Đánh giá chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư vú sau phẫu thuật

Mục tiêu: Đánh giá chất lượng cuộc sống người bệnh ung thư vú sau phẫu thuật.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến hành trên 60 người bệnhung thư

vúsau phẫu thuật được điều trị tại Trung tâm Ung bướu Thái Nguyên từ 1/2019 đến 6/2019.

Kết quả: Tuổi trung bình của bệnh nhân là 47,6 tuổi (30-75 tuổi). Người bệnh ung thư vú sau phẫu thuật

trong khoảng 30-39 tuổi có điểm số chất lượng cuộc sống thấp ở các mặt thể chất, xã hội, và cảm xúc khi

so sánh với nhóm người bệnh lớn tuổi hơn trong độ tuổi 70-79 tuổi.

Kết luận: Tuổi, trình độ giáo dục là những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống người bệnh

ung thư vú đã phẫu thuật. Chất lượng cuộc sống người bệnh trong độ tuổi 30-39 thấp hơn chất lượng cuộc

sống người bệnh 70-79 về các mặt thể chất, xã hội và cảm xúc.

pdf 6 trang phuongnguyen 500
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư vú sau phẫu thuật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư vú sau phẫu thuật

Đánh giá chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư vú sau phẫu thuật
Bệnh viện Trung ương Huế 
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 60/2020 67
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG 
BỆNH NHÂN UNG THƯ VÚ SAU PHẪU THUẬT
Nguyễn Đức Thành1, Ngô Thị Tính1,
Trần Bảo Ngọc2, Nguyễn Phương Minh3
DOI: 10.38103/jcmhch.2020.60.10
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá chất lượng cuộc sống người bệnh ung thư vú sau phẫu thuật.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến hành trên 60 người bệnhung thư 
vúsau phẫu thuật được điều trị tại Trung tâm Ung bướu Thái Nguyên từ 1/2019 đến 6/2019.
Kết quả: Tuổi trung bình của bệnh nhân là 47,6 tuổi (30-75 tuổi). Người bệnh ung thư vú sau phẫu thuật 
trong khoảng 30-39 tuổi có điểm số chất lượng cuộc sống thấp ở các mặt thể chất, xã hội, và cảm xúc khi 
so sánh với nhóm người bệnh lớn tuổi hơn trong độ tuổi 70-79 tuổi. 
Kết luận: Tuổi, trình độ giáo dục là những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống người bệnh 
ung thư vú đã phẫu thuật. Chất lượng cuộc sống người bệnh trong độ tuổi 30-39 thấp hơn chất lượng cuộc 
sống người bệnh 70-79 về các mặt thể chất, xã hội và cảm xúc.
Từ khóa: Ung thư vú, Chất lượng cuộc sống, yếu tố xã hội
ABSTRACT
EVALUATION QUALITY OF LIFE BREAST CANCER PATIENTS POST - OPERATIVE
Nguyen Duc Thanh1, Ngo Thi Tinh1, 
Tran Bao Ngoc2, Nguyen Phuong Minh3
Objective: A descriptive and cross-sectional study on quality of life breast cancer postoperative (include 
both mastectomy and Breast conserving surgery) and dertermine social factors related to quality of life 
breast cancer postoperative.
Method: We collected 60 patients of carcinoma breast cancer post modified radical mastectomy. They 
were interviewed directly through questionnaires on quality of life of EORTC QLQ C-30.
Results: The results showed that the mean age at this study was 47.6 years. Younger women in age 
group 30-39 years had faird worst on physical, social, and emotional scores as compare to older women in 
the age group of 70-79 years.
Conclusion: The mean socres quality of life of patients with breast cancer postoperative at Thai Nguyen 
Oncology Center was differencebetween younger patient (30-39) years and older paient (70-79) years. In addi-
tion, Age and education status on this study were factor which related to quality of life in Breast Cancer Patients.
Keywords: Breast cancer, Quality of life, social factor
1. Bệnh viện TW Thái Nguyên
2. Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên
3. Trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên
- Ngày nhận bài (Received): 14/01/2020; Ngày phản biện (Revised): 21/02/2020; 
- Ngày đăng bài (Accepted): 24/04/2020
- Người phản hồi (Corresponding author): Nguyễn Đức Thành
- Email: [email protected]; SĐT: 0986527484
Bệnh viện Trung ương Huế 
68 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 60/2020
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư vú (UTV) là loại ung thư thường gặp 
nhất trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Ước tính trên 
thế giới có khoảng 1,38 triệu ca UTV mới mắc mỗi 
năm và cũng là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở 
nữ trong các nước đã và đang phát triển [1],[2]. Theo 
thống kê, tỷ lệ UTV tại thành phố Hồ Chí Minh có xu 
hướng tăng dần, với xuất độ chuẩn tuổi năm 1997 là 
11,7 và năm 2003 là 19,4 [2]. Tỷ lệ tử vong do ung 
thư vú chiếm 6,3%, đứng sau các loại ung thư gan, 
phổi, dạ dày, cổ tử cung [1]. Ở Việt Nam, tỷ lệ mắc 
ung thư vú chuẩn theo tuổi năm 2000 là 17,4/100.000 
dân, đứng đầu trong các ung thư ở nữ và có xu hướng 
gia tăng những năm gần đây. Tuổi mắc bệnh trung 
bình ở các nước phát triển khoảng 60 tuổi, tuy nhiên 
ở Việt Nam thường trẻ hơn, tuổi trung bình trong các 
nghiên cứu khoảng 48-50 tuổi. Tuy ung thư vú hiếm 
gặp ở người trẻ tuổi, chỉ khoảng 7% xảy ra dưới tuổi 
40 và 2,7% dưới tuổi 35. Tuy nhiên, nó vẫn là nguyên 
nhân gây tử vong hàng đầu trong các bệnh ung thư ở 
phụ nữ trẻ tuổi [3],[4]. Bên cạnh đó, chất lượng cuộc 
sống bệnh nhân ung thư vú sau phẫu thuật chịu tác 
động không nhỏ bởi các yếu tố xã hội. Minh chứng 
cho nhận định này, rất nhiều tài liệu nghiên cứu chỉ 
ra rằng: Thể chất, xã hội, tâm lý của phụ nữ sau khi 
phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ vú (Mastectomy) hoặc phẫu 
thuật bảo tồn (Breast Cconserving Surgery) thường 
bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như tuổi, trình độ học 
vấn, tình trạng bệnh tật. Thật vậy, tuổi cũng là một 
yếu tố ảnh hưởng tới chức năng xã hội và cảm xúc 
người bệnh mắc bệnh ung thư vú. Minh chứng cho 
nhận định này, vào năm 2004 một dữ liệu nghiên cứu 
mở rộng được công bố sau khi thẩm vấn 990 bệnh 
nhân sau phẫu thuật ung thư vú cho thấy những bệnh 
nhân trẻ tuổi có chức năng xã hội và cảm xúc thấp 
hơn và mức độ lo lắng cao hơn về tương lai của họ 
khi so sánh với nhóm người bệnh trên 50 tuổi mắc 
bệnh ung thư vú [5]. Theo nghiên cứu của rất nhiều 
tác giả nước ngoài, tuổi trẻ là yếu tố tiên lượng không 
thuận lợi, đặc biệt là nhóm phụ nữ dưới 35 tuổi được 
xếp vào nhóm phụ nữ “rất trẻ” có chất lượng cuộc 
sống trong tất cả các mặt và tỉ lệ sống thêm thấp nhất. 
Minh chứng thêm cho giả thiết này, nghiên cứu được 
thực hiện vào năm 2000 đã xác nhận sự khác biệt 
về chất lượng cuộc sống sau khi điều trị phẫu thuật 
ung thư vú tùy thuộc vào độ tuổi, trình độ học vấn và 
tình trạng hôn nhân [6]. Chất lượng cuộc sống của 
những phụ nữ trẻ, độc thân, trình độ học vấn thấp 
còn kém hơn so với những phụ nữ tuổi trung niên, 
đã có gia đình và trình độ học vấn cao hơn [7]. Đối 
với phụ nữ đã kết hôn, đặc biệt là ở độ tuổi trẻ, phẫu 
thuật cắt bỏ vú ảnh hưởng đến hình ảnh cơ thể là 
tiêu cực hơn. Tuy vậy, sự hỗ trợ của gia đình, xã hội 
đặc biệt là của người chồng sẽ giúp các phụ nữ ung 
thư vú có tâm lý tốt hơn sau khi trải qua phẫu thuật 
[8],[9]. Đánh giá những yếu tố xã hội tác động vào 
chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư vú sau phẫu 
thật sẽ giúp điều dưỡng có cái nhìn khái quát và chăm 
sóc toàn diện hơn đối với nhóm bệnh nhân này. Do 
đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu: 
Đánh giá chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư vú 
sau phẫu thuật. 
II. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Toàn bộ các bệnh 
nhân ung thư. Bệnh nhân ung thư vú sau mổ đến 
khám tại phòng khám ung bướu, khoa khám bệnh- 
Trung tâm Ung bướu, Bệnh viện Trung ương Thái 
Nguyên từ tháng 01/2019 đến tháng 06/2019.
* Tiêu chuẩn chọn mẫu
- BN đã được chẩn đoán ung thư vú bằng giải 
phẫu bệnh.
- BN đồng ý tham gia phỏng vấn và đủ khả năng 
nghe nói hiểu tiếng Việt, không mắc bệnh tâm thần.
- Bệnh nhân ung thư vú sau phẫu thuật cắt bỏ 
hoàn toàn và một phần vú
* Tiêu chuẩn loại trừ
- Loại trừ các trường hợp mắc hai ung thư.
- Bệnh nhân hóa trị và xạ trị phối hợp, bệnh nhân 
từ chối tham gia nghiên cứu.
- Tiền sử đã điều trị bệnh ung thư.
Đánh giá chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư vú...
Bệnh viện Trung ương Huế 
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 60/2020 69
- Những bệnh nhân quá yếu, không đủ khả năng 
hoàn thành bảng câu hỏi phỏng vấn.
- Những bệnh nhân không hợp tác, từ chối trả lời.
2.2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt 
ngang mô tả, Cỡ mẫu: Có chủ đích, chọn toàn bộ 
BN đủ tiêu chuẩn trong thời gian nghiên cứu.
2.3. Cách thu thập số liệu: Thực hiện phỏng 
vấn trực tiếp các bệnh nhân ngoại trú sau phẫu thuật 
vú từ ngay sau khi bệnh nhân tới tái khám lần đầu 
tiên tại phòng khám ung bướu ngoại trú khoa Khám 
bệnh - Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên. 
* Công cụ: Bảng câu hỏi về chất lượng cuộc 
sống của tổ chức nghiên cứu và điều trị Ung thư 
châu Âu (QLQ C-30 ofEORTC) version 3. Đây là 
bảng câu hỏi chung cho tất cả các loại ung thư gồm 
30 câu: chức năng thể chất (câu 1-5); chức năng 
hoạt động (câu 6, 7); chức năng cảm xúc (câu 21-
24); chức năng nhận thức (câu 20, 25); chức năng 
xã hội (câu 26, 27); sức khỏe tổng quát (câu 29, 
30) và 13 câu về các triệu chứng đơn, sau đó được 
quy đổi ra thang điểm 100, các điểm chức năng 
và sức khỏe tổng quát càng cao càng tốt và ngược 
lại với các triệu chứng đơn, cụ thể như sau: Điểm 
thô: RawScore (RS) = (Q1 +Q2 ++Qn)/n, Điểm 
chuẩn hóa: điểm thô được tính trên tỷ lệ 100 (theo 
công thức):
+ Điểm lĩnh vực chức năng = {1-(RS -1)/3}x100
+ Điểm lĩnh vực triệu chứng = {(RS -1)/3}x100
+ Điểm sức khỏe tổng quát = {(RS -1)/6}x100
* Đạo đức nghiên cứu
Đề cương nghiên cứu đã được thông qua 
Hội đồng đạo đức Bệnh viện Trung ương Thái 
Nguyên và được phê duyệt thông qua quyết định 
của Bệnh viện.
Đối tượng nghiên cứu được giải thích kỹ lưỡng 
và chỉ thực hiện khi có sự đồng thuận. Người nghiên 
cứu chỉ sử dụng các số liệu phục vụ cho mục đích 
nghiên cứu.
2.4. Xử lý số liệu
Nhập dữ liệu và xử lý theo phần mềm SPSS 
16.0, trong đó có sử dụng các thuật toán phù hợp để 
phân tích, so sánh (Anova, T-test).
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu
Đặc điểm n %
Tuổi trung bình 47,6
Nhóm tuổi 30-39 14 23,3
Nhóm tuổi 40-49 28 46,6
Nhóm tuổi 50-59 9 15
Nhóm tuổi 60-69 7 11,6
Nhóm tuổi 70-79 2 3,5
Dựa vào bảng 1 ta nhận thấy độ tuổi trung bình 
nhóm bệnh nhân ung thư vú nghiên cứu là 47,6. Nhóm 
tuổi từ 40-49 tuổi là cao nhất 28 (46,6%). Nhóm tuổi 
từ 70-79 là thấp nhất có 2 chiếm tỉ lệ 3,5%. 
Bảng 2: Đặc điểm nghề nghiệp bệnh nhân 
nghiên cứu
Đặc điểm n %
Đã đi làm
42
70
Đã nghỉ hưu 16 26,7
Chưa có việc làm 2 3,3
 Dựa vào bảng 2 ta nhận thấy người bệnh ung thư 
vú trong nghiên cứu có 42 (70%) đang đi làm, có 16 
người chiếm tỉ lệ 26,7% đã nghỉ hưu chỉ có 2 người 
bệnh (2%) chưa có việc làm. 
Bảng 3: Đặc điểm trình độ văn hóa người bệnh
Đặc điểm n %
Trình độ từ trung cấp trở lên 38 63
Trình độ hết cấp 3 22 37
Dựa vào bảng 3 ta nhận thấy trong 60 bệnh nhân 
sau phẫu thuật ung thư vú có 38 (63%) có trình độ 
từ trung cấp trở lên, 22 (37%) có trình độ hết cấp 3.
Bệnh viện Trung ương Huế 
70 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 60/2020
Bảng 4: Đánh giá chất lượng cuộc sống bệnh nhân dựa vào bộ câu hỏi EORTC-C30
Tuổi
30-39 40-49 50-59 60-69 70-79 p
Các mặt chức năng
Chất lượng cuộc 
sống tổng thể
57,44±18,59 58,80±25,30 63,51±18,37 65,74±13,38 66,66±8,33 0,8792
Thể chất 88±0 89,28±7,41 90,95±8,20 91,43±7,73 91,85±8,76 0,0003
Hoạt động 75,84±8,33 75±12,13 82,74±13,53 84,52±7,62 85,18±9,44 0,1298
Cảm xúc 66,67±11,36 69,94±12,76 71,43±9,82 73,21±8,44 75±0 0,6898
Nhận thức 87,03±6,93 89,23±7,98 90,47±8,25 91,66±8,33 94,04±7,98 0,5796
Xã hội 73,21±15,65 76,19±8,24 83,33±0 83,33±11,11 91,67±13,73 0,0313
Các triệu chứng đơn và mục khác
Mệt mỏi 13,49±15,81 11,7±19,88 16,05±14,92 26,98±17,67 27,77±7,77 0,0628
Nôn và buồn nôn 3,57 0,59±3,09 0±0 0±0 0±0 0,1386
Đau 21,43±9,81 12,5±10,56 20,37±10,47 16,67±12,6 25±8,33 0.0628
Khó thở 4,76±11,66 1,19±6,18 0±0 19,04±16,49 16,66±16,66 0,0002
Mất ngủ 9,52±15,06 9,53±15,06 33,33±96,07 33,33±76,07 33,33±0 0,5091
Mất cảm giác 
ngon miệng
7,14±13,68 4,16±11,66 3,7±10,47 4,76±11,66 0±0 0,9053
Táo bón 2,38±58 4,76±11,6 0±0 0±0 0±0 0,5648
Tiêu chảy
Tác động tài 
chính
57,14±23,33 48,81±0,86 29,63±10,47 42,85±23,33 16,66±16,66 0,0105
Dựa vào bảng 4 ta thấy bệnh nhân ung thư vú trẻ 
tuổi (30-39) tuổi có điểm số chất lượng cuộc sống 
xấu hơn so sánh với nhóm bệnh nhân ung thư vú 
trung niên và cao tuổi trong tất cả các lĩnh vực phản 
ánh chất lượng cuộc sống là thể chất, hoạt động, nhận 
thức, cảm xúc và xã hội. Điểm trung bình chất lượng 
cuộc sống bệnh nhân ung thư vú trẻ tuổi (30-39) tuổi 
là 57,44 (SD=18,59) thấp hơn nhóm bệnh nhân 70-
79 tuổi có điểm số chất lượng cuộc sống là 66,66 
(SD=8,33). Khi so sánh điểm số trung bình các triệu 
chứng đơn (tác động tài chính) ta nhận thấy điểm số 
trung bình các triệu chứng đơn ở nhóm người bệnh 
dưới 50 tuổi là cao hơn nhóm người bệnh trên 50 tuổi.
Điểm trung bình mức độ khó thở của nhóm người 
bệnh dưới 50 tuổi sau phẫu thuật vú là thấp hơn nhóm 
trên 50 tuổi có ý nghĩa thống kê (p <0,0002).
Đánh giá chất lượng cuộc sống bệnh hân ung thư vú...
Bệnh viện Trung ương Huế 
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 60/2020 71
Bảng 5: Trình độ học vấn khác nhau, chất lượng cuộc sống khác nhau
Trình độ học vấn
p
Từ trung cấp Học hết cấp 3
Các mặt chức năng
Chất lượng cuộc sống tổng thể 50,52±15,44 63,33±16,27 0,0036
Thể chất 91,67±7,26 90,27±8,57 0,5033
Hoạt động 84,37±7,14 84,23±11,6 0,9540
Cảm xúc 72,4±8,18 68,92±12,8 0,2035
Nhận thức 92,71±8,27 90,98±8,31 0,4389
Xã hội 81,25±18,52 81,08±12,35 0,9696
Các triệu chứng đơn và mục khác
Mệt mỏi 6,94±12,95 13,21±17,1 0,1141
Nôn và buồn nôn 2,08±5,51 0,9±3,77 0,3773
Đau 16,67±10,2 16,22±11,29 0,8747
Khó thở 2,08±8,06 3,6±10,35 0,5289
Mất ngủ 6,25±13,1 18,01±16,61 0,0036
Mất cảm giác ngon miệng 0±0 4,5±11,39 0,01736
Táo bón 6,25±13,1 3,6±10,35 0,4199
Tiêu chảy
Tác động tài chính 56,25±19,43 46,85±22,54 0,0940
Dựa vào bảng 5 ta nhận thấy có sự khác nhau có 
ý nghĩa thống kê về chất lượng cuộc sống tổng thể 
giữa hai nhóm người bệnh có trình độ từ trung cấp 
trở lên (50,52±15,44) và nhóm người bệnh có trình 
độ học hết cấp 3 (63,33±16,27), (p<0,05).
IV. BÀN LUẬN 
Cũng tương tự như các công bố trong nước khác 
[6], [7], kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy độ tuổi 
trung bình người bệnh mắc bệnh ung thư vú là 47,6 
tuổi. Nhóm tuổi có nguy cơ mắc bệnh nhiều nhất là 
nhóm bệnh nhân 40-49 tuổi chiếm tỉ lệ 46,6%, và 
thấp nhất là nhóm tuổi 70-79 chiếm tỉ lệ 3,5%. 
Đa phần người bệnh mắc bệnh đang trong độ 
tuổi lao động chiếm tỉ lệ 70% so với quần thể nghiên 
cứu. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với các kết 
quả nghiên cứu khác người bệnh mắc bệnh trong độ 
tuổi lao động tác động không nhỏ đến đời sống tinh 
thần và vật chất của người bệnh.
Cũng tương tự như các công bố khác trong 
nghiên cứu này người bệnh trẻ tuổi mắc bệnh ung 
thư vú (30-39 tuổi) là có chất lượng cuộc sống thấp 
hơn so với nhóm người bệnh lớn tuổi trong tất cả 
các lĩnh vực của chất lượng cuộc sống như thể chất 
(p< 0,003), xã hội (p< 0,0313) cũng như lạc quan 
trong tương lai (p<0,029). Điều này chỉ ra rằng 
Bệnh viện Trung ương Huế 
72 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 60/2020
nhóm người bệnh trẻ tuổi hơn cảm thấy nhiều lo 
lắng hơn khi điều trị, đặc biệt lo lắng về tương lai và 
công việc. Nghiên cứu được thực hiện bởi Cimprich 
và Roins tìm ra rằng người bệnh mắc bệnh ung thư 
vú ở nhóm tuổi nhỏ hơn 65 tuổi có chất lượng cuộc 
sống giảm ở hoạt động thể chất trong khi người 
bệnh mắc bệnh ung thư vú nhóm tuổi trẻ (27-44) có 
chất lượng cuộc sống về mặt xã hội thấp hơn nhóm 
khác phù hợp kết quả nghiên cứu này. Khi đánh giá 
điểm số trung bình của các triệu chứng đơn ta nhận 
thấy rằng điểm số trung bình triệu chứng khó thở 
nhóm người bệnh ung thư vú 30-39 tuổi, và 40-49 
tuổi thấp hơn nhiều so với nhóm người bệnh sau 
phẫu thuật vú trên 50 tuổi (p < 0,002).
Người bệnh có trình độ học vấn cao hơn có 
điểm trung bình chất lượng cuộc sống cao hơn, 
thật vậy dựa vào bảng ta thấy chất lượng cuộc 
sống tổng thể của nhóm bệnh nhân có trình độ 
trung cấp trở lên cao hơn nhóm bệnh nhân học 
hết cấp 3 và sự khác nhau này có ý nghĩa thống 
kê với (p<0,0036). 
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu này giải thích mạnh mẽ mối liên hệ 
giữa tuổi, trình độ học vấn và chất lượng cuộc sống 
bệnh nhân ung thư vú. Một vài nghiên cứu khác chỉ 
ra rằng yếu tố tâm lý và sự hỗ trợ tài chính sẽ cải 
thiện và nâng cao được chất lượng cuộc sống người 
bệnh mắc bệnh ung thư vú. Những nghiên cứu tiếp 
theo cần làm rõ tác động của những triệu chứng đơn 
vào chất lượng cuộc sống người bệnh ung thư vú 
với cỡ mẫu rộng hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Bá Đức, Bùi Diệu, Trần Văn Thuấn 
và cs (2010), “ Tình hình mắc ung thư tại Việt 
Nam năm 2010 qua số liệu của 6 vùng ghi nhận 
giai đoạn 2004-2008”, Tạp chí Ung thư học Việt 
Nam, số 1, tr 73-80.
2. Agarwal G, Pradeep PV, Aggarwal V, Yip CH, 
Cheung PS. Spectrum of breast cancer in Asian 
women. World J Surg. 2007;31:1031–40. 
3. Turner J, Wooding S, Cameron N. Psychosocial 
impact of breast cancer: a summary of the 
literature 1986–1996. NHMRC National Breast 
Cancer Centre 1998.
4. Nguyễn Thị Huyền, Nguyễn Thị Hòa, Lê Thị 
Vân và cs (2018), “ Đánh giá kết quả sống thêm 
sau 7 năm ở bệnh nhân ung thư vú dưới 35 tuổi 
tại Bệnh viện K”, Tạp chí Ung thư Việt Nam, số 
4, tra 07-408. 
5. Quality of life following breast-conserving 
therapy or mastecomy: The result was better 
or mastectomy: results of a 5-year prospective 
study. Breast J. 2004 May-Jun; 10(3): 223–31.
6. Wenzel LB, Fairclouch D, Brady M, Cella D, 
Garrett K, Kluhsman B, Marcus A. Age related 
differences in the quality of life of breast cancer 
patients after treatment. Cancer 1999; 86: 
1768–74
7. Leinert E, Singer S, Janni W, Harbeck N, 
Weissenbacher T, Rack B, Augustin D, Wischnik 
A, Kiechle M, Ettl J, Fink V, Schwentner L, 
Eichler M.The Impact of Age on Quality of Life 
in Breast Cancer Patients Receiving Adjuvant 
Chemotherapy: A Comparative Analysis From 
the Prospective Multicenter Randomized 
ADEBAR trial. 2017.
Đánh giá chất lượng cuộc sống bệnh nhân ung thư vú...

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_chat_luong_cuoc_song_benh_nhan_ung_thu_vu_sau_phau.pdf