Đánh giá chất lượng nước thải canh tác nông nghiệp khu vực huyện Đông Anh, Hà Nội

TÓM TẮT

Chất lượng nông sản Việt Nam ngày được nâng cao, nhưng bên cạnh đó là sự suy giảm

chất lượng môi trường, đặc biệt chất lượng nước tại các vùng canh tác nông nghiệp. Bài báo

trình bày kết quả quan trắc chất lượng nước thải canh tác một số loại cây nông nghiệp (lúa, rau

- củ - quả, hoa - cây cảnh) trên địa bàn huyện Đông Anh, Hà Nội trong thời gian từ tháng

1/2013 đến tháng 7/2017. Kết quả cho thấy một số thông số quan trắc như sau: nhiệt độ: 14,9

- 36,3oC; DO: 0,1 - 5,2mg/l; TDS: 28,8 - 707,0mg/l; Độ dẫn điện: 22,9 - 1313,0µS/cm; TSS: 7 -

1018,6mg/l; COD: 6,0 - 331,6mg/l; Nitrit: 0,001 - 0,756mgN/l; nitrat: 0,01 - 2,61mgN/l; amoni:

0,02 - 3,11mgN/l; phốtphát: 0,01 - 2,50mgP/l; phốtpho tổng số: 0,1 - 5,0mgP/l. Một số thông

số quan trắc như DO, nitrit, amoni, phốtphát, COD, TSS tại một số thời điểm vượt xa giá trị cho

phép của Quy chuẩn Việt Nam về chất lượng nước mặt QCVN 08:2015/BTNMT cột B1. Hàm

lượng dinh dưỡng cao trong nước thải phản ảnh rửa trôi phân bón dư thừa trong canh tác

nông nghiệp và nguy cơ gây phì dưỡng tại các môi trường nước tiếp nhận. Vì vậy, cần có cảnh

báo về việc sử dụng phân bón hợp lý trong canh tác nông nghiệp tại huyện Đông Anh nói

chung và Việt Nam nói riêng.

pdf 5 trang phuongnguyen 5340
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá chất lượng nước thải canh tác nông nghiệp khu vực huyện Đông Anh, Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá chất lượng nước thải canh tác nông nghiệp khu vực huyện Đông Anh, Hà Nội

Đánh giá chất lượng nước thải canh tác nông nghiệp khu vực huyện Đông Anh, Hà Nội
 CÔNG NGHỆ 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 53.2019 68
KHOA HỌC P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9615
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NƯỚC THẢI CANH TÁC NÔNG NGHIỆP 
KHU VỰC HUYỆN ĐÔNG ANH, HÀ NỘI 
ASSESSMENT OF AGRICULTURAL WASTEWATER QUALITY IN DONG ANH DISTRICT, HANOI CITY 
Lê Như Đa1,*, Lê Thị Phương Quỳnh1, 
Phạm Thị Mai Hương2 
KÝ HIỆU 
COD mg/l Nhu cầu oxy hóa hóa học 
TDS mg/l Tổng chất rắn hòa tan 
1. MỞ ĐẦU 
Nguồn chính gây ô nhiễm nước chủ yếu đến 
từ các hoạt động của con người, bao gồm sản 
xuất công nghiệp, nông nghiệp và đô thị hóa. 
Trong đó, nông nghiệp sử dụng đến 70% lượng 
nước trên toàn thế giới và vì vậy góp phần 
không nhỏ vào việc gây ô nhiễm nước. Một 
lượng lớn hóa chất nông nghiệp như dư lượng 
phân bón, thuốc trừ sâu, bảo vệ thực vật được 
đổ thải vào các nguồn nước tiếp nhận, ảnh 
hưởng đến môi trường và hệ sinh thái nước. Ô 
nhiễm dinh dưỡng trong nông nghiệp chủ yếu 
là nitơ và phốt pho có trong phân bón hóa học, 
phân hữu cơ cũng như phân động vật và 
thường tồn tại trong nước dưới dạng nitrat, 
amoni hoặc phốtphát [1]. Khi sử dụng phân bón 
với hàm lượng lớn hơn so với khả năng hấp thu 
của đất và cây trồng dẫn đến chúng bị rửa trôi 
khỏi bề mặt đất trước khi thực vật có thể hấp 
thu chúng. Nitrat và phốtphát rửa trôi có thể 
được chuyển vào nước ngầm hoặc đổ vào sông, 
hồ, gây nên hiện tượng phì dưỡng với sự bùng 
nổ phát triển của tảo, trong đó có tảo độc [2]. 
Theo thống kê, có trên 14.000 sản phẩm 
phân bón được phép lưu hành ở Việt Nam. Tuy 
nhiên, số lượng phân bón vẫn tiếp tục tăng, dẫn 
đến tổng sản lượng phân bón sản xuất cao hơn 
gấp 3 lần so với nhu cầu canh tác nông nghiệp 
[3]. Cùng với đó là việc sử dụng phân bón hóa 
học nhiều hơn nhu cầu thực tế của cây trồng 
trong canh tác nông nghiệp, và hiệu quả sử 
dụng phân bón thấp dẫn đến ô nhiễm trong 
môi trường. Một số nghiên cứu trước đây tại 
một số khu vực canh tác nông nghiệp như các 
xã Phú Diễn, Tây Tựu [4], xã Vân Nội [5] đã cho 
thấy có sự ô nhiễm hữu cơ, và các chất dinh 
dưỡng (N và P) trong nước thải canh tác. 
TÓM TẮT 
Chất lượng nông sản Việt Nam ngày được nâng cao, nhưng bên cạnh đó là sự suy giảm 
chất lượng môi trường, đặc biệt chất lượng nước tại các vùng canh tác nông nghiệp. Bài báo 
trình bày kết quả quan trắc chất lượng nước thải canh tác một số loại cây nông nghiệp (lúa, rau 
- củ - quả, hoa - cây cảnh) trên địa bàn huyện Đông Anh, Hà Nội trong thời gian từ tháng 
1/2013 đến tháng 7/2017. Kết quả cho thấy một số thông số quan trắc như sau: nhiệt độ: 14,9 
- 36,3oC; DO: 0,1 - 5,2mg/l; TDS: 28,8 - 707,0mg/l; Độ dẫn điện: 22,9 - 1313,0µS/cm; TSS: 7 - 
1018,6mg/l; COD: 6,0 - 331,6mg/l; Nitrit: 0,001 - 0,756mgN/l; nitrat: 0,01 - 2,61mgN/l; amoni: 
0,02 - 3,11mgN/l; phốtphát: 0,01 - 2,50mgP/l; phốtpho tổng số: 0,1 - 5,0mgP/l. Một số thông 
số quan trắc như DO, nitrit, amoni, phốtphát, COD, TSS tại một số thời điểm vượt xa giá trị cho 
phép của Quy chuẩn Việt Nam về chất lượng nước mặt QCVN 08:2015/BTNMT cột B1. Hàm 
lượng dinh dưỡng cao trong nước thải phản ảnh rửa trôi phân bón dư thừa trong canh tác 
nông nghiệp và nguy cơ gây phì dưỡng tại các môi trường nước tiếp nhận. Vì vậy, cần có cảnh 
báo về việc sử dụng phân bón hợp lý trong canh tác nông nghiệp tại huyện Đông Anh nói 
chung và Việt Nam nói riêng. 
Từ khóa: Canh tác nông nghiệp; dinh dưỡng; phân bón; cây trồng; ô nhiễm nước thải. 
ABSTRACT 
The quality of agricultural products in Vietnam has been improved, however, together 
with the decrease of environment quality, especially the water quality in agricultural zone. 
This paper presents the monitoring results of the agricultural wastewater quality in the Dong 
Anh district, Hanoi city in the period from January 2013 to July 2017. The results showed that 
the temperature was 14.9 - 36.3oC; DO: 0.1 - 5.2mg/l; TDS: 28.8 - 707.0mg/l; Conductivity: 
22.9 - 1313.0μS/cm; TSS: 7 - 1018,6mg/l; COD: 6.0 - 331.6mg/l; Nitrite: 0.001 - 0.756mgN/l; 
nitrate: 0.01 - 2.61mgN/l; ammonium: 0.02 - 3.11mgN/l; phosphate: 0.01 - 2.50mgP/l; total 
phosphorus: 0.1 - 5.0mgP/l. Some variables such as DO, nitrite, ammonium, phosphate and 
COD at some observed times and some sites exceed the permitted values of the Vietnam 
National regulation for surface water quality QCVN 08-MT: 2015/BTNMT column B1. High 
nutrient contents in wastewater reflected nutrient leaching from the fertilizer utilization 
excess in agricultural areas and that may pose the eutrophication risk in the receiving water 
environments. Therefore, a warning about the reasonable use of fertilizers in agricultural 
cultivation should be given for Dong Anh district in particular and Vietnam in general. 
Keywords: Agriculture; nutrients; fertilizers; crops; wastewater pollution. 
1Viện Hoá học các Hợp chất thiên nhiên, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
2Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội 
*Email: dalenhu@gmail.com 
Ngày nhận bài: 12/01/2019 
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 07/5/2019 
Ngày chấp nhận đăng: 15/8/2019 
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9615 SCIENCE - TECHNOLOGY 
No. 53.2019 ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY 69
Bài báo này trình bày kết quả khảo sát chất lượng nước 
vùng canh tác huyện Đông Anh, Hà Nội, nhằm làm rõ tình 
trạng ô nhiễm trong nước thải canh tác nông nghiệp vùng 
ngoại thành Hà Nội. Các kết quả góp phần xây dựng cơ sở dữ 
liệu về chất lượng nước thải canh tác, đồng thời góp phần 
kiểm soát ô nhiễm nước canh tác nông nghiệp ở Việt Nam. 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
Đối tượng chính trong nghiên cứu này là chất lượng 
nước, đặc biệt là hàm lượng các chất dinh dưỡng trong 
nước thải canh tác nông nghiệp một số loại cây trồng như 
rau, lúa và hoa tại huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. 
Huyện Đông Anh có tổng diện tích hơn 18.000ha với 
dân số đạt 383.800 người [6] Diện tích đất nông nghiệp 
chiếm hơn 9000ha với giá trị sản xuất của ngành nông 
nghiệp đã đạt 375,5 tỷ đồng [7]. Các cây trồng nông nghiệp 
chủ yếu trên địa bàn huyện bao gồm: rau, hoa - cây cảnh, 
lúa, cây ăn trái. Theo thông tin của UBND huyện Đông Anh 
(2010) sản lượng một số sản phẩm nông nghiệp: thóc đạt 
hơn 58.000 tấn/năm, rau các loại hơn 54.000 tấn/năm, ngô 
đạt 4800 tấn/năm. Tổng gia súc và gia cầm được duy trì ổn 
định ở mức 99.000 con lợn/năm, 12.500 con trâu bò/năm 
và 2,3 triệu con gia cầm/năm, cung cấp một lượng lớn phân 
chuồng cho canh tác nông nghiệp. 
Các loại phân bón chủ yếu được sử dụng gồm: phân vô 
cơ, phân hữu cơ, phân vi sinh, phân chuồng. Ngoài ra còn 
có các loại phân bón khác tùy theo nhu cầu của từng loại 
cây trồng. Liều lượng phân bón cho 1ha trồng lúa trên đất 
phù sa sông Hồng: cho lúa xuân: 10 tấn phân chuồng + 
120kgN + 90kgP2O5+ 90kgK2O/ha; cho lúa mùa: 10 tấn 
phân chuồng, 120kgN, 60kgP2O5, 60kgK2O [8]. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
Lấy mẫu, bảo quản và phân tích: 120 mẫu nước mặt 
trong các kênh dẫn từ các vùng trồng lúa (38 mẫu), từ 
vùng trồng hoa - cây cảnh (38 mẫu), từ vùng trồng rau - 
củ - quả (44 mẫu) trên địa bàn huyện Đông Anh được lấy 
theo tiêu chuẩn TCVN 5999-1995 trong thời gian từ tháng 
1/2013 đến tháng 7/2017. Các mẫu nước được lọc bằng 
giấy lọc Whatman GF/F và được bảo quản lạnh, riêng biệt 
trong lọ nhựa (PE) để phân tích các chất dinh dưỡng dạng 
hòa tan (N, P, Si). Mẫu nước không lọc dùng để phân tích 
phốtpho tổng số, chất rắn lơ lửng TSS, nhu cầu oxy hóa 
hóa học COD. 
Đo đạc tại hiện trường: Thiết bị đo nhanh chất lượng 
nước WQC-22A (TOA, Nhật Bản) để đo các thông số nhiệt 
độ (oC), pH, độ dẫn điện (µS/cm), hàm lượng ôxy hoà tan 
DO (mg/l), và thiết bị EC500 (Đài Loan) để đo tổng chất rắn 
hòa tan TDS (mg/l) tại hiện trường. 
Phân tích mẫu trong phòng thí nghiệm: hàm lượng các 
chỉ tiêu như NH4+, NO3- , NO2- , PO43- , P tổng, Si hòa tan, COD 
được xác định bằng phương pháp so màu trên máy đo 
quang Jasco V-630 (Nhật Bản) theo các phương pháp tiêu 
chuẩn của Mỹ [9]. Mỗi mẫu được phân tích lặp lại 3 lần và 
lấy kết quả trung bình. 
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Các thông số hóa lý 
Các thông số hóa lý được đo trực tiếp tại hiện trường. 
Kết quả quan trắc cho thấy nhiệt độ các mẫu nước dao 
động trong khoảng 14,9 - 36,3oC, giá trị trung bình đạt 
24,1oC. Giá trị pH biến đổi từ 6,0 đến 10,1, trung bình đạt 
7,5. Giá trị trung bình pH cho 3 loại nước thải canh tác rau, 
lúa, hoa không có sự khác biệt nhiều. Tại một số thời điểm 
quan trắc, một số mẫu nước từ vùng trồng rau củ có giá trị 
pH (> 9,0) vượt quá giá trị cho phép so với quy chuẩn cho 
phép QCVN 08-MT:2015/BTNMT cột B1 áp dụng cho nước 
mặt sử dụng cho tưới tiêu thủy lợi và quy chuẩn QCVN 
39:2011/BTNMT áp dụng cho đánh giá và kiểm soát chất 
lượng nguồn nước sử dụng cho mục đích tưới tiêu (bảng 1). 
Bảng 1. Chỉ tiêu hoá lý các mẫu nước thải từ các vị trí (giá trị trung bình) 
Loại cây pH (-) 
Nhiệt 
độ (oC) 
DO 
(mg/l) 
TDS 
(mg/l) 
Độ dẫn 
điện 
(µS/cm) 
Hoa 7,6 ± 0,5 
23,1 ± 
4,4 
1,9 ± 
1,0 
247 ± 
107 
466 ± 
168 
Rau củ 7,6 ± 0,8 
25,0 ± 
6,2 
2,8 ± 
1,1 
196 ± 
122 
377 ± 
237 
Lúa 7,2 ± 0,5 
24,1 ± 
4,2 
2,2 ± 
0,7 162 ± 88 
333 ± 
181 
QCVN 08-MT:2015 
/BTNMT cột B1* 5,5-9,0 - ≥ 4 - - 
QCVN 
39:2011/BTNMT** 5,5-9,0 - ≥ 2 - - 
*QCVN 08:2015/BTNMT cột B1: áp dụng đối với nước mặt sử dụng cho mục đích 
tưới tiêu thủy lợi hoặc cho các mục đích khác với chất lượng nước được quy định trong 
cột B2 (điều hướng nước và các mục đích khác với yêu cầu nước chất lượng thấp) 
**QCVN39:2011/BTNMT: Quy chuẩn này áp dụng để đánh giá và kiểm soát 
chất lượng nguồn nước sử dụng cho mục đích tưới tiêu 
Hàm lượng DO khá thấp, dao động từ 0,1 - 5,2mg/l, trung 
bình đạt 2,3mg/l, thấp hơn 1,7 lần so với quy chuẩn cho 
phép QCVN 08-MT:2015/BTNMT cột B1 áp dụng cho nước 
mặt sử dụng cho tưới tiêu thủy lợi, tuy nhiên vẫn nằm trong 
giới hạn cho phép của quy chuẩn QCVN 39:2011/BTNMT áp 
dụng cho đánh giá và kiểm soát chất lượng nguồn nước sử 
dụng cho mục đích tưới tiêu. Hàm lượng các chất rắn hòa tan 
TDS biến đổi từ 28,8 - 707mg/l, trung bình đạt 206,3mg/l. Độ 
dẫn điện dao động từ 22,9 - 1313,0µS/cm, trung bình đạt 
390µS/cm. Các mẫu nước từ vùng trồng hoa và rau - củ có xu 
hướng có độ đục, độ dẫn điện và TDS cao hơn so với mẫu 
nước vùng trồng lúa (bảng 1, hình 1) 
 CÔNG NGHỆ 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 53.2019 70
KHOA HỌC P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9615
Hình 1. Giá trị trung bình một số thông số hóa lý: pH, DO, TDS và độ dẫn điện 
của nước thải vùng canh tác lúa, rau - củ và hoa - cây cảnh trên địa phận huyện 
Đông Anh, Hà Nội 
3.2. Các chất dinh dưỡng 
* Nitơ 
Hàm lượng amoni trong tất cả các mẫu nước khảo sát 
dao động từ 0,02 - 3,11mgN/l, trung bình đạt 0,52mgN/l. 
Khu vực trồng hoa có hàm lượng NH4+ đạt giá trị cao nhất 
đạt 0,62mgN/l và cao hơn 3 lần so với vùng trồng lúa 
(0,21mgN/l) (bảng 2). Hàm lượng amoni trong nước thải 
khu vực trồng hoa trong nghiên cứu này cũng cao hơn 3 
lần so với khu vực trồng hoa tại xã Tây Tựu [4] và vùng 
trồng rau muống, dưa lê tại xã Vân Nội (0,24mgN/l) [5]. Tại 
một số thời điểm khảo sát, hàm lượng amoni trong các 
mẫu nước thải canh tác rau - củ và canh tác hoa-cây cảnh 
cao hơn 2 - 3 lần so với giá trị cho phép của quy chuẩn 
QCVN 08-MT:2015/BTNMT cột B1. Quy chuẩn QCVN 
39:2011/BTNMT không quy định giá trị giới hạn cho các 
thông số trong bảng 2 (về các thông số như hợp chất nitơ, 
phốtpho, silic, tổng chất rắn lơ lửng và nhu cầu oxy hóa 
hóa học). 
Bảng 2. Chất lượng nước thải từ vùng canh tác nông nghiệp huyện Đông 
Anh, Hà Nội 
Nitrit 
(mgN 
/L) 
Nitrat 
(mgN 
/L) 
Amoni 
(mgN 
/L) 
Si hòa 
tan 
(mgSi 
/l) 
Phốt 
phát 
(mgP 
/l) 
P tổng 
(mgP 
/l) 
TSS 
(mg 
/l) 
COD 
(mg 
/l) 
Hoa 
0,15 
± 
0,24 
0,40 
 ± 
 0,55 
0,62 
± 
0,65 
7,8 
± 
5,4 
0,59 
± 
0,5 
1,2 
± 
 0,6 
52 
± 
 38 
28,5 
± 
57,7 
Rau củ 
0,08 
± 
 0,14 
0,20 
 ± 
 0,16 
0,58 
± 
 0,64 
7,5 
 ± 
4,6 
0,58 
± 
 0,6 
1,3 
 ± 
 0,9 
97 
± 
 185 
25,7 
± 
32,1 
Lúa 0,09 ± 0,16 
0,21 
± 0,17 
0,21 
± 0,22 
4,4 
 ± 2,1 
0,42 
 ± 0,5 
0,9 
± 0,6 
38 
± 24 
17,4 
± 
12,3 
QCVN 08-MT 
/2015 cột B1 0,05 10 0,9 - 0,3 - 50 30 
Nitrit là muối cần cho hoạt động sống của thực vật đơn 
bào và thường tồn tại ở hàm lượng thấp trong nước tự 
nhiên. Hàm lượng nitrit trong các mẫu nước khảo sát dao 
động trong khoảng từ 0,001 - 0,756mgN/l, trung bình đạt 
0,11mgN/l và giá trị này cao gấp 2,2 lần so với giá trị cho 
phép của quy chuẩn QCVN 08-MT:2015/BTNMT. Hàm lượng 
NO2- trung bình trong nước thải từ khu vực trồng hoa 
(0,15mgN/l) cao hơn so với khu vực trồng lúa và rau-củ tại 
huyện Đông Anh và giá trị này cao hơn gần 3,5 lần so với 
khu vực trồng hoa tại xã Tây Tựu [4]. Các giá trị khá cao về 
hàm lượng nitrit trong nước thải từ các khu vực trồng hoa, 
rau lúa (khoảng 0,7mgN/l, vượt 15 lần so với QCVN 08-
MT:2015/BTNMT cột B1 (0,05mgN/l)) cũng đã được phát 
hiện thấy trong một số đợt quan trắc. 
Hình 2. Hàm lượng trung bình nitrit, nitrat và amoni trong nước thải canh 
tác lúa, rau - củ và hoa - cây cảnh tại huyện Đông Anh 
Hàm lượng nitrat trong tất cả các mẫu nước khảo sát 
dao động trong khoảng rộng, từ 0,01 - 2,61mgN/l, giá trị 
trung bình đạt 0,27mgN/l, nằm trong ngưỡng quy định của 
QCVN08-MT:2015/BTNMT cột B1. Nước thải khu vực trồng 
hoa có hàm lượng trung bình NO3- đạt cao nhất 0,40mgN/l 
và hàm lượng thấp nhất tại vùng trồng lúa và rau củ 
(0,20mgN/l và 0,21mgN/l tương ứng). Hàm lượng nitrat 
trong nghiên cứu này cao hơn so với giá trị quan trắc từ 
một số vùng trồng rau, củ khác [5], nhưng thấp hơn so với 
ruộng rau tại lưu vực sông Đáy - Nhuệ [11]. 
* Phốtpho 
Hình 3. Hàm lượng trung bình phốtphát và phốtpho tổng trong nước thải 
canh tác lúa, rau - củ và hoa - cây cảnh tại huyện Đông Anh 
Giống như nitơ, phốtpho là một nguyên tố dinh dưỡng 
rất quan trọng cho sự phát triển của thực vật. Trong môi 
trường nước, khác với nitrat và amoni có sự chuyển hóa 
hóa học, phốtphát có xu hướng bị hấp phụ lên các hạt bùn 
đất [1] và thường có hàm lượng khá thấp (< 0,01mgP/l). 
Hàm lượng phốtphát trong các mẫu nước khảo sát dao 
động rất lớn từ 0,01 - 2,50mgP/l, giá trị trung bình đạt 
0,55mgP/l vượt quá 1,8 lần so với QCVN 08-
MT:2015/BTNMT cột B1 (bảng 3). Khu vực trồng lúa có hàm 
lượng trung bình phốtphát (0,42mgN/l) thấp hơn so với 
khu vực trồng rau củ và hoa (0,58mgN/l và 0,59mgN/l) 
(hình 3). Các giá trị quan trắc trong nghiên cứu này cao hơn 
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9615 SCIENCE - TECHNOLOGY 
No. 53.2019 ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY 71
so với nước thải vùng trồng hoa (0,36mgP/l) trong lưu vực 
sông Đáy - Nhuệ [11]. Hàm lượng trung bình phốtphát tại 
các khu vực cây trồng lần lượt vượt từ 1,4 đến gần 2,0 lần so 
với quy chuẩn QCVN 08-MT:2015/BTNMT cột B1 (bảng 3). 
Hàm lượng phốtpho tổng trong các mẫu nước dao 
động trong khoảng rộng từ 0,1-5,0mgP/l, trung bình đạt 
1,2mgP/l. Hàm lượng trung bình phốtpho tổng từ khu vực 
trồng hoa (1,2mgP/l) và rau - củ (1,3mgP/l) cao hơn so với 
vùng trồng lúa (0,9mgP/l). Quy chuẩn QCVN 08-
MT:2015/BTNMT chưa quy định hàm lượng phốttpho tổng 
trong nước, tuy nhiên các giá trị rất cao về hàm lượng P 
tổng (lên tới 5mgP/l) đã được quan trắc thấy trong các đợt 
khảo sát. 
* Silic 
Bên cạnh nitơ và phốtpho, silic cũng là một nguyên tố 
cần thiết cho sự phát triển cây trồng. Hàm lượng silic có 
trong các mẫu nước ở các điểm khảo sát dao động từ 0,4 - 
26,7mg/l, giá trị trung bình đạt 6,9mg/l (hình 4). Hàm lượng 
silic trong nước thải canh tác phụ thuộc vào thời điểm canh 
tác, loại đất trồng, loại cây trồng, phân bón sử dụng. Khu vực 
trồng hoa có hàm lượng trung bình silic đạt giá trị cao nhất 
(7,8mg/l), cao hơn gần 4 lần so với kết quả khảo sát trước đây 
trong lưu vực sông Hồng [12]. Hàm lượng silic tại khu vực 
trồng hoa cao có thể do kỹ thuật canh tác đòi hỏi vun, xới 
thường xuyên gây xáo trộn lớp đất bề mặt nên ảnh hưởng 
tới tải lượng silic rửa trôi [12]. Khu vực trồng lúa tại huyện 
Đông Anh có hàm lượng silic trung bình đạt giá trị thấp nhất 
(4,4mg/l), tuy nhiên giá trị này cao hơn gần 2 lần so với kết 
quả khảo sát trước đây trong lưu vực sông Hồng [12]. 
Hình 4. Hàm lượng trung bình silic trong nước thải canh tác lúa, rau - củ và 
hoa - cây cảnh tại huyện Đông Anh, Hà Nội 
3.3. Các chỉ tiêu khác (COD, TSS) 
Hình 5. Hàm lượng trung bình COD và TSS trong nước thải canh tác lúa, rau - 
củ và hoa - cây cảnh tại huyện Đông Anh 
COD là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá 
mức độ ô nhiễm hữu cơ trong nước. Hàm lượng COD trong 
tất cả các mẫu nước dao động từ 6 - 331,6mg/l, trung bình 
đạt 30mg/l. Khu vực trồng hoa có hàm lượng trung bình 
COD cao nhất (28,5mg/l), tiếp đến khu vực trồng rau củ 
(25,7mg/), và khu vực trồng lúa (17,4mg/l) (hình 5). Sự khác 
biệt hàm lượng chất hữu cơ giữa các loại cây trồng có thể do 
ảnh hưởng bởi kỹ thuật canh tác, kỹ thuật luân canh cây màu 
trong hệ thống thâm canh lúa giúp sự phân hủy chất hữu cơ 
và khoáng hóa N tốt hơn [13]. Mặt khác, thể tích nước sử 
dụng trong trồng lúa là rất lớn, do đó sự pha loãng làm giảm 
hàm lượng COD trong nước thải vùng canh tác lúa so với các 
khu canh tác khác. Tại một số thời điểm khảo sát, hàm lượng 
COD trong nước thải từ vùng trồng hoa và trồng rau củ đạt 
giá trị rất cao (>100mg/l), vượt xa giá trị cho phép của QCVN 
08-MT:2015/BTNMT cột B1 (<30mg/l). Hàm lượng COD trong 
nước cao có nguy cơ gây hại cho các loài thuỷ sinh vật, đặc 
biệt là COD có nguồn gốc từ các cánh đồng nông nghiệp nơi 
có sử dụng một lượng lớn phân bón hóa học và thuốc trừ 
sâu, thuốc bảo vệ thực vật [14]. 
Chất rắn lơ lửng (TSS) trong nước thải dao động mạnh 
từ 7 - 1019mg/l, trung bình đạt 67,2mg/l và vượt 1,3 lần so 
với giá trị cho phép QCVN 08-MT:2015/BTNMT cột B1 
(50mg/l). Khu vực trồng lúa có hàm lượng trung bình TSS 
thấp nhất đạt 37,5mg/l, trong khi giá trị TSS trung bình tại 
khu vực trồng hoa (52 mg/l) và khu vực trồng rau củ 
(97mg/l) đều vượt giá trị cho phép QCVN 08-
MT:2015/BTNMT cột B1 (50mg/l) (hình 5). Đặc biệt, tại 
một số thời điểm, TSS quan trắc được giá trị rất cao 
(> 1000mg/l) trong nước thải từ vùng đất trồng rau - củ. 
Hàm lượng TSS cao trong nước có tác động không nhỏ tới 
đời sống thủy sinh vật, đặc biệt là thực vật phù du do giảm 
ánh sáng mặt trời, giảm khả năng quang hợp, ảnh hưởng 
tới sinh trưởng và phát triển của thực vật phù du [14]. Biến 
động hàm lượng TSS có thể bị ảnh hưởng bởi yếu tố mùa 
do trong mùa mưa, nước cuốn đất, cát, các chất bề mặt làm 
gia tăng hàm lượng TSS trong nước, dẫn đến TSS mùa mưa 
cao hơn mùa khô [15]. 
3.4. Nhận xét chung 
Kết quả khảo sát nước mặt tại vùng canh tác một số loại 
cây trồng gồm rau - củ; lúa và hoa - cây cảnh trên địa bàn 
huyện Đông Anh, Hà Nội cho thấy vùng đất trồng hoa - cây 
cảnh và vùng đất trồng rau luôn có hàm lượng dinh dưỡng, 
COD và TSS cao hơn so với vùng trồng lúa. Có thể thấy hàm 
lượng các chất dinh dưỡng, chất hữu cơ trong nguồn nước 
thải nông nghiệp từ các kênh tưới - tiêu thay đổi bị ảnh 
hưởng bởi nhiều yếu tố như: kỹ thuật canh tác, thời gian - 
liều lượng phân bón sử dụng, thể tích tưới nước cho các 
loại cây trồng và các điều kiện thời tiết (mưa, ẩm). Đối với 
hàm lượng phân bón dư thừa thường được tích tụ trong 
lớp đất bề mặt dày từ 1,0 - 2,5cm và phụ thuộc vào chế độ 
thuỷ văn, lượng nước tưới-tiêu trong vùng đất canh tác sẽ 
quyết định tải lượng các chất dinh dưỡng rửa trôi và xói 
mòn [16], như đã quan trắc đối với vùng đất canh tác nông 
nghiệp lưu vực sông Yangtze và sông Yellow ở Trung Quốc 
[17]. Kỹ thuật canh tác có ảnh hưởng đến tải lượng chất 
dinh dưỡng rửa trôi do chúng ảnh hưởng trực tiếp tới lớp 
đất bề mặt và gây xáo trộn lớp đất này [18]. 
 CÔNG NGHỆ 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 53.2019 72
KHOA HỌC P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9615
Tại một số thời điểm quan trắc, một số chỉ tiêu (amoni, 
phốtphát, nitrit, COD, TSS) vượt giá trị cho phép của quy 
chuẩn Việt nam QCVN 08-MT:2015/BTNMT cột B1 về chất 
lượng nước mặt. Có thể thấy, hàm lượng dinh dưỡng N, P 
và các chất hữu cơ cao trong các mẫu nước quan trắc là do 
quá trình rửa trôi phân bón, đặc biệt là sự sử dụng quá mức 
dư thừa phân bón trong nông nghiệp và sự phân huỷ các 
hợp chất hữu cơ có chứa N và P. Trong khi đó, hàm lượng 
Silic trong nước có nguồn gốc chủ yếu là do quá trình xói 
mòn đất đá và một phần rửa trôi từ phân bón chứa silic. Từ 
các quá trình này, một lượng khá lớn N, P và Si từ phân bón 
dư thừa được đổ vào hệ thống nước mặt, gây nên hiện 
tượng phì dưỡng trong các ao hồ, sông suối đồng thời COD 
cao trong nước thải vùng đất canh tác là nguy cơ gây ô 
nhiễm hữu cơ trong các thủy vực tiếp nhận [16]. 
4. KẾT LUẬN 
Các kết quả khảo sát chất lượng nước vùng canh tác 
một số loại cây trồng (lúa, rau - củ - quả, hoa - cây cảnh) 
trên địa bàn huyện Đông Anh, Hà Nội trong giai đoạn 2013 
- 2017 cho thấy: nhiệt độ: 14,9 - 36,3oC; DO: 0,1 - 5,2mg/l; 
TDS: 28,8 - 707,0mg/l; Độ dẫn điện: 22,9 - 1313,0µS/cm; TSS: 
7 - 1018,6mg/l; COD: 6,0 - 331,6mg/l; Nitrit: 0,001 - 0,756mgN/l; 
nitrat: 0,01 - 2,61mgN/l; amoni: 0,02 - 3,11mgN/l; phốtphát: 
0,01 - 2,50mgP/l; phốtpho tổng: 0,1 - 5,0mgP/l. Các kết quả 
quan trắc cho thấy có sự dao động lớn về hàm lượng các 
chất dinh dưỡng và chất hữu cơ qua các vị trí quan trắc và 
thời điểm quan trắc, phụ thuộc rất nhiều vào kỹ thuật canh 
tác, thời gian - liều lượng phân bón sử dụng, thể tích tưới 
nước cho loại cây trồng và các điều kiện thời tiết (mưa, ẩm) 
tại thời điểm lấy mẫu. 
Một số thông số quan trắc như DO, nitrit, amoni, 
phốtphát, COD, TSS tại một số thời điểm vượt xa giá trị cho 
phép của Quy chuẩn Việt Nam về chất lượng nước mặt 
QCVN 08-MT:2015/BTNMT cột B1. Hàm lượng dinh dưỡng 
và chất hữu cơ cao trong nước thải phản ảnh sự rửa trôi 
phân bón dư thừa trong canh tác nông nghiệp và nguy cơ 
gây phì dưỡng tại các môi trường nước tiếp nhận. Vì vậy, 
cần có cảnh báo về việc sử dụng phân bón hợp lý trong 
canh tác nông nghiệp tại huyện Đông Anh nói riêng và Việt 
Nam nói chung. 
LỜI CẢM ƠN 
Tập thể tác giả chân thành cảm ơn Quỹ Phát triển Khoa 
học và Công nghệ Quốc gia NAFOSTED (mã số 105.08-
2018.317) đã tài trợ kinh phí thực hiện. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Javier MS, Zadeh SM, Turral H, Burke J., 2017. Water pollution from 
agriculture: a global review. Executive summary. Rome, Italy: FAO; Colombo, Sri 
Lanka: International Water Management Institute (IWMI). CGIAR Research 
Program on Water, Land and Ecosystems (WLE), 35p. 
[2]. Pathak H., Bhatt B.P., Gupta S.K., 2015. State of Indian agriculture water, 
National academy of agricultural sciences, New Delhi, chapter 4. 
[3]. VGP (Cổng thông tin điện tử Chính phủ), 2017. Tăng cường quản lý thị 
trường phân bón. Truy cập ngày 18/12/2018.  
[4]. Vũ Duy An, Lê Thị Phương Quỳnh, Nguyễn Thị Bích Ngọc, Nguyễn Bích 
Thủy, Phạm Quốc Long, Christina Seilder, Phùng Thị Xuân Bình, 2014. Chất lượng 
nước thải vùng canh tác nông nghiệp (hoa-cây ăn quả-rau) tại phường Phú Diễn và 
Tây Tựu (Hà Nội). Tạp chí phát triển Khoa học và Công nghệ. 17(M2):13-21. 
[5]. Nguyễn Thị Bích Ngọc, Lê Thị Phương Quỳnh, Nguyễn Thị Mai Hương, 
Nguyễn Bích Thủy, Vũ Duy An, Dương Thị Thủy, 2014. Chất lượng nước thải canh 
tác vùng trồng rau xã Vân Nội, huyện Đông Anh, Hà Nội. Tạp chí Nông nghiệp và 
Phát triển Nông thôn. 21:65-71. 
[6]. Cổng thông tin điện tử huyện Đông Anh. Thông tin khái quát về huyện 
Đông Anh. UBND TP Hà Nội. Truy cập ngày 18/12/2018. 
[7]. Tú Mai, 2016. Đông Anh: Tạo bước tiến bền vững trong phát triển nông 
nghiệp. Cổng Thông tin điện tử Chính phủ. Truy cập ngày 18/12/2018. 
[8]. Bùi Huy Hiền, Nguyễn Trọng Thi và CTV, 2005. Bón phân cân đối cho hệ 
thống cây trồng có lúa vùng đồng bằng sông Hồng. Kết quả nghiên cứu khoa 
học. Quyển số 4. Kỷ niệm 35 năm thành lập viện (1969-2004). NXB Nông nghiệp, 
Hà Nội. 
[9]. APHA, 2012. Standard methods for the examination of water and 
wastewater 22nd edition. Washington DC, USA. 
[10]. Nguyễn Thị Bích Ngọc và Bùi Quốc Lập, 2018. Một số vấn đề về quản lý 
môi trường nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thủy lợi 
và Môi trường. 61:30-36. ISSN: 1859-3941. 
[11]. Lê Thị Phương Quỳnh, Nghiêm Xuân Anh, Lưu Thị Nguyệt Minh, Dương 
Thị Thủy, Đặng Đình Kim, 2008. Hàm lượng các chất dinh dưỡng (nitơ và photpho) 
trong nước thải canh tác nông nghiệp trong lưu vực sông Đáy - Nhuệ. Tạp chí Khoa 
học và Công nghệ. Tập 46(6A), Tr 54 - 61. 
[12]. Phùng Thị Xuân Bình, Lê Thị Phương Quỳnh, 2017. Hàm lượng silic hòa 
tan trong nước thải canh tác nông nghiệp trong lưu vực sông Hồng. Tạp chí Công 
Thương. 13:346-350. 
[13]. Nguyễn Minh Đông, Võ Thị Gương, Châu Minh Khôi, 2009. Chất lượng 
chất hữu cơ và khả năng cung cấp đạm của đất thâm canh lúa ba vụ và luân canh 
lúa màu. Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Cần Thơ. 11:262-269 
[14]. Rashed MN, 2013. Adsorption Technique for the Removal of Organic 
Pollutants from Water and Wastewater. Organic Pollutants, M. Nageeb Rashed, 
IntechOpen, DOI: 10.5772/54048. 
[15]. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2014. Báo cáo môi trường Quốc gia 2014 - 
Môi trường nông thôn. NXB Tài nguyên - Môi trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội. 
[16]. Bennet EM, Carpenter SR, Caraco NF., 2001. Human impact on erodable 
phosphorus and eutrophication: A global perspective. BioScience. 51(3):227–234. 
[17]. Gong Y, Yu Z, Yao Q, Chen H, Mi T, Tan J., 2015. Seasonal variation and 
sources of dissolved nutrients in the Yellow River, China. Int J Environ Res Public 
Health. 12(8): 9603–9622. 
[18]. Nairobi MH., 1978. Water pollution and cultivated lands. J. Agri. Sci., 33: 
390-395. 
AUTHORS INFORMATION 
Le Nhu Da1 , Le Thi Phuong Quynh1, Pham Thi Mai Huong2 
1Institute of Natural Products Chemistry, Vietnam Academy of Science and 
Technology 
2Hanoi University of Industry

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_chat_luong_nuoc_thai_canh_tac_nong_nghiep_khu_vuc_h.pdf