Đánh giá chặng đường hội nhập thị trường tài chính Việt Nam-Những nút thắt cần tháo gỡ
Hội nhập tài chính là xu hướng đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu
và thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia. Từ sau khi mở cửa, Việt
Nam ngày càng tích cực tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế
nói chung và quá trình hội nhập tài chính nói riêng. Thị trường tài
chính Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Các cam kết trong
các hiệp định song phương, đa phương, khu vực được thực hiện theo
đúng lộ trình trên từng phân khúc thị trường gồm thị trường tiền
tệ-ngân hàng, thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm. Quá
trình hội nhập thị trường tài chính đã mang lại nhiều thay đổi tích
cực cho thị trường tài chính Việt Nam nhưng cũng đặt ra không ít các
vấn đề và thách thức. Để đánh giá quá trình hội nhập thị trường tài
chính Việt Nam, bài viết tập trung 3 phần: (1) Tổng quan khuôn khổ
chung về hội nhập thị trường tài chính mà Việt Nam tham gia; (2)
Tổng quan tiến trình thực hiện cam kết hội nhập tài chính của Việt
Nam, qua đó chỉ ra những thay đổi cơ bản của thị trường tài chính
Việt Nam; (3) Những nút thắt cần tháo gỡ trong bối cảnh hội nhập
của thị trường tài chính Việt Nam.
Từ khoá: hội nhập thị trường tài chính, WTO, Asean, FTA
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá chặng đường hội nhập thị trường tài chính Việt Nam-Những nút thắt cần tháo gỡ
35 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 198- Tháng 11. 2018 Đánh giá chặng đường hội nhập thị trường tài chính Việt Nam- những nút thắt cần tháo gỡ CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ Trần Thị Xuân Anh Trần Thị Thu Hương Ngày nhận: 09/07/2018 Ngày nhận bản sửa: 12/11/2018 Ngày duyệt đăng: 12/11/2018 Hội nhập tài chính là xu hướng đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu và thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia. Từ sau khi mở cửa, Việt Nam ngày càng tích cực tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế nói chung và quá trình hội nhập tài chính nói riêng. Thị trường tài chính Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Các cam kết trong các hiệp định song phương, đa phương, khu vực được thực hiện theo đúng lộ trình trên từng phân khúc thị trường gồm thị trường tiền tệ-ngân hàng, thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm. Quá trình hội nhập thị trường tài chính đã mang lại nhiều thay đổi tích cực cho thị trường tài chính Việt Nam nhưng cũng đặt ra không ít các vấn đề và thách thức. Để đánh giá quá trình hội nhập thị trường tài chính Việt Nam, bài viết tập trung 3 phần: (1) Tổng quan khuôn khổ chung về hội nhập thị trường tài chính mà Việt Nam tham gia; (2) Tổng quan tiến trình thực hiện cam kết hội nhập tài chính của Việt Nam, qua đó chỉ ra những thay đổi cơ bản của thị trường tài chính Việt Nam; (3) Những nút thắt cần tháo gỡ trong bối cảnh hội nhập của thị trường tài chính Việt Nam. Từ khoá: hội nhập thị trường tài chính, WTO, Asean, FTA hiến lược về tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 40/TTg ngày 07/01/2016. Điều này cho thấy cùng với xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế của thế giới và khu vực, Việt Nam đã không ngừng chủ động thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và khu vực tài chính cũng như thị trường tài chính (TTTC) nói riêng, hướng tới tiếp thu những nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế của nền kinh tế và thị trường toàn cầu, giúp gắn kết nền kinh tế, thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới. Đánh giá tổng quan về hội nhập TTTC Việt Nam trong thời gian qua có thể nhìn nhận dưới các khía cạnh sau: CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 36 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 198- Tháng 11. 2018 1. Khuôn khổ chung hội nhập thị trường tài chính Hội nhập TTTC Việt Nam không chỉ diễn ra trong phạm vi khu vực mà cả quốc tế thông qua việc thiết lập các mối quan hệ hợp tác song phương và tham gia vào các thể chế đa phương. Tuy nhiên, cũng giống như đặc thù của các nước đang phát triển, quá trình hội nhập TTTC Việt Nam diễn ra mạnh mẽ trong phạm vi khu vực, cụ thể là trong khuôn khổ các nước ASEAN, APEC, ASEM (1) Trong khuôn khổ WTO Ngày 01/11/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO và bắt đầu quá trình hội nhập sâu rộng và toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới cũng như vào hệ thống thương mại đa phương thông qua việc thực thi các cam kết gia nhập và tuân thủ các quy định chung trong WTO. Việc mở cửa thị trường tài chính trong hội nhập WTO được thực hiện theo 3 phương thức: (1) Cung ứng qua biên giới; (2) Tiêu dùng ngoài lãnh thổ và (3) Hiện diện thương mại. Theo đó, các công ty bảo hiểm, chứng khoán và ngân hàng nước ngoài được mở văn phòng đại diện, liên doanh từ năm 2007. Về mở cửa thị trường dịch vụ, Việt Nam cam kết đủ 11 ngành dịch vụ theo phân loại trong WTO, với khoảng 110 phân ngành (Biểu cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực thương mại dịch vụ). Các cam kết trong lĩnh vực dịch vụ tài chính được cụ thể hoá theo từng phân ngành như: bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán với hai trọng tâm chính là các dịch vụ được cung cấp, hình thức hiện diện thương mại của phía nước ngoài tại Việt Nam. (2) Trong khuôn khổ ASEAN Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ 01/01/1996. Đây được coi là một bước đột phá về hành động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tiếp đó, năm 2015 Việt Nam tham gia quá trình hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC)- đây là cam kết hội nhập kinh tế khu vực sâu rộng nhất hiện nay trong lĩnh vực thị trường tài chính Việt Nam. Trong khuôn khổ hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN, tự do hóa thị trường tài chính trong AEC được chia thành các giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2020, trong đó giai đoạn 2008- 2015 được coi là giai đoạn tiền đề và quan trọng nhất, nhằm đảm bảo các nước thành viên có được sự chuẩn bị tốt nhất (Tài liệu về cộng đồng kinh tế Asean AEC). Theo lộ trình đã cam kết, Việt Nam và các nước trong khu vực sẽ phải mở cửa, xóa bỏ các hạn chế trong các ngành ngân hàng, bảo hiểm và các thị trường vốn nhằm hướng tới: tự do hóa dịch vụ tài chính, tự do hóa tài khoản vốn, phát triển và hội nhập các thị trường vốn và phát triển các hệ thống thanh quyết toán. Về dịch vụ tài chính: Tự do hóa dịch vụ tài chính liên quan đến việc gỡ bỏ dần những giới hạn đối với ngân hàng, công ty bảo hiểm và dịch vụ đầu tư tài chính. Theo AEC, tự do hóa về dịch vụ tài chính và dòng vốn phụ thuộc vào tình hình, sự sẵn sàng của từng thành viên và kéo dài đến năm 2020. Khi đó, dịch vụ tài chính sẽ được tự do hóa hoàn toàn trong các nước ASEAN, nghĩa là tự do hóa cả 4 phương thức bao gồm: Cung cấp dịch vụ qua biên giới (phương thức 1); tiêu dùng ngoài lãnh thổ (phương thức 2); hiện diện thương mại (phương thức 3); hiện diện thể nhân (phương thức 4) (Tài liệu về cộng đồng kinh tế Asean AEC). Đối với tự do hóa tài khoản vốn: Do có sự khác biệt về trình độ phát triển giữa các nước ASEAN trong lĩnh vực tài chính, mức độ mở cửa tài khoản vốn cũng như những bất ổn mà nền kinh tế có thể gặp phải khi tự do hóa tài khoản vốn, AEC đã hướng dẫn tự do hóa tài khoản vốn cần tuân theo các nguyên tắc: (1) Đảm bảo quá trình tự do hóa tài khoản vốn một cách trình tự, thống nhất với lộ trình của từng quốc gia cũng như sự sẵn sàng của nền kinh tế; (2) cho phép sự bảo vệ đầy đủ trước các bất ổn kinh tế vĩ mô tiềm tàng và những rủi ro hệ thống có thể xuất hiện trong quá trình tự do hóa; (3) CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 37Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 198- Tháng 11. 2018 đảm bảo lợi ích từ tự do hóa tài khoản vốn được chia sẻ bởi tất cả các nước ASEAN. Đối với hội nhập và phát triển thị trường vốn: Chương trình chiến lược (Strategic Schedule) trong AEC, phần liên quan đến hội nhập và phát triển thị trường vốn, nhằm đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc xây dựng một thị trường hội nhập khu vực, nơi mà trong đó: (1) Vốn có thể tự do luân chuyển; (2) các nhà phát hành có thể tự do huy động vốn ở bất cứ nơi đâu; và (3) các nhà đầu tư có thể đầu tư mọi nơi. Theo lộ trình, đến 2015, các nước ASEAN sẽ tự do hóa dòng chảy của vốn đầu tư gián tiếp; tự do hóa dịch vụ môi giới và các sản phẩm tài chính; hài hòa hóa tiêu chuẩn thị trường vốn tại ASEAN đối với các lĩnh vực có quy định về chứng khoán nợ và yêu cầu minh bạch công bố thông tin (Tài liệu về cộng đồng kinh tế Asean AEC). Để xây dựng và phát triển thị trường vốn chung, các nền kinh tế AEC tập trung tự do hóa các dịch vụ tài chính, hài hòa hóa các tiêu chuẩn về thị trường vốn trong khu vực, công nhận lẫn nhau về bằng cấp, đào tạo và kinh nghiệm của các chuyên gia thị trường Cam kết dịch vụ tài chính của Việt Nam trong ASEAN được xây dựng trên cơ sở nền cam kết chung của Việt Nam trong WTO và các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết, trừ một số nội dung được cam kết ở mức cao và mở rộng hơn, với phạm vi rộng hơn, tiếp cận mở cửa thị trường đòi hỏi cao hơn. Ngoài ra, trong khuôn khổ ASEAN, Việt Nam cùng với các nước ASEAN đã ký kết Nghị định thư thực hiện Gói cam kết thứ 7 về dịch vụ tài chính ASEAN vào ngày 23/6/2016 (Vũ Nhữ Thăng và Nguyễn Thị Thu Hiền, 2018). Ngày 06/02/2017, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 06/NQ-CP phê duyệt Nghị định thư, tạo một bước tiến quan trọng hướng tới mục tiêu tự do hóa dịch vụ tài chính mà Lãnh đạo các nước thành viên đã thông qua tại Tuyên bố chung Bali II. Việt Nam tham gia vào kênh hợp tác thường niên Diễn đàn bảo hiểm ASEAN (AIRM). Khung khổ Hội nhập Bảo hiểm ASEAN hướng dẫn các bước tự do hóa trong hoạt động bảo hiểm, giúp nâng cao tính cạnh tranh của thị trường và mở rộng phạm vi lựa chọn cho người tiêu dùng, tăng cường khả năng thâm nhập thị trường của lĩnh vực bảo hiểm thảm họa tự nhiên sẽ giúp nâng cao năng lực phục hồi các nền kinh tế ASEAN (3) Trong khuôn khổ ASEAN +3 Cơ chế hợp tác giữa ASEAN với ba đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản hình thành từ năm 1997 và chính thức đi vào hoạt động từ năm 1999, với mục tiêu dài hạn là xây dựng Cộng đồng Đông Á, trong đó ASEAN đóng vai trò trung tâm. Về thực chất, các cơ chế hợp tác thông qua các Hiệp định trong khu vực ASEAN+3 chủ yếu tiến tới chính thức hóa và thúc đẩy các quan hệ hợp tác kinh tế của các nước trong khu vực. Trong bối cảnh đó, ASEAN với vai trò trung tâm ký kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA) với 3 nước đối tác Đông Á gồm FTA giữa ASEAN và Trung Quốc, FTA ASEAN- Hàn Quốc, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN- Nhật Bản. Các nước Đông Á cũng ký kết với nhau các hiệp định song phương nhằm mở ra một thị trường lớn và thúc đẩy quá trình hội nhập thương mại, đầu tư giữa các nước Đông Á. Trong lĩnh vực tài chính và tiền tệ, ASEAN+3 đạt được nhiều tiến triển ổn định và tập trung vào thực hiện Đa phương hóa Sáng kiến Chiềng Mai (CMIM) và Sáng kiến thị trường trái phiếu Châu Á (ABMI). Sáng kiến Phát triển thị trường trái phiếu châu Á (ABMI) được khởi xướng từ năm 2003 với mục tiêu hoạt động là thúc đẩy các thị trường trái phiếu trong nước phát triển và hướng tới một thị trường trái phiếu khu vực dễ tiếp cận hơn cho cả nhà phát hành và nhà đầu tư. Hiện Giai đoạn 8 của hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam trong lĩnh vực trái phiếu đang được triển khai, bao gồm các nội dung tăng cường hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về Quỹ hưu trí tự nguyện, thị trường trái phiếu phái sinh và nghiệp vụ mua lại trái phiếu...(Vũ Nhữ Thăng và Nguyễn Thị Thu Hiền, 2018) Ngoài ra, với mục đích tăng cường hợp tác và hỗ trợ trong CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 38 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 198- Tháng 11. 2018 khu vực để ngăn chặn và đối phó với các cuộc khủng hoảng trong tương lai, tại Hội nghị Bộ trưởng tài chính ASEAN+3 diễn ra vào tháng 5/2000 tại Chiềng Mai, các Bộ trưởng Tài chính ASEAN+3 đã đưa ra “Sáng kiến Chiềng Mai” gồm hai nội dung chính: Thứ nhất, mở rộng Thoả thuận Hoán đổi ASEAN (ASA) cho 10 nước thành viên ASEAN tham gia. Thoả thuận đã được các nước ký vào tháng 11/2000 và tổng trị giá của Thoả thuận là 1 tỷ USD, trong đó mức cam kết tham gia của Việt Nam là 60 triệu USD và mức vay tối đa của Việt Nam trong khuôn khổ Thoả thuận Hoán đổi ASEAN là 120 triệu USD. Thứ hai, thiết lập một mạng lưới các Thoả thuận Hoán đổi Song phương (BSA) và Thoả thuận mua lại (Repo) giữa các nước ASEAN và ba nước đối tác Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc. Mục đích của BSA là để cung cấp vốn ngắn hạn dưới hình thức hoán đổi tiền tệ cho các nước tham gia khi gặp phải khó khăn về cán cân thanh toán hoặc về khả năng thanh toán trong thời gian ngắn hạn. Hệ thống trao đổi tiền tệ mà các nước ASEAN+3 đang áp dụng là hệ thống mang tính song phương giúp các nước đối phó với các hoạt động đầu cơ cũng như các nguy cơ đối với đồng tiền của từng nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập càng sâu rộng với những nguy cơ và thách thức mới, vào năm 2006, Đa phương hoá Sáng kiến Chiềng Mai (CMIM) đã được đề xuất nhằm hỗ trợ các nước gặp khó khăn về thanh khoản ngắn hạn, đặc biệt khi có khủng hoảng xảy ra, từng nước và cả khu vực sẽ cần một lượng vốn rất lớn kèm theo sự phối hợp chung về chính sách. 13 nước đóng góp vào một thoả thuận hỗ trợ đa phương với tên gọi là Thoả thuận dự trữ tự quản. Theo đó các nước cam kết đóng góp từ nguồn dự trữ ngoại hối để sử dụng cho vay các nước thành viên gặp phải thiếu hụt thanh khoản tạm thời. 13 nước cũng lên kế hoạch phát triển mạng lưới hối đoái song phương thành một hệ thống đa phương, nhằm ngăn chặn tình trạng lan rộng ra cả khu vực của một cuộc khủng hoảng tài chính ở một nước trong tương lai. Hiện tại, Việt Nam đang tham gia Sáng kiến, tiến hành thử nghiệm vận hành CMIM với giả định xảy ra khủng hoảng và hoàn tất bộ chỉ số đánh giá kinh tế vĩ mô để phục vụ quá trình ra quyết định cho vay (4) Trong khuôn khổ APEC Ngày 15/11/1998, Việt Nam đã gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC) đặt nền móng cho sự hội nhập năng động và tích cực. Chiếm tới 59% GDP và 44% thương mại toàn thế giới, với 21 nền kinh tế thành viên nằm hai bên bờ Thái Bình Dương, trong đó có các nền kinh tế đầu tầu thế giới như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, APEC là một diễn đàn hợp tác lớn, tạo động lực cho phát triển trong khu vực và toàn cầu. Với mục tiêu xây dựng một cộng đồng APEC hội nhập tài chính, minh bạch, bền vững và kết nối, Kế hoạch hành động Cebu đã được các Bộ trưởng Tài chính APEC thông qua năm 2015 nhằm định hướng dài hạn cho hợp tác tài chính APEC đến năm 2025 bao gồm bốn trụ cột: (i) Thúc đẩy hội nhập tài chính; (ii) thúc đẩy minh bạch tài khoá; (iii) cải thiện bền vững tài chính; (iv) tăng cường tài chính và phát triển cơ sở hạ tầng. Kế hoạch hành động Cebu là một kế hoạch quan trọng, bao trùm lên nhiều lĩnh vực hợp tác tài chính khu vực với định hướng hành động cụ thể hướng tới tự do hóa các dịch vụ tài chính và tự do hóa tài khoản vốn trong các nền kinh tế APEC. Cụ thể, sự ra đời của Chứng chỉ quản lý quỹ châu Á (ARFP) là một sáng kiến tự do hoá thương mại quan trọng nhằm giảm bớt các trở ngại đối với hoạt động quản lý Quỹ xuyên biên giới, qua đó cải thiện mối liên kết tài chính trong khu vực châu Á. Sáng kiến ARFP là một kết quả quan trọng của Tiến trình Bộ trưởng Tài chính APEC, là kết quả đóng góp của rất nhiều các nhà hoạch định chính sách tài chính, các nhà quản lý, các đại diện ngành công nghiệp và các chuyên gia kỹ thuật từ các nền kinh tế APEC. Theo đó, các nước tham gia vào thoả thuận này sẽ cho phép các công ty quản lý quỹ của các nước trong nhóm được cung cấp dịch vụ quản lý danh mục đầu tư trong thị trường CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 39Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân ... nh khoản của TTCK. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được, một số nút thắt hiện nay trên TTCK đang gây ra những “điểm nghẽn” trong tiến trình hội nhập TTCK Việt Nam: Một là, tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam có xu hướng tăng mạnh, song so với các nước trong khu vực con số này vẫn còn khá khiêm tốn, gần như ở mức thấp nhất so với khu vực- chỉ ở mức hơn 10% trên thị trường trái phiếu và 20% trên thị trường cổ phiếu. MSCI đã chỉ ra tiêu chí thâm nhập thị trường cho nhà đầu tư nước ngoài là trở ngại lớn nhất trong việc nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam. Các rào cản như chuẩn kế toán, minh bạch hay thanh khoản còn tồn tại dù không quá khó để thay đổi (Fiachra, 2018). Hai là, quy mô giao dịch và mức thanh khoản của thị trường chưa cao mặc dù đã có mức tăng trưởng khá tốt trong thời gian qua. Theo kết quả xét duyệt nâng hạng thị trường mới được FTSE Russell công bố ngày 26/9/2018, Việt Nam cùng với Argentina và Romania đã lọt vào watchlist để xét duyệt nâng hạng lên thị trường Mới nổi hạng 2 (Secondary Emerging). Trong 9 tiêu chí chấm điểm của FTSE, cả 3 thị trường Vietnam, Argentina và Romania cùng đạt 8 tiêu chí, khác biệt chủ yếu nằm ở tiêu chí Thanh khoản. Tổng giá trị vốn hóa TTCK Việt Nam đạt mức 188 tỷ USD trong khi Argentina đạt 53 tỷ USD, Romania chỉ đạt 22 tỷ USD. Thị trường Việt Nam được đánh giá Pass trong khi Argentina vẫn chưa đạt (Not Met) còn Romania vẫn còn hạn chế (Restricted). Đây có thể coi là một lợi thế lớn của Việt Nam so với hai thị trường còn lại nếu FTSE cần phải chọn lựa giữa các thị trường (Nguyễn Đức Hùng Linh, 2018). Như vậy, bài toán đặt ra là Việt Nam cần phải duy trì và mở rộng hơn nữa quy mô giao dịch, với thêm nhiều lựa chọn cổ phiếu lớn, đặc biệt là gia tăng lượng cổ phiếu mà nhà đầu tư nước ngoài có thể mua. Theo thống kê, tính đến cuối 2017, chỉ có khoảng 20 công ty đại chúng (CTĐC) xác định tỷ lệ “room” tối đa là 100%, phần lớn các CTĐC niêm yết trên TTCK vẫn chưa thực hiện xác định lại “room”; Tính đến tháng 9/2018, 8 trong tổng số 30 công ty trong rổ VN30 và 9 trong tổng số 16 ngân hàng niêm yết đã đầy room ngoại (Fiachra, 2018). Ba là, TTCK Việt Nam và các thị trường trong khu vực vẫn có sự khác biệt, không chỉ đơn thuần là vấn đề kỹ thuật mà quan trọng nhất là sự kết nối đó phải đảm bảo cho nhà đầu tư có thể giao dịch tại chỗ thông qua hệ thống thanh toán bù trừ tại các TTCK khác nhau. Chương trình Liên kết giao dịch ASEAN cho phép các nhà đầu tư và thành viên liên kết có thể giao dịch xuyên biên giới trên nhiều TTCK Nguồn: Trích từ tham luận của Ketut Kusuma tại Vietnam Economic Forum, 2018 Biểu đồ 1. Sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường tài chính Việt Nam CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 47Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 198- Tháng 11. 2018 ASEAN khác nhau, với mục tiêu phát triển thị trường vốn khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, việc xây dựng Chương trình này còn gặp phải một số khó khăn chính như khác biệt về khuôn khổ pháp lý trên TTCK tại các nước ASEAN; hệ thống giao dịch của một số nước thành viên còn thiếu sự hợp nhất trong nội bộ quốc gia. Chính vì vậy việc ứng dụng cộng nghệ vào lĩnh vực tài chính nói chung và chứng khoán nói riêng là biện pháp hết sức cần thiết để xử lý nút thắt này. (3) Thị trường bảo hiểm Tác động của hội nhập kinh tế đối với từng phân ngành bảo hiểm có sự khác biệt. Các doanh nghiệp tái bảo hiểm đối mặt với nhiều thách thức hơn từ hội nhập so với các DNBH gốc. Đặc biệt, số lượng các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài tăng gần gấp đôi trong giai đoạn 2007- 2015 (Lê Thị Thuỳ Vân, 2016). Hội nhập tài chính sâu rộng đã góp phần tăng quy mô của các DNBH nói riêng và thị trường bảo hiểm nói chung. Theo báo cáo số liệu từ Cục Quản lý bảo hiểm, 6 tháng đầu năm 2018, tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường ước đạt 58.656 tỷ đồng, tăng 24,35%, tổng tài sản các DNBH ước đạt 33.6997 tỷ đồng, tăng 27,33%. Về sản phẩm bảo hiểm, tính đến cuối năm 2017, với gần 1.200 sản phẩm bảo hiểm bán ra thị trường, trong đó có 837 sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ, 352 sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, các DNBH Việt Nam đã đáp ứng được hầu hết nhu cầu bảo hiểm của các tổ chức, cá nhân tại Việt Nam (Cục Quản lý, Giám sát bảo hiểm, 2018). Các sản phẩm bảo hiểm đều được thiết kế tương tự như các sản phẩm bảo hiểm tại các nước phát triển, với các điều kiện, điều khoản bảo hiểm được áp dụng theo các điều khoản, điều kiện chuẩn mà các nước khác đang sử dụng. Ví dụ, bảo hiểm tài sản áp dụng điều khoản chuẩn của Hiệp hội bảo hiểm Anh, bảo hiểm hàng hoá áp dụng bộ điều khoản chuẩn ICC, bảo hiểm tàu áp dụng bộ điều khoản ITC, bảo hiểm kỹ thuật áp dụng các điều khoản của Munich Re, Swiss Re. Các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đa dạng từ sản phẩm bảo hiểm bảo vệ tới các sản phẩm bảo hiểm có đủ yếu tố bảo vệ, yếu tố tiết kiệm, yếu tố đầu tư... với các điều kiện, điều khoản theo chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, thực tiễn tham gia WTO cũng cho thấy nút thắt lớn nhất hiện nay đối với thị trường và các DNBH Việt Nam là quy mô thị trường còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng. Tỷ lệ doanh thu phí bảo hiểm hiện nay mới chỉ đạt mức 2,44% GDP, thấp hơn so với mức trung bình của khối ASEAN (3,35%), châu Á (5,37%) và thế giới (6,3%) (Cục Quản lý, Giám sát bảo hiểm, 2018). Thị trường tái bảo hiểm trong nước vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào sự hỗ trợ của doanh nghiệp tái bảo hiểm nước ngoài, các doanh nghiệp tái bảo hiểm sẽ chịu sự cạnh tranh mạnh hơn từ các doanh nghiệp tái bảo hiểm nước ngoài. Các DNBH lớn tại Việt Nam như Bảo Việt và Bảo Minh đều có chương trình tái bảo hiểm riêng nhưng vẫn nhượng đến 70% với DNBH nước ngoài để phòng ngừa rủi ro. Hệ thống giám sát vẫn thiếu đồng bộ và chưa xây dựng được cơ chế cảnh báo sớm. Do vậy, trong thời gian tới cần đa dạng và chuyên nghiệp hóa các kênh phân phối bảo hiểm, tăng cường chất lượng và tính chuyên nghiệp của đội ngũ đại lý bảo hiểm, đồng thời phát huy việc áp dụng công nghệ, kỹ thuật số vào việc giới thiệu và bán các sản phẩm bảo hiểm, tăng cường sự minh bạch và khả năng tiếp cận các sản phẩm bảo hiểm của khách hàng. Hoạt động quản lý giám sát chuyển dần mô hình sang quản lý giám sát dựa trên cơ sở rủi ro, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, chuyển các hoạt động quản lý, giám sát từ kiểm tra trước sang kiểm tra sau (hậu kiểm), tăng cường tính chủ động, trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động quản trị điều hành, sử dụng và quản lý nguồn vốn, phù hợp với quy mô, phạm vi và đặc thù kinh doanh của từng doanh nghiệp 4. Kết luận Tham gia WTO đã mở ra cánh cửa hội nhập đầu tiên đối với lĩnh vực tài chính, ngân hàng và bảo hiểm. Tiếp đó việc tham gia khu vực ASEAN đã đánh dấu bước hội nhập sâu CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 48 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 198- Tháng 11. 2018 rộng của thị trường tài chính Việt Nam, tạo đà để Việt Nam tiếp tục tham gia hội nhập trong các khuôn khổ ASEM, APEC, và các FTA khác. Bên cạnh những mặt thành công, những vấn đề nội tại của thị trường đã tạo ra những nút thắt như quy mô và chất lượng tài sản của các định chế tài chính, cơ cấu nhà đầu tư, mức thanh khoản thị trường, khác biệt về khung pháp lý, quản trị rủi ro, giám sát,... cần được tháo gỡ nhằm phát huy hơn nữa ưu điểm của hội nhập tài chính mà Việt Nam đã và đang tham gia tích cực, chủ động. ■ Tài liệu tham khảo 1. ASEAN Financial Integration (2015), International Monetary Fund. 2. Asia business consulting. “Các hiệp định thương mại tự do của Việt Nam với các nước. Truy cập https://asiabizconsult.com/ vi/tin-tuc/143-cac-hi-p-d-nh-thuong-m-i-t-do-c-a-vi-t-nam-v-i-cac-nu-c 3. Báo cáo số 296/BC-CP của Chính phủ về kết quả quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ khi Việt Nam gia nhập WTO, trang 69. 4. Báo cáo thường niên của HOSE, HNX, VSD các năm 2011- 2017. 5. Bộ Công Thương (2013), “Báo cáo quốc gia phục vụ rà soát thương mại trong khuôn khổ WTO”, truy cập: vn/webcenter/portal/mvclcstc/r/chitiettimkiem?dDocName=MOFUCM092164&dID=42654&_afrLoop=47866588428138607. 6. Chuyên trang điện tử hội nghị Bộ trưởng Tài chính APEC năm 2017. page1612/ttapec_detail892?dDocName=MOFUCM113669&dID=75531&_afrLoop=51671543536517624#!%40%40%3FdID% 3D75531%26_afrLoop%3D51671543536517624%26dDocName%3DMOFUCM113669%26_adf.ctrl-state%3Du1s1vfpvp_83 7. Cục Quản lý Giám sát bảo hiểm- Bộ Tài chính (2018), Báo cáo thống kê tổ chức bảo hiểm truy cập: webcenter/portal/cqlgsbh/r/m/ngttbh?_afrLoop=47866671211936657#!%40%40%3F_afrLoop%3D47866671211936657%26cen terWidth%3D100%2525%26leftWidth%3D0%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Df alse%26_adf.ctrl-state%3Ddfuejte17_61 8. CTCP Chứng khoán KIS Việt Nam (2016), Chuẩn bị cho cú bật mới- Triển vọng Việt Nam năm 2016. 9. Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015” và Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020”. 10. Fiachra (2018), “Tái cấu trúc thị trường vốn và tài chính Việt Nam”, Hội thảo Vietnam Economic Forum 2018. 11. Nguyễn Đức Hùng Linh (2018), Đánh giá việc Việt nam được vào Watchlist theo kết quả phân loại thị trường FTSE Russell 9/2018, SSI, truy cập: 12. Lê Thị Kim Nhung và Lê Nam Long (2016), Cơ hội và thách thức đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập sâu vào AEC và TPP,Tạp chí Ngân hàng, số 11/2016. 13. Lê Thị Thuỳ Vân (2016), Thị trường tài chính Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế: Những tác động tích cực và một số hạn chế, Viện Chiến lược và chính sách tài chính, 14. Lê Thị Thùy Vân và nhóm nghiên cứu (2015), Đánh giá tác động của các hiệp định thương mại tự do,Tạp chí Kinh tế Tài chính Việt Nam, số 2, tháng 10/2015. 15. Lưu Đức Huy (2014), “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu khi gia nhập WTO”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ. 16. Nghị định 42/2015/NĐ-CP ngày 05/5/2015 về chứng khoán phái sinh và TTCK phái sinh. 17. Nghị định 60/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán. 18. Nghị quyết 15/NQ-CP của Chính phủ ngày 06/3/2014 về một số giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại DN. 19. Nguyễn Viết Lợi (2016), Tác động của các hiệp định thương mại tự do đến một số lĩnh vực kinh tế - tài chính của Việt Nam, Đặc san Đối ngoại của Bộ Tài chính. 20. Phùng Ngọc Khánh (2018), Phát triển bền vững thị trường bảo hiểm Việt Nam. Tạp chí tài chính, truy cập http:// tapchitaichinh.vn/su-kien-noi-bat/su-kien-tai-chinh/phat-trien-ben-vung-thi-truong-bao-hiem-viet-nam-132144.html 21. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2018), Danh sách ngân hàng 100% vốn nước ngoài, truy cập ngày 24/9/2018 https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/fm/htctctd/nh/nhtm/nhvnn?dDocName=SBV333204&_ afrLoop=1452546524750406#%40%3F_afrLoop%3D1452546524750406%26centerWidth%3D80%2525%26dDocName%3DSB V333204%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf. ctrl-state%3Dddaxwfmrk_332 22. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2018), Danh sách các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, truy cập ngày 24/9/2018, https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/fm/htctctd/cnnhnn?dDocName=SBV333211&_ afrLoop=1452688298619406#%40%3F_afrLoop%3D1452688298619406%26centerWidth%3D80%2525%26dDocName%3DSB V333211%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf. ctrl-state%3Dddaxwfmrk_406 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 49Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 198- Tháng 11. 2018 23. Tài liệu hội thảo “Đánh giá mức độ sẵn sàng của Việt Nam về các khía cạnh kinh tế - xã hội trước thềm cộng đồng kinh tế ASEAN2015”, tháng 12/2014- Mutrap và CIEM. 24. Tài liệu hội thảo “Tham gia vào cộng đồng kinh tế ASEAN: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý cho Việt Nam”, tháng 10/2013- Trường Đại học kinh tế- Đại học Quốc gia Hà Nội. 25. Văn phòng ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế- Bộ công thương. Tài liệu về cộng đồng kinh tế Asean (AEC). 26. Tổ chức thương mại thế giới Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ (2006) 27. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Báo cáo thường niên năm 2012- 2017. 28. Uỷ Ban Giám Sát tài chính Quốc gia (2017), Báo cáo Tổng quan Thị trường tài chính 2017, truy cập sites/default/files/bao_cao_tong_quan_thi_truong_tai_chinh_2017.pdf 29. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2015), “Kết quả quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ khi Việt Nam là thành viên WTO”;. http:// www.mof.gov.vn. 30. Ủy ban Thường vụ Quốc Hội (2015), Kết quả quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ khi Việt Nam là thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). 31. Viện Chiến lược và chính sách tài chính (2015), Sách Tài chính Việt Nam năm 2014- 2015, NXB Tài chính. 32. Vũ Chi Long và Trần Thị Thu Huyền (2016), “Đánh giá 10 năm hội nhập tài chính trong khuôn khổ WTO và những vấn đề đặt ra trong thời gian tới”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tài chính. 33. Vũ Nhữ Thăng và Nguyễn Thị Thu Hiền (2018), “ Thị trường tài chính Việt Nam: Thêm nhiều dư địa cho hợp tác quốc tế. Tạp chí tài chính, truy cập tac-quoc-te-132071.html Thông tin tác giả Trần Thị Xuân Anh, Tiến sĩ Email: anhttx@hvnh.edu.vn Trần Thị Thu Hương, Thạc sĩ Email: tranhuong@hvnh.edu.vn Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng Summary Assessment of the Vietnamese financial market integration process- Key problems and challenges Financial integration is a growing trend in the world and attracts the attention of many nations. Since the openness of the economy, Viet Nam has been active in the process of international integration in general and financial integration in particular. Vietnamese financial market is not out of this trend. Commitments in bilateral, multilateral and regional agreements are carried out in accordance with the roadmap in each market segment, including the money market and bank, stock market and insurance market. The process of financial market integration has brought many positive changes to Vietnamese financial market but also posed many problems and challenges. This paper assesses the integration process of Vietnamese financial market based on the general framework for financial integration that Vietnam has participated in and points out some fundamental changes in Vietnamese financial markets as well as key problems and challenges. Keywords: financial market integration, WTO, Asean, FTA. Anh Thi Xuan Tran, PhD Huong Thi Thu Tran, M.Fin Organization of all: Finance Faculty, Banking Academy of Vietnam
File đính kèm:
- danh_gia_chang_duong_hoi_nhap_thi_truong_tai_chinh_viet_nam.pdf