Đảm bảo bền vững tài khóa ở Việt Nam: hướng đến một chiến lược tổng thể và toàn diện

Trong gần 2 thập niên qua, thể chế tài chính – ngân sách nhà nước của Việt Nam liên tục được đổi

mới và hoàn thiện, nhờ đó, tiềm lực tài chính quốc gia được tăng cường và mở rộng, an ninh, an

toàn nền tài chính công được đảm bảo. Tuy nhiên, những năm gần đây, Việt Nam đang phải đối

mặt với nhiều rủi ro, nhất là khi nhìn nhận từ giác độ bền vững tài khóa. Yêu cầu đặt ra đối với Việt

Nam trong thời gian tới là phải có một kế hoạch tổng thể để từng bước giảm dần mức bội chi ngân

sách nhà nước, qua đó hạn chế sự gia tăng của nợ công, góp phần vào chiến lược phát triển trung

và dài hạn của đất nước

pdf 5 trang phuongnguyen 400
Bạn đang xem tài liệu "Đảm bảo bền vững tài khóa ở Việt Nam: hướng đến một chiến lược tổng thể và toàn diện", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đảm bảo bền vững tài khóa ở Việt Nam: hướng đến một chiến lược tổng thể và toàn diện

Đảm bảo bền vững tài khóa ở Việt Nam: hướng đến một chiến lược tổng thể và toàn diện
10
CƠ CẤU LẠI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC, BẢO ĐẢM NỀN TÀI CHÍNH QUỐC GIA AN TOÀN, BỀN VỮNG
ngân sách nhà nước (NSNN) có thể gây ra nhiều hệ 
lụy tiêu cực đối với nền kinh tế. 
Đối với Việt Nam, kể từ khi thực hiện công cuộc 
đổi mới từ 1986 đến nay, cùng với quá trình cải cách 
thể chế kinh tế nói chung, thể chế tài chính nói riêng 
đã có những thay đổi căn bản, đồng bộ trên nhiều 
mặt. Trong đó, hệ thống pháp luật về quản lý NSNN 
đã liên tục được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện, phù 
hợp với bối cảnh và tình hình đất nước trong từng 
thời kỳ. Gần đây, Luật NSNN năm 2015 (có hiệu lực 
từ năm ngân sách 2017) đã bổ sung nhiều quy định 
mới nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu lực công tác 
quản lý nguồn lực NSNN. Hệ thống pháp luật thu 
NSNN được cải cách và hoàn thiện, một mặt đảm 
bảo nguồn thu NSNN, mặt khác hỗ trợ hiệu quả cho 
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và 
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với sự ra 
đời của Luật Quản lý nợ công năm 2009, việc ban 
hành và tổ chức thực hiện Chiến lược nợ công và 
nợ nước ngoài quốc gia giai đoạn 2011-2020 và tầm 
nhìn đến năm 2030 và các chương trình quản lý nợ 
trung hạn 3 năm đã đem lại các kết quả tích cực, 
góp phần quan trọng vào việc đảm bảo an ninh, an 
toàn nền tài chính quốc gia. Quá trình cải cách thể 
chế tài chính công thời gian qua đã góp phần quan 
trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ về tài chính 
- NSNN đặt ra trong từng giai đoạn phát triển của 
nền kinh tế. 
Quy mô thu NSNN đã có sự mở rộng so với 
những năm đầu đổi mới, đáp ứng tốt hơn các nhu 
cầu chi NSNN. Bình quân giai đoạn 2006 - 2010, quy 
mô thu NSNN đạt 26,3% GDP và giai đoạn 2011 
- 2015 là 23,6% GDP. Tỷ trọng thu nội địa (không 
Nhận diện các rủi ro tài khóa của Việt Nam 
và yêu cầu đảm bảo bền vững tài khóa
Đảm bảo bền vững tài khóa có ý nghĩa rất quan 
trọng giúp an toàn vĩ mô của nền kinh tế. Diễn biến 
những năm gần đây đã cho thấy, nhiều trường hợp 
bất ổn về kinh tế vĩ mô thường xuất phát từ sự bất 
ổn về tình hình tài chính công mà nguyên nhân sâu 
xa là sự mất cân đối trong cán cân ngân sách của 
Chính phủ trong một thời gian dài. Kinh nghiệm 
của nhiều nước trên thế giới cho thấy, sự chậm trễ 
trong việc thực hiện củng cố tài khóa, cơ cấu lại 
ĐẢM BẢO BỀN VỮNG TÀI KHÓA Ở VIỆT NAM:
HƯỚNG ĐẾN MỘT CHIẾN LƯỢC TỔNG THỂ VÀ TOÀN DIỆN
TRƯƠNG BÁ TUẤN - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính (Bộ Tài chính); Email: truongbatuan@mof.gov.vn
Trong gần 2 thập niên qua, thể chế tài chính – ngân sách nhà nước của Việt Nam liên tục được đổi 
mới và hoàn thiện, nhờ đó, tiềm lực tài chính quốc gia được tăng cường và mở rộng, an ninh, an 
toàn nền tài chính công được đảm bảo. Tuy nhiên, những năm gần đây, Việt Nam đang phải đối 
mặt với nhiều rủi ro, nhất là khi nhìn nhận từ giác độ bền vững tài khóa. Yêu cầu đặt ra đối với Việt 
Nam trong thời gian tới là phải có một kế hoạch tổng thể để từng bước giảm dần mức bội chi ngân 
sách nhà nước, qua đó hạn chế sự gia tăng của nợ công, góp phần vào chiến lược phát triển trung 
và dài hạn của đất nước.
Từ khóa: Tài chính, ngân sách nhà nước, chính sách tài khóa, thuế, tài chính công
In the last two decades, financial and state 
budget institutions in Vietnam have been 
renovated and consolidated continuously, 
thereby, national financial potential has been 
enhanced and public financial security and 
safety have been, as a result, assured. However, 
Vietnam has also been facing new risks especially 
on the aspect of financial sustainability. The 
requirement for Vietnam in the coming period 
is to have a new comprehensive strategic plan 
to reduce state budget deficit and releave the 
burden of public debts in medium and long-
term development of the State.
Keywords: Finance, state budget, fiscial policy, tax, public finance
Ngày nhận bài: 05/09/2017
Ngày hoàn thiện biên tập: 22/9/2017 
Ngày duyệt đăng: 25/9/2017
TÀI CHÍNH - Tháng 10/2017
11
kể dầu thô) trong tổng thu NSNN đã tăng từ mức 
50,7% (năm 2001) lên 64,1% (năm 2010) và đến năm 
2016, tỷ lệ này ước khoảng 79,8%. 
Tổng chi NSNN giai đoạn 2011 - 2015 đạt mức 
bình quân 29,4% GDP, giai đoạn 2006 - 2010 ở mức 
29,7% GDP, góp phần quan trọng vào thực hiện các 
mục tiêu về phát triển kinh - xã hội. Dư nợ công, dư 
nợ chính phủ được đảm bảo trong phạm vi cho phép. 
Tuy nhiên, phân tích bức tranh NSNN và một số 
chỉ số tài khóa của Việt Nam những năm gần đây cho 
thấy, một số vấn đề cần lưu ý để đảm bảo bền vững 
tài khóa trong trung và dài hạn, cụ thể như sau:
Thứ nhất, yêu cầu đảm bảo tính bền vững của 
quy mô động viên NSNN đang phải đối mặt với 
một số khó khăn và thách thức. Trong hơn 15 năm 
qua, quy mô thu NSNN so với GDP sau một giai 
đoạn mở rộng, tăng từ mức bình quân 24,5% GDP 
(giai đoạn 2001 - 2005) lên mức bình quân 26,3% 
GDP (giai đoạn 2006 - 2010) thì từ năm 2011 đến nay 
đã bắt đầu xu hướng giảm. Tính bình quân trong 
5 năm (2011 - 2015), quy mô thu NSNN của Việt 
Nam so với GDP đã giảm khoảng 2,7% GDP so với 
giai đoạn 2006 – 2010 (Hình 1). Sự sụt giảm về quy 
mô thu NSNN trong khi nhu cầu chi NSNN vẫn ở 
mức cao đã đặt ra những áp lực không nhỏ đối với 
cân đối NSNN, dẫn đến bội chi NSNN cao, nợ công 
tăng. Quy mô thu NSNN giảm diễn ra đối với hầu 
hết các sắc thuế chủ đạo trong hệ thống thuế như: 
Thuế suất nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt hàng nhập 
khẩu, thuế tài nguyên... (Hình 2).
Quy mô thu NSNN những năm gần đây giảm do 
nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do: (i) Tăng 
trưởng kinh tế thấp hơn dự báo; (ii) Thực hiện giảm 
mức động viên để thúc đẩy sản xuất trong nước 
trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế khó khăn; (iii) 
Sự sụt giảm số thu từ dầu thô do giá dầu giảm mạnh 
trong những năm gần đây; (iv) Việc cắt giảm hàng 
rào thuế quan để thực hiện các hiệp định thương 
mại song phương và đa phương. 
Thứ hai, cơ cấu thu NSNN của Việt Nam vẫn chưa 
thực sự bền vững, còn phụ thuộc vào các khoản 
thu không tái tạo như thu từ giao quyền sử dụng 
đất, thu từ thoái vốn nhà nước, thu từ tài nguyên. 
Trong cơ cấu thu từ đất đai, thu từ giao quyền sử 
dụng đất tuy có thấp hơn giai đoạn trước nhưng 
vẫn đang chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng 
thu NSNN (năm 2015 ở mức tương đương khoảng 
6,91%). Trong khi đó, thu từ thuế sử dụng đất (chủ 
yếu là đất phi nông nghiệp) chỉ chiếm khoảng 0,15% 
tổng thu NSNN, rất thấp so với nhiều nước trong 
khu vực trong khi dư địa để tăng thu từ sắc thuế 
này được xem là khá lớn. 
Sự phụ thuộc vào nguồn thu từ thoái vốn, cổ tức 
và lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp nhà 
nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước cũng có 
xu hướng tăng những năm gần đây. Đây cũng là 
những nguồn thu sẽ có xu hướng giảm trong trung 
và dài hạn đòi hỏi cần phải có những cơ chế phù 
hợp trong sử dụng nguồn thu này. 
Thứ ba, so với nhiều nước, Việt Nam là quốc gia 
có quy mô chi NSNN khá cao. Tuy nhiên, trong 5 
năm qua, quy mô chi ngân sách cho đầu tư phát 
triển có xu hướng giảm, trong khi chi thường xuyên 
vẫn có xu hướng tăng (Hình 3). Cụ thể, quy mô chi 
thường xuyên trong tổng chi NSNN đã tăng từ mức 
bình quân 54,8% giai đoạn 2006 - 2010 lên 62,8% 
giai đoạn 2011 - 2015. Tỷ trọng chi đầu tư phát triển 
trong tổng chi NSNN đã giảm từ mức 28,6% giai 
đoạn 2006 - 2010 xuống còn 25,2% giai đoạn 2011 - 
2015. Chi đầu tư phát triển giảm dự báo sẽ có những 
tác động tiêu cực đối với tăng trưởng trong dài hạn 
của nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh nhu cầu chi 
đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng của Việt Nam 
vẫn còn rất lớn. 
Việc tuân thủ được nguyên tắc trong cân đối 
ngân sách của Việt Nam đang gặp phải một số 
thách thức, thặng dư ngân sách thường xuyên 
(chênh lệch giữa thu thường xuyên từ thuế, phí 
HÌNH 1: QUY MÔ THU NSNN CỦA VIỆT NAM 2001-2015 (%GDP)
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính
HÌNH 2: THU NSNN TỪ MỘT SỐ SẮC THUẾ 
CỦA VIỆT NAM 2001-2015 (%GDP)
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính
12
CƠ CẤU LẠI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC, BẢO ĐẢM NỀN TÀI CHÍNH QUỐC GIA AN TOÀN, BỀN VỮNG
so với quy mô chi thường xuyên) đang có xu 
hướng giảm. Nguyên nhân của tình trạng này 
là trong thời gian qua, so với GDP, quy mô các 
khoản thu thường xuyên từ thuế, phí đã không 
có sự mở rộng tương xứng với sự mở rộng về 
quy mô chi thường xuyên như phân tích ở trên. 
Nếu như bình quân giai đoạn 2006 - 2010, Việt 
Nam có được tỷ lệ thặng dư ngân sách thường 
xuyên (không bao gồm chi trả lãi tiền vay) ở mức 
7,32% GDP thì đến giai đoạn 2011 - 2015, tỷ lệ 
này giảm xuống còn 3,29% GDP. 
Thứ tư, bội chi ngân sách cao và kéo dài, trong 
đó, mức bội chi năm 2013 đã lên đến 6,6% GDP. 
Những năm gần đây bội chi NSNN tuy có giảm, 
nhưng vẫn ở mức cao, năm 2014 ở mức 5,3% GDP; 
năm 2015 là 6,28% GDP và năm 2016 ước ở mức 
6,11% GDP. Bình quân giai đoạn 2011 - 2015, bội chi 
ngân sách ở mức khoảng 5,69% GDP (tính toán trên 
cơ sở số quyết toán NSNN các năm), cao hơn so với 
giai đoạn 2006 - 2010 (5,07% GDP). Tính đến cuối 
năm 2016, dư nợ công ước ở mức 63,7% GDP, dự 
báo sẽ gây ra những áp lực không nhỏ trong việc bố 
trí nguồn trả nợ cho thời gian tới. So với nhiều nước 
trong khu vực châu Á, Việt Nam là quốc gia có tốc 
độ tăng về dư nợ công khá cao trong 5 năm vừa qua.
Thứ năm, một vấn đề khác có thể ảnh hưởng đến 
sự bền vững tài khóa trong trung và dài hạn. Đó là 
sự hiện diện của các nghĩa vụ nợ dự phòng và các 
rủi ro tài khóa ở các hình thái khác nhau, bao gồm 
cả các rủi ro “có cam kết” và “ngầm định”. Các rủi 
ro tài khóa mà Việt Nam có thể phải đối mặt trong 
trung và dài hạn bao gồm cả các rủi ro liên quan đến 
việc vay nợ của chính quyền địa phương, nợ đầu 
tư xây dựng cơ bản; các rủi ro liên quan đến một 
số quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách; chi phí 
đến từ quá trình cải cách khu vực tài chính - ngân 
hàng, doanh nghiệp nhà nước hay ảnh hưởng của 
vấn đề già hóa dân số hay thiên tai, biến đổi khí hậu. 
Những rủi ro này cần được quản trị một cách hiệu 
quả vì khi xảy ra đều có các ảnh hưởng tiêu cực đến 
vị thế tài khóa của chính phủ trong trung và dài hạn.
Một số khuyến nghị nhằm 
đảm bảo bền vững tài khóa ở Việt Nam
Với tốc độ tăng trưởng GDP đang ở mức thấp 
hơn so với kỳ vọng (Năm 2016, tăng trưởng GDP 
ở mức 6,21%; 6 tháng đầu năm 2017 ở mức 5,73%, 
thấp hơn đáng kể so với mục tiêu 6,5 - 7% đặt ra 
cho giai đoạn 2016 - 2020), việc thực hiện cắt giảm 
hàng rào thuế quan ở mức cao khi tham gia các Hiệp 
định thương mại tự do (FTA), giá dầu còn ở mức 
thấp, dự báo quy mô thu NSNN của Việt Nam thời 
gian tới có thể tiếp tục giảm. Trong dài hạn, thu từ 
đất đai dự báo sẽ giảm do nguồn cung về đất là 
hữu hạn. Thu từ cổ tức, lợi nhuận sau thuế của các 
doanh nghiệp có vốn nhà nước; thu từ thoái vốn 
nhà nước cũng sẽ có xu hướng giảm khi quá trình 
cơ cấu lại khu vực DNNN được đẩy mạnh những 
năm tới đây. Trong khi đó, áp lực về nguồn lực cho 
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, an sinh xã hội, cải 
cách tiền lương những năm tới dự báo còn rất lớn. 
Để xử lý có hiệu quả các rủi ro đang đặt ra nói 
trên, hướng tới việc xây dựng một nền tài chính 
công an toàn, bền vững, đòi hỏi cần phải có một 
chiến lược tổng thể và toàn diện với một tầm nhìn 
trung và dài hạn, dựa trên 4 trụ cột chủ đạo sau: 
- Trụ cột thứ nhất: Thực hiện cơ cấu lại chi NSNN 
theo một lộ trình tổng thể, từng bước giảm dần quy 
mô chi thường xuyên và phục hồi chi đầu tư phát 
triển, đảm bảo ngân sách thường xuyên luôn có 
thặng dư. 
- Trụ cột thứ hai: Tiếp tục thực hiện cải cách hệ 
thống chính sách thuế, đảm bảo hình thành một hệ 
thống thuế “hỗ trợ tăng trưởng” với cơ cấu phù hợp 
giữa ba loại thuế: Thuế thu nhập, thuế tiêu dùng và 
thuế đánh vào tài sản. 
- Trụ cột thứ ba: Giảm dần bội chi NSNN với một 
cam kết mạnh mẽ, chủ động kiểm soát chặt chẽ các 
HÌNH 3: QUY MÔ CHI NSNN CỦA VIỆT NAM (% GDP)
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính
HÌNH 4: QUY MÔ CHI NGÂN SÁCH MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á (% GDP)
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính
TÀI CHÍNH - Tháng 10/2017
13
rủi ro về nợ công; kiên định duy trì các giới hạn về 
an toàn nợ công theo mục tiêu đề ra.
- Trụ cột thứ tư: Kiểm soát chặt chẽ các nghĩa vụ 
nợ dự phòng, bao gồm cả nghĩa vụ nợ dự phòng 
trực tiếp và gián tiếp; nâng cao kỷ luật tài khóa, tính 
minh bạch, tăng cường trách nhiệm giải trình. 
Trên cơ sở các trụ cột này, một số khuyến nghị 
để đảm bảo bền vững tài khóa ở Việt Nam như sau:
Một là, Việt Nam cần phải giải quyết hài hòa giữa 
việc cơ cấu lại tài khóa trên đồng thời cả hai mặt chi 
và thu NSNN. Đối với chi NSNN, cần có lộ trình 
để thực hiện cơ cấu lại chi NSNN, cải cách căn bản 
phương thức quản lý NSNN; Thực hiện phân định 
rõ nội dung và phạm vi mà NSNN cần bảo đảm, lựa 
chọn các ưu tiên chiến lược để bố trí nguồn lực thực 
hiện trên cơ sở hướng vào việc thực hiện các ưu tiên 
chiến lược của nền kinh tế. 
Việt Nam cần phải hướng đến việc xây dựng một 
cơ cấu chi NSNN phù hợp hơn, gắn chính sách chi 
NSNN với các định hướng phát triển trung và dài 
hạn, khắc phục tình trạng phân tán trong phân bổ 
nguồn lực NSNN; Thực hiện chuyển dần từ việc 
lập dự toán, phân bổ dự toán ngân sách cho các cơ 
quan, đơn vị theo yếu tố đầu vào sáng lập, phân bổ 
ngân sách gắn với kết quả và hiệu quả công việc; 
Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp và trao quyền tự chủ 
cho các đơn vị sự nghiệp công cùng với việc hình 
thành các tiêu chí và phương pháp xác định và giám 
sát, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phù hợp, 
qua đó giảm dần quy mô chi thường xuyên để có 
thêm nguồn lực cho đầu tư phát triển. 
Hai là, thực hiện cải cách đồng bộ hệ thống chính 
sách thuế, duy trì một hệ thống chính sách thuế có 
tính cạnh tranh, hỗ trợ tăng trưởng với mức thuế 
suất hợp lý, cơ sở tính thuế rộng, phù hợp với xu 
hướng cải cách thuế trong khu vực và trên thế giới; 
đảm bảo tính minh bạch, công khai của hệ thống 
thuế. Việt Nam cần thiết lập được cơ cấu thu NSNN 
bền vững hơn trên cơ sở kết hợp hợp lý các sắc 
thuế thu nhập, các sắc thuế tiêu dùng và thuế bất 
động sản, tài nguyên. Đồng thời, cần nghiên cứu 
chính sách để động viên vào ngân sách các nguồn 
thu tiềm năng như thuế bất động sản, các khoản 
thu liên quan đến tài nguyên, tài sản nhà nước để 
có thêm nguồn lực cho tái cơ cấu nền kinh tế và 
thực hiện cơ cấu lại NSNN đã được xác định trong 
Nghị quyết số 07 - NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ 
Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, 
quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia 
an toàn, bền vững và Nghị quyết số 25/2016/QH14 
ngày 09/11/2016 của Quốc hội về Kế hoạch tài chính 
5 năm quốc gia giai đoạn 2016 - 2020. 
Trong bối cảnh gia tăng hội nhập, giảm thuế 
suất thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) để tăng 
cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đang là 
xu hướng được nhiều nước áp dụng. Thời gian qua, 
Việt Nam cũng đã thực hiện cắt giảm mạnh mức 
thuế suất thuế TNDN. Mức thuế suất thuế TNDN 
hiện hành của Việt Nam (20%) đã ở mức cạnh tranh 
so với nhiều nước trong khu vực. Theo đó, việc sửa 
đổi thuế TNDN của Việt Nam trong giai đoạn tới 
cần tập trung vào việc rà soát để đơn giản hóa các 
chính sách ưu đãi, đảm bảo việc thực hiện chính 
sách ưu đãi có tính chọn lọc và gắn với các định 
hướng phát triển ngành, lĩnh vực; nghiên cứu để áp 
dụng các quy định để hạn chế tình trạng chuyển giá 
phù hợp với đặc điểm của Việt Nam. 
Trong rà soát chính sách ưu đãi thuế, cần coi trọng 
tính đơn giản và minh bạch, đảm bảo chính sách ưu 
đãi thuế được ban hành phù hợp với định hướng 
tái cơ cấu nền kinh tế, bao gồm cả tái cơ cấu ngành, 
nghề và địa bàn theo Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 
01/11/2016 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành 
Trung ương Đảng (khóa XII) hay Kế hoạch tái cơ cấu 
nền kinh tế 2016 - 2020 đã được Quốc hội thông qua. 
Trong đó, cần tập trung ưu đãi thuế cho các dự án có 
thể tạo ra ngoại ứng tích cực, tác động lan tỏa đối với 
toàn bộ nền kinh tế, những ngành tận dụng được lợi 
thế cạnh tranh của đất nước, phù hợp với thị trường 
và xu thế phân công lao động quốc tế. 
Việt Nam cũng cần nghiên cứu thực hiện thống 
kê và xây dựng Báo cáo chi tiêu thuế, thiết lập cơ 
chế để cơ quan thuế có điều kiện thu thập các thông 
tin và dữ liệu liên quan đến chính sách ưu đãi thuế 
như số dự án được hưởng ưu đãi thuế, số giảm thu 
ngân sách do ưu đãi thuế, đóng góp của dự án được 
hưởng ưu đãi đối với nền kinh tế về khía cạnh việc 
làm, kim ngạch xuất khẩu. Thực hiện phân tích chi 
phí - lợi ích một cách thận trọng và mang tính dài 
hạn trước khi ban hành và sau khi thực hiện các 
chính sách ưu đãi thuế.
Đồng thời, để củng cố năng lực tài khóa, cần có 
các biện pháp cải cách phù hợp để tăng cường vai 
trò của các sắc thuế tiêu dùng trong hệ thống thuế, 
bao gồm thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế tiêu 
thụ đặc biệt (TTĐB), nhất là trong bối cảnh một số 
nguồn thu đang có xu hướng giảm (thu từ dầu thô, 
Quy mô thu NSNN của Việt Nam đã có sự mở 
rộng so với những năm đầu đổi mới, đáp ứng 
tốt hơn các nhu cầu chi NSNN. Bình quân giai 
đoạn 2006 - 2010, quy mô thu NSNN đạt 26,3% 
GDP và giai đoạn 2011 - 2015 là 23,6% GDP. 
14
CƠ CẤU LẠI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC, BẢO ĐẢM NỀN TÀI CHÍNH QUỐC GIA AN TOÀN, BỀN VỮNG
thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu) và việc thực 
hiện cắt giảm mức thuế suất thuế TNDN thời gian 
vừa. Việt Nam cũng cần tăng cường vai trò của thuế 
nhà, đất (thuế bất động sản). Đây là sắc thuế mà tiềm 
năng thu còn rất lớn, nhất là với sự gia tăng về tốc độ 
đô thị hóa. Bên cạnh đó, tiếp tục sửa đổi việc quản lý, 
sử dụng nguồn thu từ phí, lệ phí trên cơ sở thực hiện 
các quy định của Luật Phí và Lệ phí; khắc phục bằng 
được tính phân tán, dàn trải trong quản lý nguồn thu 
từ phí, lệ phí; Tiến hành rà soát lại toàn bộ việc thực 
hiện cơ chế để lại các khoản thu từ phí, lệ phí cho các 
cơ quan, đơn vị thời gian vừa qua để có các biện pháp 
điều chỉnh phù hợp.
Hiệu quả công tác quản lý thuế cần được tăng 
cường, nhất là trong việc xử lý các vấn đề liên quan 
đến chuyển giá; hạn chế gian lận về thuế; xử lý có 
kết quả vấn đề nợ thuế. Đồng thời, cải cách thủ 
tục hành chính trong lĩnh vực thuế trên cơ sở tiếp 
tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin theo 
hướng tích hợp và nền tảng quản lý dựa trên rủi ro. 
Chủ động nghiên cứu để có các chính sách quản lý 
thuế phù hợp đối với thương mại điện tử.
Ba là, củng cố cân đối NSNN, giảm dần bội chi 
ngân sách theo một lộ trình cụ thể, qua đó từng 
bước mở rộng “không gian tài khóa”, trong mọi 
trường hợp phải đảm bảo ngân sách thường xuyên 
luôn có thặng dư theo đúng bản chất và thông lệ 
quốc tế. Diễn biến cuộc khủng hoảng kinh tế thế 
giới vừa qua cho thấy, những quốc gia có không 
gian tài khóa lành mạnh, nợ công ở mức thấp đã 
có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong việc đưa 
ra các chính sách để giảm thiểu tác động của suy 
thoái kinh tế toàn cầu. Việc giảm bội chi NSNN cần 
phải được thực hiện theo lộ trình xác định trước 
với các bước đi thích hợp, đảm bảo cân đối giữa 
mục tiêu đảm bảo tổng vốn đầu tư, thúc đẩy tăng 
trưởng kinh tế với các yêu cầu lành mạnh hóa tình 
hình tài khóa. 
Bốn là, chủ động kiểm soát chặt chẽ các rủi ro về 
nợ công. Việc quản lý nợ công hiệu quả và an toàn 
không chỉ giới hạn duy trì mức nợ công trong phạm 
vi đề ra mà năng lực và khả năng trả nợ mới là yếu 
tố quyết định. Các chỉ số như tỷ lệ nợ công trên GDP 
nhìn chung không phản ánh hết các rủi ro liên quan 
đến quản lý nợ. Yêu cầu đặt ra là phải hình thành 
cho được các khuôn khổ để giám sát hiệu quả các 
rủi ro về nợ công, bao gồm rủi ro về đồng tiền vay, 
lãi suất, tỷ giá, khả năng thanh toán, tín dụng và 
hoạt động; kiểm soát chặt chẽ các khoản vay được 
Chính phủ bảo lãnh.
 Việc vay nợ cần phải được đặt trong mối tương 
quan chung với kế hoạch và khả năng trả nợ. Trong 
việc bù đắp bội chi, vấn đề quan trọng là chi phí 
vay bao nhiêu chứ không phải thuần túy là có thể 
huy động được vốn vay hay không. Một quốc gia 
không thể kéo dài việc vay nợ với chi phí vốn vay 
ngày càng cao. 
Năm là, thực hiện đồng bộ các biện pháp để nâng 
cao kỷ luật tài khóa, đảm bảo: (i) Kiểm soát các chỉ 
số tài khóa trong giới hạn đề ra; (ii) Việc phân bổ 
nguồn lực được thực hiện theo các mục tiêu ưu tiên; 
(iii) Tôn trọng sự hiệu quả trong chi tiêu ngân sách. 
Xác định phạm vi quản lý và cách thức ứng xử rõ 
ràng, phù hợp đối với các khoản nợ nằm ngoài phạm 
vi nợ công nhưng gián tiếp ảnh hưởng đến tình hình 
tài chính công và cân đối NSNN. Hình thành các cơ 
chế phù hợp để “ghi chép”, “theo dõi” đối với các 
nghĩa vụ nợ dự phòng “trực tiếp” và “ngầm định” 
để có thể bao quát được các rủi ro có liên quan đến 
tình hình tài chính công. 
Sáu là, tăng cường công khai minh bạch, thúc đẩy 
trách nhiệm giải trình. Khi minh bạch tài khóa được 
đảm bảo, những chính sách không bền vững, gây 
lãng phí về tài khóa sẽ dễ dàng bị phát hiện và xử 
lý, qua đó góp phần tăng cường hiệu quả quản lý tài 
chính công nhưng vai trò của công khai, minh bạch 
vẫn còn hạn chế. 
Để tăng cường công khai, cần thực hiện đồng bộ 
các giải pháp để đổi mới phương thức và cách thức 
thống kê ngân sách, đảm bảo phản ánh trung thực 
bức tranh và mức độ rủi ro tài khóa của Chính phủ; 
có chế tài phù hợp để xử lý các trường hợp không 
thực hiện công khai hoặc chỉ công khai mang tính 
hình thức. Các tài liệu về ngân sách được công khai 
phải bao quát đầy đủ tình hình ngân sách và hoạt 
động ngoài ngân sách. Đồng thời, hình thành khuôn 
khổ pháp lý phù hợp để nâng cao trách nhiệm giải 
trình, coi trọng tính kỷ cương, kỷ luật trong quản lý 
tài khóa, đảm bảo kiểm soát các chỉ số tài khóa trong 
giới hạn an toàn; đảm bảo việc phân bổ nguồn lực 
được thực hiện theo các mục tiêu ưu tiên ở cả cấp 
trung ương và địa phương. 
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Tài chính (2017), Số liệu công khai ngân sách hàng năm, www.
mof.gov.vn;
2. IMF (2011), Revenue Mobilization in Developing Countries, International 
Monetary Fund Working Paper;
3. Barrios et.al (2010), EU Fiscal Consolidation after the Financial Crisis: 
Lessons from Past Experience, Economic Paper 418, European Economy;
4. IMF (2017), Vietnam 2017 Article IV Consultation-Staff Report, Washington D.C;
5. IMF (2010), Strategies for Fiscal Consolidation in the Post-Crisis World;
6. World Bank (2011), Tax Reform in Vietnam: Toward a More Efficient and 
Equitable Tax System, Washington D.C. 

File đính kèm:

  • pdfdam_bao_ben_vung_tai_khoa_o_viet_nam_huong_den_mot_chien_luo.pdf