Đánh giá chức năng thận ở bệnh nhân ứ nước, ứ mủ bể thận qua kết quả xạ hình thận và mức lọc cầu thận ước tính theo công thức Cockcroft‐Gault và MDRD

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Trong ứ nước, ứ mủ bể thận niệu quản, nếu tình trạng tắc nghẽn kéo dài và không được giải

quyết thì sẽ dẫn đến tổn thương không hồi phục và mức lọc cầu thận sẽ suy giảm dần theo thời gian đến bệnh

thận giai đoạn cuối. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm

Mục tiêu: đánh giá chức năng thận ở những bệnh nhân ứ nước, ứ mủ bể thận qua kết quả xạ hình thận và

mức lọc cầu thận ước tính theo công thức Cockcroft‐Gault và MDRD.

Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu được thực hiện tại khoa Thận‐Tiết niệu, bệnh viện Bạch

Mai từ tháng 9/ 2011 đến tháng 8/2012 trên 44 bệnh nhân được chẩn đoán xác định ứ nước, ứ mủ bể thận.

Kết quả: Xạ hình thận cho thấy MLCT chung của cả 2 thận thấp với 65,9% bệnh nhân có MLCT <>

ml/phút/1,73m2. Trong đó 40/41 trường hợp bên thận bị ứ nước, ứ mủ có mức lọc cầu thận giảm thấp trung

bình chỉ 11,6 ± 11,2 ml/phút/1,73m2. Công thức MDRD cho kết quả: trong tổng số 44 bệnh nhân có 26 (59,1%)

bệnh nhân có MLCT<60 ml/phút/1,73m2="" trung="" bình="" là="" 15,8="" ±="" 17,3="" ml/phút/1,73m2.="" công="" thức="">

cho kết quả có 36/44 bệnh nhân (81,8%) có MLCT <60 ml/phút/1,73m2,="" trung="" bình="" là="" 23,3="" ±="">

ml/phút/1,73m2. Như vậy khi so sánh MLCT xác định với 3 phương pháp cho thấy: Số bệnh nhân có MLCT<>

ml/phút/1,73m2 tính theo công thức Cockcroft‐Gault cao nhất so với 2 cách xác định MLCT theo công thức

MDRD và xạ hình thận. Có sự tương đồng khi xác định MLCT theo công thức MDRD và theo kết quả xạ hình

thận khi xác định tỷ lệ bệnh nhân có MLCT < 60="">

Kết luận: Trong nghiên cứu của chúng tôi, MLCT ước tính giảm ở tất cả các bệnh nhân bị ứ nước ứ mủ bể

thận. Xạ hình thận cho phép đánh giá MLCT chung và riêng rẽ từng thận giúp cho việc lựa chọn phương pháp

điều trị tốt hơn. Công thức MDRD cho MLCT ước tính tương đối sát với MLCT khi xác định bằng xạ hình

thận.

pdf 6 trang phuongnguyen 10260
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá chức năng thận ở bệnh nhân ứ nước, ứ mủ bể thận qua kết quả xạ hình thận và mức lọc cầu thận ước tính theo công thức Cockcroft‐Gault và MDRD", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá chức năng thận ở bệnh nhân ứ nước, ứ mủ bể thận qua kết quả xạ hình thận và mức lọc cầu thận ước tính theo công thức Cockcroft‐Gault và MDRD

Đánh giá chức năng thận ở bệnh nhân ứ nước, ứ mủ bể thận qua kết quả xạ hình thận và mức lọc cầu thận ước tính theo công thức Cockcroft‐Gault và MDRD
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  168
ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG THẬN Ở BỆNH NHÂN Ứ NƯỚC, Ứ MỦ BỂ THẬN 
QUA KẾT QUẢ XẠ HÌNH THẬN VÀ MỨC LỌC CẦU THẬN ƯỚC TÍNH 
THEO CÔNG THỨC COCKCROFT‐GAULT VÀ MDRD  
Vương Tuyết Mai*, Nguyễn Thị Hường*  
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Trong ứ nước, ứ mủ bể thận niệu quản, nếu tình trạng tắc nghẽn kéo dài và không được giải 
quyết thì sẽ dẫn đến tổn thương không hồi phục và mức lọc cầu thận sẽ suy giảm dần theo thời gian đến bệnh 
thận giai đoạn cuối. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm  
Mục tiêu: đánh giá chức năng thận ở những bệnh nhân ứ nước, ứ mủ bể thận qua kết quả xạ hình thận và 
mức lọc cầu thận ước tính theo công thức Cockcroft‐Gault và MDRD. 
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu được thực hiện tại khoa Thận‐Tiết niệu, bệnh viện Bạch 
Mai từ tháng 9/ 2011 đến tháng 8/2012 trên 44 bệnh nhân được chẩn đoán xác định ứ nước, ứ mủ bể thận. 
Kết quả: Xạ hình thận cho thấy MLCT chung của cả 2 thận thấp với 65,9% bệnh nhân có MLCT < 60 
ml/phút/1,73m2. Trong đó 40/41 trường hợp bên thận bị ứ nước, ứ mủ có mức lọc cầu thận giảm thấp trung 
bình chỉ 11,6 ± 11,2 ml/phút/1,73m2. Công thức MDRD cho kết quả: trong tổng số 44 bệnh nhân có 26 (59,1%) 
bệnh nhân có MLCT<60 ml/phút/1,73m2 trung bình là 15,8 ± 17,3 ml/phút/1,73m2. Công thức Cockcroft‐Gault 
cho  kết  quả  có  36/44  bệnh  nhân  (81,8%)  có  MLCT  <60  ml/phút/1,73m2,  trung  bình  là  23,3  ±  21,2 
ml/phút/1,73m2. Như vậy khi so sánh MLCT xác định với 3 phương pháp cho thấy: Số bệnh nhân có MLCT< 60 
ml/phút/1,73m2  tính  theo  công  thức Cockcroft‐Gault  cao nhất  so với 2  cách xác  định MLCT  theo  công  thức 
MDRD và xạ hình thận. Có sự tương đồng khi xác định MLCT theo công thức MDRD và theo kết quả xạ hình 
thận khi xác định tỷ lệ bệnh nhân có MLCT < 60 ml/phút/1,73m2. 
Kết luận: Trong nghiên cứu của chúng tôi, MLCT ước tính giảm ở tất cả các bệnh nhân bị ứ nước ứ mủ bể 
thận. Xạ hình thận cho phép đánh giá MLCT chung và riêng rẽ từng thận giúp cho việc lựa chọn phương pháp 
điều trị tốt hơn. Công thức MDRD cho MLCT ước tính tương đối sát với MLCT khi xác định bằng xạ hình 
thận. 
Từ khoá: mức lọc cầu thận ước tính (MLCT), ứ nước bể thận niệu quản 
ABSTRACT 
ESTIMATE THE RENAL FUNCTION IN THE HYDRONEPHROSIS PATIENTS  
BY SCINTIGRAPHY OR GLOMERULAR FILTRATION RATE CALCULATED  
BY COCKCROFT‐GAULT AND MDRD 
Vuong Tuyet Mai, Nguyen Thi Huong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 168 ‐ 173 
Background: In urinary and renal hydronephrosis, if the prolonged congestion was not resolved, it will lead 
to irreversible damage and glomerular filtration rate could decline gradually over time to end‐stage renal disease. 
We conducted this study with the aim: evaluate the renal function in the hydronephrosis patients by scintigraphy 
or glomerular filtration rate calculated by Cockcroft‐Gault and MDRD.  
Patients and method: The prospective study was performed at the Neph‐Urology Department, Bach Mai 
* Bộ môn Nội tổng hợp ĐH Y Hà Nội.   ** Khoa Kỹ thật cao, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hải Dương 
Tác giả liên lạc: TS. Vương Tuyết Mai  ĐT: 0915518775  Email: vuongtuyetmai@gmail.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  169
Hospital from 9/2011 to 8/2012 on 44 patients who were diagnosed urinary and renal hydronephrosis.  
Results: By renal scintigraphy, total GFR of 2 kidneys showed with 65.9% lower than 60 ml/min/1.73m2. 
In the damage kidney, there were 40/41 cases with glomerular filtration rate decreased and the mean value was 
11.6 ± 11.2 ml/min/1.73m2. MDRD formula results: 26 of 44 patients (59.1%) having eGFR<60 ml/min/1.73m2 
with  the mean value was 15.8 ± 17.3 ml/min/1.73m2. The  results of Cockcroft‐Gault  formula: 36/44 patients 
(81.8%) with eGFR<60 ml/min/1.73m2, the mean value was 23.3±21.2 ml/min/1.73m2. In the comparison  the 
results  of  eGFR  identified  by  three methods: The  patients  <60 ml/min/1.73m2  calculated  by Cockcroft‐Gault 
formula was highest number compared to the results of MDRD formula and scintigraphy. There were similarities 
when determining eGFR by MDRD formula and the results of renal scintigraphy to determine the proportion of 
patients with eGFR <60 ml/min/1.73m2. 
Conclusions: In our study, eGFR was decreased in all patients’ urinary and renal hydronephrosis. Renal 
scintigraphy  allowed  assessing  separately GFR  in  each  kidney  and  the  total GFR  of  both  two  kidneys,  so  in 
general that helped for having accurate treatment. MDRD formula estimated the GFR relatively close to the GFR 
as determined by renal scintigraphy. 
Key words: eGFR(estimated glomerular filtration rate), urinary and renal hydronephrosis 
ĐẶT VẤN ĐỀ   
Trong ứ nước, ứ mủ bể thận, hậu quả nặng 
nề nhất  là sự suy giảm chức năng  thận do sự 
hủy hoại về cấu  trúc do  tình  trạng  tắc nghẽn. 
Trong  thời gian  đầu  thận bị  ứ nước  cấp  tính, 
chức năng  thận  có  thể vẫn  được bảo  tồn nếu 
tình trạng tắc nghẽn được giải quyết sớm. Tuy 
nhiên  nếu  tình  trạng  tắc  nghẽn  kéo  dài  và 
không  được giải quyết  thì  sẽ dẫn  đến những 
tổn  thương  không  hồi  phục  và mức  lọc  cầu 
thận sẽ suy giảm dần theo thời gian tiến triển 
bệnh mà hậu quả cuối cùng  là bệnh  thận giai 
đoạn  cuối  và  cần  phải  điều  trị  bằng  các 
phương  pháp  điều  trị  thay  thế  thận  như  lọc 
máu,  lọc màng  bụng  và  ghép  thận. Chính  vì 
vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm: 
Mục tiêu  
Đánh  giá  chức  năng  thận  ở  những  bệnh 
nhân ứ nước, ứ mủ bể thận qua kết quả xạ hình 
thận  và mức  lọc  cầu  thận  ước  tính  theo  công 
thức Cockcroft‐Gault và MDRD (Modification of 
Diet in Renal Disease).  
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP  
Nghiên cứu tiến cứu được thực hiện trên 44 
bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định ứ nước, 
ứ mủ bể thận tại khoa Thận‐Tiết niệu, bệnh viện 
Bạch Mai từ 9/ 2011 đến 8/2012. Bệnh nhân trên 
16 tuổi và tự nguyện tham gia nghiên cứu.  
Các xét nghiệm theo protocol 
Công thức máu; Sinh hóa máu; Đông máu 
cơ bản. 
Tổng phân tích nước tiểu; Tế bào niệu.  
Cấy máu, cấy nước tiểu. 
Siêu âm thận tiết niệu. 
Chụp hệ tiết niệu không chuẩn bị. 
Chụp CT scanner ổ bụng hoặc chụp MRI hoặc 
MSCT dựng hình niệu quản khi có chỉ định.  
Xạ hình đánh giá chức năng thận  
GFR được tính như sau(1,8) 
GFR tổng (ml/ phút) = 9.8127 x độ tập trung 
của 2 thận – 6.82519. 
GFR  thận phải  = GFR  tổng  x  (số  xung  của 
thận phải/ số xung của 2 thận). 
GFR  thận  trái  = GFR  tổng  x  (số  xung  của 
thận trái/ số xung của 2 thận). 
GFR hiệu chỉnh, hiệu chỉnh theo diện tích da 
của cơ thể (ml/ phút/ m2). 
GFR hiệu chỉnh = GFR tổng x 1,73/ S. 
1,73  là  diện  tích  da  trung  bình  của  người 
châu âu tính bằng m2, (chưa có số liệu của người 
Việt Nam), S là diện tích da của BN tính bằng m2 
theo công thức sau:  
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  170
S = W0,51456 x H0,42246 x 0,0235 
(W là trọng lượng cơ thể BN tính bằng kg, H 
là chiều cao BN tính bằng cm). 
Mức lọc cầu thận ước tính  
Được tính theo công thức Cockcroft‐Gault và 
công  thức  sửa  đổi  chế  độ  ăn  trong  bệnh  thận 
(MDRD‐Modification of Diet in Renal Disease).  
Các  thông  tin  thu  thập  theo mẫu  bệnh  án 
nghiên cứu với các thông số thống nhất. Các số 
liệu  được mã hóa và  xử  lý bằng  chương  trình 
SPSS 17.0. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
Tuổi mắc bệnh trung bình của các đối tương 
nghiên cứu  là 55,7 ± 14,5  tuổi. Tỷ  lệ bệnh nhân 
nữ chiếm 61,4% (n=27) nhiều hơn số bệnh nhân 
nam là 17 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 38,6%. 
Bảng 1. Phân bố theo nhóm tuổi của đối tượng 
nghiên cứu. 
Nhóm tuổi Số bệnh nhân (n = 44) Tỷ lệ % 
20 - 40 6 13,6 
41 - 60 20 45,5 
61 - 80 18 40,9 
Tổng 44 100 
Nhận xét: Trong 44 bệnh nhân nghiên cứu 
nhóm tuổi hay gặp nhất là 41‐ 60 tuổi chiếm tỷ 
lệ 45,5% (n = 20), tiếp đến là nhóm bệnh nhân 
từ 61 – 80 tuổi chiếm tỷ lệ 40,9% (n=18), chiếm 
tỷ  lệ  thấp nhất 13,6%  là nhóm  tuổi  từ 20 – 40 
tuổi (n = 6). 
MLCT ước  tính qua kết quả xạ hình  thận và mức  lọc cầu  thận ước  tính  theo công  thức 
Cockcroft‐Gault và MDRD 
Bảng 2. Phân bố mức lọc cầu thận của bệnh nhân theo xạ hình thận 
Mức lọc cầu thận ước tính (MLCT) < 60 ml/phút/1,73m2 ≥ 60 ml/phút/1,73m2 
Thận bên ứ nước, 
 ứ mủ 
Số bệnh nhân 40 1 
Tỷ lệ % 97,6 2,4 
X ± SD 11,6 ± 11,2 75,0 
Min - Max 0 - 49,4 75,0 
Thận bên không ứ nước, 
ứ mủ 
Số bệnh nhân 37 4 
Tỷ lệ % 90,2 9,8 
X ± SD 27,4 ± 17,5 66,6 ± 4,1 
Min - Max 1,8 - 5,9 60,7 - 69,8 
MLCT tổng của cả 2 thận 
Số bệnh nhân 27 14 
Tỷ lệ % 65,9 34,1 
X ± SD 31,2 ± 15,6 81,6 ± 15,6 
Min - Max 11,2 - 58,7 60,0 - 107,0 
Nhận xét: Trong tổng số 41 bệnh nhân được 
làm  xạ hình  thận  thì  có  40/41  trường hợp  bên 
thận bị ứ nước, ứ mủ có mức lọc cầu thận giảm 
thấp  trung bình chỉ 11,6 ± 11,2 ml/phút/1,73m2. 
Với bên thận không ứ nước, ứ mủ thì MLCT<60 
ml/phút/m2  cũng  chiếm  tới  90,2%  (37/41  bệnh 
nhân)  với  MLCT  trung  bình  là  27,4  ±  17,5 
ml/phút/m2. Điều này lý giải vì sao MLCT chung 
của cả 2 thận thấp với 27/41 bệnh nhân (65,9%) 
có MLCT < 60 ml/phút/1,73m2. 
Bảng 3. Phân bố mức lọc cầu thận của bệnh nhân 
theo công thức MDRD. 
Mức lọc cầu thận N = 44 % X ± SD Min - Max
ước tính (MLCT) 
< 60 ml/phút/1,73m2 26 59,1 15,8 ± 17,3 2,7 - 58,8
≥ 60ml/phút/1,73m2 18 40,9 82,9 ± 19,0 64,8 - 124,6 
Nhận  xét:  Trong  tổng  số  44  bệnh  nhân  có 
26(59,1%)  bệnh  nhân  có  MLCT  <  60 
ml/phút/1,73m2  trung  bình  là  15,8  ±  17,3 
ml/phút/1,73m2. 
Bảng 4. Phân bố mức lọc cầu thận của bệnh nhân 
theo công thức Cockcroft‐Gault 
Mức lọc cầu thận 
ước tính (MLCT) 
Số bệnh 
nhân 
(n= 44)
Tỷ lệ 
% X ± SD Min - Max
< 60 ml/phút/1,73m2 36 81,8 23,3 ± 21,2 2,1 - 59,7
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  171
≥ 60ml/phút/1,73m2 8 18,2 94,5 ± 22,0 68,6 - 121,8
Nhận  xét:  Có  36/44  bệnh  nhân  (81,8%)  có 
MLCT < 60 ml/phút/1,73m2, trung bình là 23,3 ± 
21,2 ml/phút/1,73m2. 
So sánh giá trị MLCT ước tính qua kết quả 
xạ hình thận và mức lọc cầu thận ước tính 
theo công thức Cockcroft‐Gault và MDRD 
Bảng 5. So sánh mức lọc cầu thận theo các cách tính: 
Xạ hình thận, Cockcroft‐Gault và MDRD. 
Mức lọc cầu thận ước tính 
(MLCT) 
< 60 
ml/phút/1,73
m2 
≥ 60 
ml/phút/1,73m
2 
Cockcroft-
Gault 
Số bệnh nhân 36 8 
Tỷ lệ % 81,8 18,2 
X ± SD 23,3 ± 21,2 82,9 ± 19,0 
Min - Max 2,1 - 59,7 64,8 - 124,6 
MDRD 
Số bệnh nhân 26 18 
Tỷ lệ % 59,1 40,9 
X ± SD 15,8 ± 17,3 82,9 ± 19,0 
Min - Max 2,7 - 58,8 64,8 - 124,6 
Xạ hình 
thận 
Số bệnh nhân 27 14 
Tỷ lệ % 65,9 34,1 
X ± SD 31,2 ± 15,6 81,6 ± 15,6 
Min - Max 11,2 - 58,7 60,0 - 107,0 
Nhận  xét:  Số  bệnh  nhân  có  MLCT<  60 
ml/phút/1,73m2  tính  theo  công  thức Cockcroft‐
Gault cao nhất 36/44(81,8 %) so với 2 cách  tính 
MLCT theo công thức MDRD và xạ hình thận có 
sự  tương  đồng  với  26/44  (59,1%)  bệnh  nhân 
(theo  công  thức MDRD) và 27/41  (65,9%) bệnh 
nhân (theo kết quả xạ hình thận) có MLCT < 60 
ml/phút/1,73m2. 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
Tuổi  trung  bình  của  bệnh  nhân  trong 
nghiên  cứu  của  chúng  tôi  là  55,7  ±  14,5  tuổi. 
Đây là độ tuổi hay gặp sỏi làm tắc nghẽn đường 
bài xuất nhất và  đây  cũng  là  độ  tuổi  có nhiều 
biến chứng của bệnh lý sỏi và các bệnh lý khác 
có biến chứng ở hệ tiết niệu. 
Theo tác giả Nguyễn Văn Xang thì < 60 tuổi 
nữ mắc nhiều hơn nam, nhưng sau 60 tuổi nam 
mắc  bệnh nhiều hơn nữ do  liên  quan  đến  các 
bệnh  lý  ác  tính  vùng  chậu.  Trong  nghiên  cứu 
của chúng tôi dù ở bất kỳ độ tuổi nào tỷ lệ mắc 
bệnh của nữ cũng cao hơn nam, có thể là do số 
bệnh nhân nữ trong nghiên cứu nhiều hơn bệnh 
nhân nam chứ không phải do đặc thù bệnh theo 
tuổi của từng giới(8). 
MLCT ước tính qua kết quả xạ hình thận, 
theo  công  thức  Cockcroft‐Gault  và  công 
thức MDRD 
MLCT  theo  cả  3  cách  tính  xạ  hình  thận, 
Cockcroft‐Gault và MDRD  đều  cho  thấy  có  sự 
giảm MLCT ở những bệnh nhân ứ nước ứ mủ 
bể  thận  ở  nhiều mức  độ  khác  nhau  khi  nhập 
viện.  
Trong số 44 đối tượng nghiên cứu có 41 đối 
tượng được làm xạ hình thận khi nhập viện. Kết 
quả cho  thấy có 5 bệnh nhân  (12,2%) có MLCT 
dưới 15 ml/phút/1,73m2,  tương ứng  là nồng độ 
Creatinin tăng cao > 900 μmol/l. Cả 5 bệnh nhân 
này  đều  phải  lọc máu  trước  khi  làm dẫn  lưu. 
Các bệnh nhân còn lại đều có giảm MLCT ở các 
mức độ khác nhau. Có 10 bênh nhân có MLCT ở 
giai đoạn 4 của mức  lọc cầu thận (24,4%) và 13 
bệnh nhân có MLCT ở giai đoạn 3 của bệnh thận 
mạn (31,7%). Những bệnh nhân này đều có tăng 
creatinin nhưng chưa có chỉ định  lọc máu. Còn 
lại 9 bệnh nhân có MLCT ở giai đoạn 2 của bệnh 
thận mạn (22%) và chỉ có 4 bệnh nhân có MLCT 
>  90 ml/phút/1,73m2  (9,6%). Những bệnh nhân 
này không có biểu hiện của suy giảm chức năng 
thận trên lâm sàng. 
Tình  trạng  suy  giảm  chức  năng  thận  cho 
thấy  là  tình  trạng  thường  gặp  ở  những  bệnh 
nhân  ứ nước,  ứ mủ bể  thận khi vào viện. Kết 
quả của chúng tôi cũng tương tự kết quả nghiên 
cứu  của Chhith Chhouy  làm  xạ hình  thận  cho 
15/157 BN thấy có 93,33% (12/15 BN) cho kết quả 
GFR  >  15 ml/phút/1,73m2 và  cả  12  trường hợp 
này đều được điều trị bảo tồn không cắt thận. 3 
trường  hợp  kết  quả  xạ  hình  có  GFR  < 
ml/phút/1,73m2  thì  cắt  thận  1  trường  hợp,  2 
trường hợp còn lại cũng điều trị bảo tồn do chức 
năng thận đối diện cũng rất kém(1). 
Đặc biệt trong việc tính MLCT bằng xạ hình 
thận  có  ưu  điểm  là  giúp  đánh  giá  chức  năng 
từng bên riêng rẽ của của thận. Do vậy đánh giá 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  172
được chức năng của bên bị bệnh còn bao nhiêu 
phần  trăm  chức  năng  trong  tổng  chức  năng 
thận(3). Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi 
cho thấy gần như toàn bộ thận ứ nước ứ mủ đều 
có MLCT  <  60 ml/phút/1,73m2,  trong  đó  thậm 
chí những trường hợp thận bị ứ nước, ứ mủ có 
MLCT  thường  dưới  15 ml/phút/1,73m2  là  chủ 
yếu.  Chức  năng  thận  suy  gảm  nhiều  thường 
phải  có  thời gian  tiến  triển bệnh  làm phá hủy 
cấu  trúc  thận. Những bệnh nhân  trong nghiên 
cứu thường đến viện trong 2 tình huống chủ yếu 
là: tình cờ phát hiện ra thận bị ứ nước hoặc khi 
đã có biểu hiện của bệnh thận mạn tính làm suy 
giảm  nhiều  đến  sức  khỏe mới  đi  khám  bệnh, 
những trường hợp này thường nhập viện trong 
tình trạng suy thận ở nhiều mức độ khác nhau. 
So sánh giá trị MLCT ước tính qua kết quả 
xạ hình thận và mức lọc cầu thận ước tính 
theo công thức Cockcroft‐Gault và MDRD 
Cả 3  cách  tính MLCT  đều  cho  thấy  sự  suy 
giảm MLCT  của  BN  khi  nhập  viện  với  nhiều 
mức độ khác nhau trong đó cách tính theo công 
thức Cockcroft  ‐ Gault cho kết quả MLCT  thấp 
hơn 2 cách còn lại là MDRD và xạ hình thận. Có 
36/44 bệnh nhân có MLCT < 60 ml/ phút/1,73m2 
theo công  thức Cockcroft  ‐ Gault,  trong khi  đó 
chỉ có 28/44 bệnh nhân (theo công thức MDRD) 
và 27/41 bệnh nhân (theo kết quả xạ hình thận) 
là có MLCT < 60 ml/ phút/1,73m2.  
Xạ  hình  thận  với  DTPA  –  99m  ‐  Tc 
(Diethylene Triamine Penta Acetate Technisium 
99m) hiện nay được ứng dụng rộng rãi, nó cho 
biết hình ảnh rõ nét của thận, niệu quản và vị trí 
tắc  nghẽn,  quan  trọng  hơn  nó  đánh  giá  được 
chức năng  thận  từng bên một và động  lực học 
của  hệ  tiết  niệu.  Phương  pháp  này  đơn  giản, 
nhanh  chóng  và  hầu  như  không  có  chống  chỉ 
định, có thể  làm cho cả trẻ em. Tuy không thật 
đặc hiệu để đóng vai trò quyết định trong chẩn 
đoán phân  biệt  các  tổn  thương  ở  thận,  nhưng 
việc phân tích thận đồ cho thấy hoạt động chức 
năng thận qua các pha của thận đồ phù hợp với 
tổn thương giải phẫu bệnh của  thận. Trong các 
trường hợp sỏi thận, sỏi niệu quản thận đồ đồng 
vị cho biết chức năng thận nào tốt hơn, mức độ 
gây tổn thương thận của sỏi giúp cho hướng chỉ 
định điều trị(3,5,6,9).  
Xạ hình chức năng  thận  là 1 kỹ  thuật chẩn 
đoán đơn giản, dễ tiến hành, rất có giá trị trong 
các  bệnh  lý  của  thận,  không  chỉ  cung  cấp  các 
thông  tin về chức năng  riêng  rẽ  của  từng  thận 
qua phân  tích định  lượng và định  tính mà còn 
cho  các  thông  tin  về  vị  trí,  kích  thước  và  giải 
phẫu thận. Xét nghiệm này cũng rất có ích trong 
trường hợp bệnh nhân mẫn cảm với  thuốc cản 
quang  có  iod hoặc ure máu  cao mà không  thể 
chụp X quang được.  
Khi so sánh mức lọc cầu thận khi đánh giá 
qua xạ hình thận với việc đánh giá MLCT ước 
tính theo các công thức tính mức lọc cầu thận. 
Công  thức  tính mức  lọc  cầu  thận  theo  công 
thức  sửa  đổi  chế  độ  ăn  trong  bệnh  thận 
(MDRD)  cho  thấy  kết  quả  gần  tương  đương 
với kết quả MLCT  tổng  thu  được khi  làm  xạ 
hình thận.  
Công  thức  Cockcroft Gault(2)  cho  số  lượng 
bệnh nhân có MLCT<60ml/phút/1,7m2 chiếm tỷ 
lệ  khá  cao  36/44  bệnh  nhân  so  với MLCT  ước 
tính của hai 2 công thức 28/44 bệnh nhân (theo 
công thức MDRD) và 27/41 bệnh nhân (theo kết 
quả  xạ  hình  thận).  Theo  nghiên  cứu  của 
Wieneke Marleen Michels và cộng sự khi thực tế 
lâm sàng này so sánh Cockcroft‐Gault, MDRD, 
và CKD‐EPI  công  thức  trong một  thử  nghiệm 
lâm sàng cho thấy sai số trung bình tổng thể  là 
nhỏ nhất  cho  công  thức MDRD.  Độ  chính  xác 
cao nhất đạt được với MDRD  là cho phép ước 
tính MLCT gần nhất với  đo  trực  tiếp MLCT  ở 
bệnh nhân có MLCT từ 15‐29 ml/phút/1,73 m2 (7). 
Nhiều nghiên cứu khác cũng cho thấy cho thấy 
có  sự  sai  số  tương  đối  nhiều  trong  xác  định 
MLCT  ở  bệnh  nhân  bênh  thận  giai  đoạn  2  và 
giai đoạn 3 với công thức Cockcroft‐Gault(4,10).  
KẾT LUẬN 
Như  vậy  với  phương  pháp  xạ  hình  thận 
không chỉ cho biết MLCT chung của cả 2  thận 
mà còn cho biết MLCT riêng rẽ của từng thận từ 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  173
đó cho phép bác sỹ lựa chọn phương pháp điều 
trị tiếp theo cho bệnh nhân một cách hiệu quả và 
an  toàn.  Theo  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cách 
tính MLCT ước tính theo công thức MDRD cho 
thấy có độ chính xác cao hơn và gần với kết quả 
làm  xạ  hình  thận  hơn  nên  khi  không  có  điều 
kiện  làm xạ hình  thận  thì việc xác  định MLCT 
nên tính bằng công thức MDRD.  
Lời cảm ơn: Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến ban chủ 
nhiệm, các bác sỹ, kỹ thuật viên và điều dưỡng Khoa Thận‐
Tiết niệu và Khoa Chẩn đoán hình ảnh, Bệnh viện Bạch Mai đã 
tạo điều kiện cho quá trình thực hiện nghiên cứu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Chhouy C  (2003). Góp phần nghiên  cứu  chẩn  đoán  thận  ứ 
nước do tắc nghẽn đường tiết niệu trên ở người lớn tại bệnh 
viện Việt Đức. Luận văn thạc sỹ ĐH Y Hà Nội.  
2. Cockcroft DW and MH Gault (1976), Prediction of creatinine 
clearance from serum creatinine, Nephron 16, pp. (1): 31–41. 
3. Đào Bích Thủy (1989), Phối hợp thận đồ đồng vị và ghi hình 
thận trong chẩn đoán bệnh thận tiết niệu. Tạp chí Y học thực 
hành 2 (279): Tr. 24 – 5. 
4. Froissart M,  Rossert  J,  Jacquot  C,  Paillard M, Houillier  P: 
(2005) Predictive performance of  the Modification of Diet  in 
Renal Disease and Cockcroft‐Gault equations  for estimating 
renal function. J Am Soc Nephrol 16: 763–773, 2005. 
5. Hà Hoàng Kiệm  (2010), Các phương pháp chẩn đoán bệnh 
thận bằng đồng vị phóng xạ. Nhà xuất bản y học: Tr.278 – 87. 
6. Mai  Trọng  Khoa  (2009),  Xạ  hình  chức  năng  thận. 
www.bmir.vn.hom.thận tiết niệu.  
7. Michels  WM,  Grootendorst  DC,  Verduijn  M,  Elliott  EG, 
Dekker FW, Krediet RT. (2010) Performance of the Cockcroft‐
Gault,  MDRD,  and  new  CKD‐EPI  formulas  in  relation  to 
GFR,  age,  and  body  size.Clin  J  Am  Soc  Nephrol.  2010 
Jun;5(6):1003‐9. doi: 10.2215/CJN.06870909.  
8. Nguyễn Văn Xang (2000), Thận ứ nước. NXB Y học: Tr.407 – 
9.  
9. Phạm Văn Bùi  (2007), Các phương pháp  thăm dò hệ niệu. 
NXB Y học: Tr. 48‐ 55. 
10. Rigalleau V, Lasseur C, Perlemoine C, Barthe N, Raffaitin C, 
Chauveau  P,  Combe  C,  Gin  H  (2006).  Cockcroft‐Gault 
formula  is biased by body weight  in diabetic patients with 
renal impairment. Metabolism 55: 108–112. 
Ngày nhận bài báo              16‐05‐2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo:  03‐06‐2013 
Ngày bài báo được đăng:  15–07‐2013 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_chuc_nang_than_o_benh_nhan_u_nuoc_u_mu_be_than_qua.pdf