hiệu hơn. Hình 4: Các thông số được sử dụng để đo lường dây chằng mới giữa mỏm quạ và xương đòn, ở bệnh nhân sau thời gian phẫu thuật tối thiểu 1 năm sau khi điều trị phẫu thuật cho TKCĐ. A: chiều dài, chiều rộng ở nguyên ủy xương đòn và bám tận tại mỏm quạ của dây chằng thang. B: chiều dài, chiều rộng ở nguyên ủy xương đòn và bám tận tại mỏm quạ của dây chằng nón. Trong nghiên cứu của chúng tôi, một cấu trúc mô sẹo đã được quan sát bằng cách sử dụng MRI trong 100% các trường hợp được chụp. Nó có dạng sợi phân biệt rõ cả 2 dây chằng (dây chằng nón và thang) kết nối quạ đòn và có dấu hiệu của việc lành hoàn toàn trong 100% các trường hợp. Khác với nghiên cứu của Faira và công sự (8) đánh giá trên 10 bệnh nhân, 100% cũng có dạng sợi, hình thang và nối kết quạ đòn nhưng không phân biệt được hình ảnh 2 dây chằng (hình 5) và có tới 50% các trường hợp lành không hoàn toàn. Faria và cộng sự chỉ dùng 2 sợi chỉ neo không tan tái tạo dây chằng quạ đòn (hình 6) chứ không dùng gân tự thân tái tạo như chúng tôi. Trong nghiên cứu của Clayer và cộng sự (2), đánh giá cũng thấy có sự hình thành cấu trúc giải phẫu mô sợi ở các vùng của dây chằng quạ đòn nhưng không đánh giá mức độ lành của chúng. Takase và cộng sự (13) chụp MRI tất cả 22 bệnh nhân trật khớp cùng đòn độ V cấp tính được tái tạo dây chằng quạ đòn theo giải phẫu với bó nón dùng gân gan tay dài tự thân và EndoButton, bó thang dùng dây chằng nhân tạo và EndoButton 1 năm CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 83 sau phẫu thuật thấy rõ hình ảnh dây chằng thang và nón trên 19 bệnh nhân (86%), nhưng không đánh giá cụ thể mức độ lành của dây chằng. Hình 5: Các thông số được sử dụng để đo lường dây chằng mới giữa mỏm quạ và xương đòn, ở bệnh nhân sau thời gian phẫu thuật muộn sau khi điều trị phẫu thuật cho TKCĐ của tác giả Faria và cộng sự(8). Không thấy có sự phân biệt giữa 2 dây chằng thang và nón. A: chiều dài, B: chiều rộng ở nguyên ủy xương đòn và bám tận tại mỏm quạ. Hình 6: Hình vẽ sơ đồ thể hiện vị trí của các neo và lỗ khoan trong xương đòn, (A) mặt sau và (B) mặt trước theo kỹ thuật của Faria và cộng sự. (8) Trong một nghiên cứu giải phẫu trên dây chằng quạ đòn, Harris và cộng sự (10) đã thực hiện các phép đo trên 24 vai của các tử thi và tìm thấy các kết quả sau đây: chiều dài của dây chằng nón, 19,4 mm; chiều dài dây chằng thang, 19,3 mm; chiều rộng của nguyên ủy dây chằng nón trên xương đòn, 20,6 mm; chiều rộng của bám tận dây chằng nón trên mỏm quạ, 10,6 mm; chiều rộng của nguyên ủy dây chằng thang trên xương đòn, 21,7 mm; và chiều rộng của bám tận dây chằng thang trên TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 19 - 9/2019 84 mỏm quạ, 14,0 mm. Trong nghiên cứu, chúng tôi sử dụng MRI, các phương pháp tương tự để đo chiều dài của dây chằng mới được hình thành sau khi phẫu thuật. Các phương tiện để đo chiều rộng không thể so sánh được vì sự khác biệt về hình dạng giữa các dây chằng quạ đòn và dây chằng mới do chúng tôi khoan đường hầm xương tùy theo đường kính gân ghép để tái tạo dây chằng. Không có mối tương quan lâm sàng và cơ sinh học nào liên quan đến kết quả của nghiên cứu này vì cỡ mẫu nhỏ. KẾT LUẬN Các đánh giá sau phẫu thuật bằng cách sử dụng cộng hưởng từ, trên 15 bệnh nhân đã được điều trị trật khớp cùng đòn bằng phẫu thuật tái tạo dây chằng quạ đòn theo giải phẫu bằng gân gấp gấp nông ngón III, cho thấy dây chằng quạ đòn đã lành trong 100% các trường hợp và sự lành này hoàn toàn ở 100% trường hợp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Alyas F, Curtis M, Speed C, Saifuddin A, Connell D (2008). MR imaging appearances of acromioclavicular joint dislocation. Radiographics; 28 (2):463–79. 2. Clayer M, Slavotinek J, Krishnan J (1997). The results of coraco- clavicular slings for acromio-clavicular dislocation. Aust N Z J Surg.; 67 (6):343– 6. 3. Cohen M, Marcondes FB (2007). Lesões ligamentares. In: Cohen M, Mattar Júnior R, Garcia Filho RJ, editors. Tratado de ortopedia. Roca: São Paulo; p. 401–11. 4. Collins DN. (2009). Disorders of acromioclavicular joint. In: Rockwood CA Jr, Matsen FA 3rd, Wirth MA, Lippitt SB, editors. The shoulder. 4th ed. Philadelphia: Saunders Elsevier; p. 453–526. 5. Costic RS, Vangura A, Fenwick JA, Rodosky MW, Debski RE.(2003). Viscoelastic behavior and structural properties of the coracoclavicular ligaments. Scand J Med Sci Sports. ;13(5):305–10. 6. Dal Molin DC, Ribeiro FR, Brasil Filho R, Filardi Junior CS, Tenor Junior AC, Stipp WN, et al. (2012). Via de acesso cirúrgico posterossuperior para o tratamento das luxac¸ ões acromioclaviculares: resultados de 84 casos operados. Rev Bras Ortop; 47 (5):563–7. 7. Dawson PA, Adamson GJ, Pink MM, Kornswiet M, Lin S, Shankwiler JA, Lee TQ (2009). Relative contribution of acromioclavicular joint capsule and coracoclavicular ligaments to acromioclavicular stability. J Shoulder Elbow Surg.;18 (2):237–44. 8. Faria RS et al. (2015) Acromioclavicular dislocation: CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 85 postoperative evaluation of the coracoclavicular ligaments using magnetic resonamce. Rev Bras Ortop, Mar-Apr; 50(2): 195–199. 9. Fu FH, Bennett CH, Lattermann C, Ma CB (1999). Current trends in anterior cruciate ligament reconstruction. Part I: Biology and biomechanics o reconstruction. Am J Sports Med.; 27(6):821–30. 10. Harris RI, Vu DH, Sonnabend DH, Goldberg JA, Walsh WR (2001). Anatomic variance of the coracoclavicular ligaments. J Shoulder Elbow Surg.;10 (6):585–8. 11. Ihara H, Miwa M, Deya K, Torisu K (1996). MRI of anterior cruciate ligament healing. J Comput Assist Tomogr.;20 (2): 317–21. 12. Nemec U, Oberleitner G, Nemec SF, Gruber M, Weber M, Czerny C, Krestan CR (2011). MRI versus radiography of acromioclavicular joint dislocation. AJR Am J Roentgenol.;197 (4):968–73. 13. Takase K, Yamamoto K (2016). Arthroscopic procedures and therapeutic results of anatomical reconstruction of the coracoclavicular ligaments for AC joint dislocation. Orthop Traumatol Surg Res.;102 (5):583-587. 14. Yoo YS et al.(2010) “A Biomechanical Analysis of the Native Coracoclavicular Ligaments and Their Influence on a New Reconstruction Using a Coracoid Tunnel and Free Tendon Graft”. The Journal of Arthroscopic and Related Surgery.26(9):1153-61.
File đính kèm:
danh_gia_day_chang_qua_don_bang_cong_huong_tu_sau_dieu_tri_t.pdf

