Đái tháo đường thai kỳ
Đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK- gestational diabetes mellitus ) là một trong các biến chứng
thường gặp nhất khi mang thai. Tuy nhiên, tranh cải xoay quanh việc chẩn đoán và điều trị ĐTĐTK
vẫn còn tiếp diễn, mặc dù gần đây có nhiều nghiên cứu lớn tập trung vào giải quyết các vấn đề này.
Mục đích của tài liệu này là: 1) Cung cấp tổng quan ngắn gọn những hiểu biết về ĐTĐTK, 2) Tổng kết
các hướng dẫn điều trị đã được chứng minh bằng các nghiên cứu lâm sàng, và 3) Xác định những lỗ
hỏng kiến thức trong hiện tại từ đó đưa ra những định hướng nghiên cứu trong tương lai
Bạn đang xem tài liệu "Đái tháo đường thai kỳ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đái tháo đường thai kỳ
49 THÔNG TIN CẬP NHẬT 1 Đái tháo đường thai kỳ (Trích khuyến cáo của ACOG số 180, tháng 7 năm 2017) Huỳnh Giang Châu* Trương Thị Bích Hà** Nguyễn Hà Nhật Vy*** Tóm tắt: Đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK- gestational diabetes mellitus ) là một trong các biến chứng thường gặp nhất khi mang thai. Tuy nhiên, tranh cải xoay quanh việc chẩn đoán và điều trị ĐTĐTK vẫn còn tiếp diễn, mặc dù gần đây có nhiều nghiên cứu lớn tập trung vào giải quyết các vấn đề này. Mục đích của tài liệu này là: 1) Cung cấp tổng quan ngắn gọn những hiểu biết về ĐTĐTK, 2) Tổng kết các hướng dẫn điều trị đã được chứng minh bằng các nghiên cứu lâm sàng, và 3) Xác định những lỗ hỏng kiến thức trong hiện tại từ đó đưa ra những định hướng nghiên cứu trong tương lai. Định nghĩa và tỷ lệ hiện mắc Đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) là tình trạng không dung nạp carbohydrate xảy ra khi mang thai. ĐTĐTK có thể kiểm soát ổn định đường huyết không cần dùng thuốc được gọi là ĐTĐTK A1. ĐTĐTK cần phải dùng thuốc để ổn định đường huyết gọi là ĐTĐTK A2. Khoảng 6-9% thai phụ có biến chứng đái tháo đường (ĐTĐ) trong đó 90% trường hợp là ĐTĐTK (Wier LM, 2010; DeSisto CL, 2014). Biến chứng của mẹ và con Thai phụ ĐTĐ tăng nguy cơ tiền sản giật (9,8% xảy ra ở mức đường huyết đói <115 mg/dL, 18% có đường huyết đói ≥115 mg/dL), nguy cơ sinh mổ (25% điều trị thuốc, 17% điều trị chế tiết, nhóm chứng là 9,5%).1 Hơn nữa, thai phụ ĐTĐ tăng nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ (khoảng 70% sẽ bị ĐTĐ trong vòng 22-28 năm sau sinh). Con của thai phụ ĐTĐ có nguy cơ con to, hạ đường huyết sơ sinh, tăng bilirubine máu, kẹt vai, sang chấn lúc sanh và thai lưu. Một nghiên cứu đa quốc gia HAPO về mối liên quan giữa tình trạng tăng đường huyết và kết cục xấu của thai kỳ (Metzger BE, 2008) cho * Bệnh viện Hùng Vương, [email protected], SĐT: 0989617177; **Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch, [email protected], SĐT: 0907872680; ***Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch, [email protected], SĐT: 0987144372 thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa mỗi giá trị nồng độ đường trong xét nghiệm dung nạp 75g đường (oral glucose tolerance test) với kết cục của thai (sinh mổ, trọng lượng thai > bách phân vị thứ 90, hạ đường huyết lâm sàng và tăng nồng độ insulin máu). _ Tăng khả năng xuất hiện tình trạng béo phì và bệnh ĐTĐ ở độ tuổi thơ ấu và bắt đầu vào tuổi trưởng thành mà không phụ thuộc vào việc có hay không yếu tố gia đình hay di truyền.2 Chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ như thế nào? Tất cả thai phụ nên được sàng lọc ĐTĐ bằng xét nghiệm tầm soát đường huyết vào tuần thứ 24-28 của thai kỳ.3 Tầm soát ở lần khám thai đầu tiên đối với những thai phụ thừa cân và béo phì có các yếu tố nguy cơ ĐTĐ hoặc có tiền căn ĐTĐTK (bảng 1). Phương pháp tiếp cận hai bước để chẩn đoán ĐTĐTK thường được sử dụng ở Hoa Kỳ, lần đầu với việc uống 50g đường và đo nồng độ đường huyết sau 1 giờ. Thai phụ có nồng độ đường bằng hoặc vượt quá ngưỡng sàng lọc sẽ được thực hiện xét nghiệm dung nạp đường 100g-3 giờ. ĐTĐTK được chẩn đoán khi có ít nhất 2 giá trị bất thường trên xét nghiệm dung nạp đường 100g-3 giờ. Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA) lưu ý hemoglobin A1C cũng có thể được áp dụng nhưng không nên sử dụng riêng lẻ do độ nhạy thấp hơn so với xét nghiệm dung nạp đường (Diabetes Care 2017;40:S11–24). 50 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 3, Tháng 11 – 2017 2 Khi kết quả xét nghiệm sớm âm tính, việc tầm soát ĐTĐTK được khuyến cáo ở tuần thứ 24-28 của thai kỳ và không cần lặp lại xét nghiệm dung nạp đường 50g. Ngưỡng sàng lọc đối với xét nghiệm 50g đường-1 giờ, dao động từ 130-140 mg/dL. Một nghiên cứu đoàn hệ (Esakoff TF, 2005) cho thấy ngưỡng giá trị 140 mg/dL giúp giảm tỷ lệ dương tính giả và cải thiện giá trị tiên đoán dương và không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chủng tộc và dân cư. Nghiên cứu này cũng cho thấy độ nhạy chỉ cải thiện ít khi sử dụng ngưỡng 130 mg/dL và 135 mg/dL. Do không có bằng chứng rõ ràng ủng hộ nên chọn ngưỡng giá trị nào cho xét nghiệm kiểm tra đường huyết 1 giờ (130 mg/dL, 135 mg/dL hoặc 140 mg/dL), nên bác sĩ sản khoa và các nhà cung cấp chăm sóc sức khoẻ sinh sản có thể lựa chọn một ngưỡng phù hợp với thực hành lâm sàng của họ. Các ngưỡng khác nhau cũng được đề xuất cho xét nghiệm dung nạp đường 3 giờ. Bảng 2 liệt kê các ngưỡng chẩn đoán được thiết lập cho xét nghiệm dung nạp đường 3 giờ của Nhóm Dữ liệu Đái Tháo Đường Quốc gia và của Carpenter và Coustan, trong đó Carpenter và Coustan sử dụng các ngưỡng thấp hơn, dẫn tới tỷ lệ chẩn đoán ĐTĐTK cao hơn. Một nghiên cứu cắt ngang (Ferrara A, 2002) so sánh hai bộ tiêu chí ở hơn 26.000 phụ nữ cho thấy rằng chẩn đoán ĐTĐTK tăng bình quân 50% nếu sử dụng các ngưỡng Carpenter và Coustan. Một nghiên cứu khác (Cheng YW, 2009) đánh giá các kết cục lâm sàng cho thấy những thai phụ ĐTĐ được chẩn đoán bằng tiêu chuẩn của Carpenter và Coustan có tỷ lệ biến chứng chu sinh cao hơn so với những thai phụ có giá trị dưới ngưỡng chẩn đoán. Các thai phụ dù chỉ có một giá trị bất thường trên xét nghiệm dung nạp đường 100g-3 giờ nhưng tăng nguy cơ có kết cục chu sinh xấu đáng kể so với thai phụ ĐTĐ. Do đó, một giá trị cao có thể được sử dụng để chẩn đoán ĐTĐTK, mặc dù có sự tranh cải nên là hai giá trị. Năm 2010, Hiệp hội nghiên cứu Bệnh đái tháo đường và Thai kỳ Quốc tế (IADPSG) khuyến cáo có thể thực hiện xét nghiệm dung nạp đường 75g-2 giờ trong bất kỳ thời điểm nào của thai kỳ và chẩn đoán ĐTĐTK khi có bất kỳ một giá trị bất thường (đường huyết đói ≥92 mg/dL, 1 giờ ≥180 mg/dL hoặc 2 giờ ≥153 mg/dL) (Metzger BE, 2010). Năm 2011, ADA chấp nhận sử dụng các tiêu chí này, đồng thời thừa nhận rằng việc áp dụng ngưỡng này sẽ làm gia tăng đáng kể tỷ lệ hiện mắc ĐTĐTK (Diabetes Care 2011;34(suppl 1): S11–61). Những thai phụ ĐTĐ được phát hiện thêm có thể ít nguy cơ có kết cục bất lợi hơn các thai phụ ĐTĐ được chẩn đoán và điều trị bằng các tiêu chuẩn truyền thống (2 bước). Bảng 1. Chiến lược tầm soát để phát hiện đái tháo đường thai kỳ hoặc Đái tháo đường thai kỳ sớm.4 Chú ý tầm soát ở tất cả thai phụ thừa cân hoặc béo phì (chỉ số khối cơ thể > 25 hoặc > 23 ở người Mỹ gốc Á) và có ít nhất một trong các yếu tố nguy cơ sau: Không hoạt động thể chất. Liên quan bậc 1 với người ĐTĐ. Chủng tộc hoặc dân số nguy cơ cao (Mỹ gốc Phi, Mỹ Latinh, Mỹ bản địa, Mỹ gốc Á,). Tiền căn sinh con ≥ 4.000g. Thai kỳ trước bị ĐTĐTK. Tăng huyết áp (140/90 mmHg hoặc điều trị tăng huyết áp). Nồng độ cholesterol lipoprotein trọng lượng cao < 35 mg/dL (0,90 mmol/L), triglyceride > 250 mg/dL (2,82 mmol/L). Phụ nữ có hội chứng buồng trứng đa nang A1C ≥ 5,7%, rối loạn dung nạp đường hoặc rối loạn đường huyết lúc đói khi làm xét nghiệm trước đó Các điều kiện lâm sàng khác liên quan đến kháng insulin (Ví dụ: chỉ số khối cơ thể BMI trước khi mang thai cao hơn 40 kg/m2, bệnh gai đen (acanthosis nigricans). Tiền sử bệnh tim mạch. Nếu không chẩn đoán được đái tháo đường thai kỳ, hoặc tiền thai kỳ, nên lập lại kiểm tra đường huyết trong 24-28 tuần tuổi thai. Năm 2017, ADA tiếp tục thừa nhận rằng không có bằng chứng rõ ràng để ủng hộ cách tiếp cận IADPSG đề xuất so với cách tiếp cận sàng lọc truyền thống. Tuy nhiên, hiện nay ACOG cho rằng cần có 51 THÔNG TIN CẬP NHẬT 3 nhiều nghiên cứu hơn nữa trước khi đưa ra tiêu chuẩn thực hiện ở cấp quốc gia và tùy theo điều kiện và hoàn cảnh từng nơi mà người ta vẫn có thể áp dụng test 75g đường để tầm soát ĐTĐTK. Bảng 2. Tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐTK Nồng độ đường trong huyết tương Caroenter & Custans Nồng độ đường trong huyết tương Dữ liệu Đái tháo đường quốc gia mg/dL Mmol/L mg/dL Mmol/L Đói 95 5,3 105 5,8 1 giờ 180 10,0 190 10,6 2 giờ 155 8,6 165 9,2 3 giờ 140 7,8 145 8 Lợi ích của điều trị Đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) là gì? Năm 2005, nghiên cứu ngẫu nhiên ở Úc (Crowther CA, 2005) có cỡ mẫu đủ lớn đầu tiên trên thai phụ ĐTĐ cho thấy việc điều trị sẽ làm giảm đáng kể các biến chứng nghiêm trọng của trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ tiền sản giật (18% còn 12%), giảm tần suất trẻ sơ sinh nặng cân hơn so với tuổi thai (22% còn 13%) và giảm tần suất trẻ sơ sinh lớn hơn 4.000g (21% còn 10%).5 Sau đó một nghiên cứu ngẫu nhiên, đa trung tâm ở Hoa Kỳ (Landon MB, 2009) tiến hành điều trị 958 thai phụ ĐTĐ nhẹ cho thấy mặc dù không có sự khác biệt về tần suất các kết cục xấu nguyên phát (tử vong chu sinh, hạ đường huyết sơ sinh, tăng nồng độ C-peptide trong máu cuống rốn và sang chấn sản khoa) nhưng có nhiều khác biệt lớn của các kết cục xấu thứ phát với điều trị như tỷ lệ trẻ sơ sinh nặng cân hơn so với tuổi thai, cân nặng >4.000g, tỷ lệ sinh mổ, kẹt vai và giảm chỉ số mỡ của trẻ sơ sinh. Việc điều trị trong các nghiên cứu trên bao gồm tư vấn chế độ ăn uống với các cách tiếp cận dinh dưỡng chuyên biệt và tập thể dục. Dựa trên bằng chứng này, thai phụ ĐTĐ cần được tư vấn chế độ dinh dưỡng và tập thể dục. Khi không thể kiểm soát được nồng độ đường huyết, phải điều trị bằng thuốc vì lợi ích của mẹ và thai. Lưu ý rằng trong cả hai nghiên cứu trên, khi liệu pháp dinh dưỡng thất bại, các thai phụ chỉ được điều trị bằng insulin chích, không dùng đường uống. Theo dõi đường huyết của thai phụ ĐTĐTK như thế nào? Ngay khi thai phụ ĐTĐTK bắt đầu điều trị bằng chế độ dinh dưỡng, việc theo dõi nồng độ đường huyết cần phải thực hiện đồng thời. Dựa vào những dữ liệu sẵn có, khuyến cáo chung là kiểm tra đường huyết 4 lần/ngày (đường huyết đói và sau mỗi bữa ăn). Giá trị đường huyết đói trung bình rất có ích trong việc kiểm soát bệnh ĐTĐ ở thai phụ vì giúp dự đoán khối lượng mỡ tăng lên ở trẻ sơ sinh. Khối lượng mỡ ở trẻ sơ sinh có liên quan đến sự phát triển béo phì và ĐTĐ khi trẻ đến thời kỳ vị thành niên và bệnh ĐTĐ.6 Một nghiên cứu ngẫu nhiên đối chứng khác (de Veciana M, 1995) so sánh các giá trị đường huyết trước và sau ăn ở thai phụ ĐTĐ, cho thấy sử dụng giá trị đường huyết sau ăn 1 giờ sẽ kiểm soát đường huyết tốt hơn, tỷ lệ trẻ sơ sinh nặng cân hơn so với tuổi thai và tỷ lệ sinh mổ vì bất xứng đầu chậu thấp hơn. Đánh giá đường huyết sau ăn có thể thực hiện 1 hoặc 2 giờ sau ăn. Hiện tại, không có nghiên cứu nào cho thấy sự vượt trội của một trong hai cách tiếp cận này (Weisz B, 2005; Moses RG, 1999). Điều này có thể là do đỉnh của đường huyết sau ăn ở khoảng 90 phút, giữa của hai điểm thời gian (Ben-Haroush A, 2004). Khi mức đường huyết của bệnh nhân được kiểm soát tốt bằng chế độ ăn uống, tần suất theo dõi đường huyết có thể được điều chỉnh tùy theo tuổi thai, sự tuân thủ điều trị và chế độ chăm sóc trong tương lai. Thông thường nên đo đường huyết ít nhất 2 lần/ngày. ADA và ACOG khuyến cáo đường huyết đói hoặc trước ăn phải <95 mg/dL và đường huyết sau ăn 1 giờ <140 mg/dL hoặc sau 2 giờ <120 mg/dL để giảm nguy cơ con to (Diabetes Care 2017;40: S114–9). 52 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 3, Tháng 11 – 2017 4 Điều trị không dùng thuốc nào hiệu quả trong việc quản lý ĐTĐTK ? Thông thường, quản lý ĐTĐTK sẽ bắt đầu bằng điều chỉnh chế độ ăn uống, tập thể dục và theo dõi đường huyết. Một phân tích gộp gần đây thử nghiệm thay đổi lối sống ở thai phụ ĐTĐTK đã làm giảm tỷ lệ trẻ sơ sinh nặng cân hơn so với tuổi thai, giảm tỷ lệ con to (≥ 4.000 g) và giảm khối lượng mỡ ở trẻ sơ sinh. Thai phụ sử dụng các biện pháp can thiệp lối sống có nhiều khả năng đạt được cân nặng mục tiêu 1 năm sau sinh.7 Mục tiêu của liệu pháp dinh dưỡng ở thai phụ ĐTĐTK là để đạt được mức đường huyết bình thường, ngăn ngừa tình trạng tăng ketone máu, tăng cân phù hợp, góp phần tăng trưởng và phát triển bào thai hợp lý. ADA khuyến cáo tư vấn dinh dưỡng được thực hiện bởi chuyên gia dinh dưỡng và xây dựng kế hoạch dinh dưỡng riêng cho từng cá nhân ĐTĐTK dựa trên chỉ số khối cơ thể của họ (Diabetes Care 2017;40:S114–9). Ở một vài cơ sở lâm sàng không có chuyên gia dinh dưỡng, bác sĩ lâm sàng nên đưa ra các khuyến cáo cho bệnh nhân dựa trên ba yếu tố chính: 1) tổng lượng calo, 2) lượng carbohy-drate, và 3) phân bố calo. Khuyến cáo lượng carbohydrate đưa vào chỉ giới hạn khoảng 33-40% tổng lượng calo. Lượng calo còn lại protein chiếm 20% và chất béo chiếm 40% (Mulford MI, 1993). Một thử nghiệm nhỏ, ngẫu nhiên (Hernandez TL, 2016) gần đây cho thấy những thai phụ ĐTĐTK dùng chế độ ăn carbohydrate phức tạp có nồng độ đường huyết đói thấp hơn so với những người dùng chế độ ăn uống thông thường. Carbohydrate phức tạp được đề nghị sử dụng vì chúng được tiêu hóa chậm hơn, ít gây tăng đường huyết mạnh sau ăn và có thể làm giảm sự đề kháng insulin. Trong thực tế, ba bữa ăn và 2-3 món ăn nhẹ được khuyến cáo để phân phối lượng carbohydrate và giảm sự dao động đường huyết sau ăn. Chỉ có vài thử nghiệm can thiệp bằng tập thể dục ở thai phụ ĐTĐ được công bố với cỡ mẫu nhỏ, nhưng đều cho thấy dường như có sự cải thiện nồng độ đường huyết (Ceysens G, 2006). Ở thai phụ ĐTĐTK thừa cân hoặc béo phì, tập thể dục cũng có thể giúp kiểm soát đường huyết. Vì vậy, một chương trình tập luyện vừa phải được khuyến cáo như là một phần của kế hoạch điều trị cho thai phụ ĐTĐTK. Họ nên tập aerobic cường độ vừa phải trong 30 phút ít nhất 5 ngày/tuần hoặc tối thiểu là 150 phút/tuần. Tập thể dục đơn giản như đi bộ 10-15 phút sau mỗi bữa ăn có giúp kiểm soát đường huyết và thường được khuyên dùng (Davenport MH, 2008). Điều trị bằng thuốc nào hiệu quả trong việc quản lý bệnh ĐTĐTK? Điều trị bằng thuốc được khuyến cáo khi không thể đạt được nồng độ đường huyết mục tiêu bằng liệu pháp dinh dưỡng và tập thể dục. Insulin được coi là phương pháp điều trị tiêu chuẩn cho những trường hợp ĐTĐTK đề kháng với liệu pháp dinh dưỡng và tập thể dục, điều này được ủng hộ bởi ADA (Diabetes Care 2017;40:S114–9). Insulin không qua nhau thai, có thể giúp kiểm soát chuyển hóa chặt chẽ và sử dụng cùng với liệu pháp dinh dưỡng nếu nồng độ đường huyết đói ≥ 95 mg/dL, sau 1 giờ ≥ 140 mg/dL hoặc sau 2 giờ ≥ 120 mg/dL. Tổng liều khởi đầu insulin là 0,7- 1,0 đơn vị/kg mỗi ngày và chia nhỏ liều. Trong trường hợp có tăng đường huyết đói và sau bữa ăn, phối hợp insulin tác dụng kéo dài hoặc trung bình với insulin tác dụng ngắn sẽ được áp dụng. Tuy nhiên, nếu chỉ có giá trị bất thường đơn lẻ vào một thời điểm cụ thể trong ngày, nên tập trung vào chế độ dùng insulin để điều chỉnh nồng độ đường huyết. Chẳng hạn, ở phụ nữ chỉ có giá trị đường huyết đói tăng cao, tiêm insulin có tác dụng trung bình như insulin NPH vào ban đêm có thể là đủ. Tương tự, ở phụ nữ chỉ có giá trị đường huyết cao sau ăn sáng, insulin tác dụng 53 THÔNG TIN CẬP NHẬT 5 ngắn trước khi ăn sáng có thể là ... p đầu tay được ADA khuyến cáo (Diabetes Care 2017; 40:S114–9). Metformin là một biguanide, ức chế quá trình tạo đường và hấp thụ đường ở gan, đồng thời kích thích sự hấp thu đường ở các mô ngoại biên. Metformin qua nhau thai với mức độ có thể bằng nồng độ của mẹ. Ảnh hưởng về chuyển hóa lâu dài đối với trẻ sau sinh không được biết; tuy nhiên, một nghiên cứu gần đây cho thấy sự phát triển của trẻ là tương tự nhau trước 2 tuổi. Sự lo lắng về nguy cơ phơi nhiễm của thai nhi tiếp xúc với metformin và không được tiếp tục theo dõi lâu dài sau sanh là một trong những lý do ADA tiếp tục khuyến cáo insulin là liệu pháp điều trị bằng thuốc đầu tay đối với ĐTĐTK (Diabetes Care 2017;40:S114–9). Trong một thử nghiệm lớn với 751 thai phụ ĐTĐTK (Rowan JA, 2008) được chỉ định điều trị insulin hoặc metformin (kèm với insulin nếu cần). Cả hai nhóm đều có tỉ lệ tương tự nhau về kết cục tổng hợp của bệnh suất chu sinh như hạ đường huyết sơ sinh, suy hô hấp, nhu cầu chiếu đèn, sang chấn sản khoa, sanh non và Apgar thấp. Trong một thử nghiệm tiền cứu, ngẫu nhiên khác (Spaulonci CP, 2013), nhóm phụ nữ ngẫu nhiên dùng metformin có nồng độ đường trung bình thấp hơn, mẹ ít tăng cân khi mang thai hơn và trẻ sơ sinh có tỷ lệ hạ đường huyết thấp hơn so với nhóm dùng insulin. Trong phân tích gộp gần đây (Balsells M, 2015), sự khác biệt giữa trẻ sơ sinh được sinh ra bởi những thai phụ được phân ngẫu nhiên dùng metformin so với insulin là rất nhỏ. Điều thú vị là thai phụ nữ dùng metformin có tỷ lệ sinh non cao hơn (tỷ số nguy cơ, 1,5), nhưng tỷ lệ cao huyết áp trong thai kỳ thấp hơn (tỷ số cơ, 0,53).8 Metformin có thể là một cách tiếp cận hợp lý đứng hàng thứ hai để điều trị ĐTĐTK, nhưng điều quan trọng là phải tư vấn cho thai phụ về những kết cục bất thường như tăng nguy cơ sinh non, thuốc qua nhau thai và thiếu dữ liệu theo dõi dài hạn ở trẻ bị 54 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 3, Tháng 11 – 2017 6 phơi nhiễm. Trong thử nghiệm tiền cứu nêu trên có từ 26%-46% thai phụ dùng metformin cần phải dùng thêm insulin. Liều dùng metformin thường bắt đầu 500 mg/đêm vào 1 tuần đầu, sau đó tăng lên 500 mg x 2/ngày. Vì metformin không được sử dụng ở bệnh nhân bệnh thận mạn tính nên creatinine thường được kiểm tra. Tác dụng phụ thường gặp nhất của metformin là đau bụng và tiêu chảy, được giảm thiểu bằng cách tăng liều dần. Những tác dụng bất lợi như vậy được báo cáo ở 2,5-45,7% thai phụ tham gia nghiên cứu điều trị bằng metformin (Balsells M, 2015) và khuyến cáo là nên dùng thuốc cùng với bữa ăn để giảm các triệu chứng. Liều tối đa thường là 2,500-3,000 mg/ngày chia thành 2-3 liều. Glyburide là một sulfonylurea liên kết với các thụ thể kênh calcium adenosine triphosphate tế bào beta tụy để làm tăng tiết insulin và tăng độ nhạy với insulin của các mô ngoại vi. Không nên sử dụng glyburide trên bệnh nhân dị ứng với sulfa. Hai phân tích gộp (Balsells M, 2015; Poolsup N, 2014) cho thấy kết cục sơ sinh xấu hơn khi điều trị ĐTĐTK với glyburide so với insulin. Trẻ sơ sinh được sinh ra bởi những phụ nữ được điều trị với glyburide có tỷ lệ hội chứng suy hô hấp, hạ đường huyết, con to và chấn thương sản khoa cao hơn, mặc dù thực tế các thử nghiệm riêng lẻ so sánh mức độ kiểm soát đường huyết giữa glyburide với insulin không cho thấy bất kỳ sự khác biệt đáng kể. Các nghiên cứu quan sát (Langer O, 2005; Jacobson GF2005) cho thấy tỷ lệ tiền sản giật, tăng bilirubin máu và thai lưu khi sử dụng glyburide cao hơn so với insulin, nhưng nhiều kết cục khác thì sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Liều thường dùng của glyburide là 2,5-20 mg/ngày và chia nhỏ liều, mặc dù các nghiên cứu về dược động học trong thời gian mang thai cho thấy liều hàng ngày có thể cần đến 30 mg để đạt được sự kiểm soát thích hợp. Ngoài ra, khoảng 4-16% (hoặc hơn) phụ nữ dùng thêm insulin để kiểm soát đường huyết khi sử dụng glyburid điều trị đầu tay. Có chỉ định đánh giá thai nhi khi thai phụ có biến chứng do ĐTĐTK? Xét nghiệm tiền sản được khuyến cáo cho những bệnh nhân ĐTĐTK. Do nguy cơ tử vong thai nhi tăng lên liên quan đến việc kiểm soát đường huyết không đạt được mức tối ưu, nên người ta cho rằng thai phụ ĐTĐ có kiểm soát đường huyết không ổn định cũng gia tăng nguy cơ này. Do đó, đánh giá thai nhi có thể mang lợi ích cho phụ nữ ĐTĐTK có đường huyết không ổn định. Ngoài ra, những thai phụ được điều trị bằng insulin hoặc thuốc uống mà đường huyết dưới mức tối ưu ở một thời điểm nào đó, cũng được khuyến cáo nên kiểm tra thai cho những bệnh nhân này (Obstet Gynecol 2014;124:182–92). Xét nghiệm thai ở thời kỳ tiền sản ở những thai phụ ĐTĐ này thường được bắt đầu ở tuần thứ 32 của thai kỳ. Nếu có các yếu tố bệnh suất khác làm tăng nguy cơ kết cục bất lợi thai, có thể bắt đầu đánh giá thai nhi sớm hơn. Các nghiên cứu không cho thấy sự gia tăng cụ thể tỷ lệ thai lưu trên thai phụ ĐTĐ A1 trước 40 tuần có đường huyết kiểm soát tốt. Vì vậy, việc xét nghiệm tiền sản cho có thể không cần thiết ở những phụ nữ này. Không có sự đồng thuận về việc xét nghiệm tiền sản cho thai phụ ĐTĐTK A1 được kiểm soát tốt đường huyết. Nếu xét nghiệm tiền sản cho thai được sử dụng ở những bệnh nhân này thì thường bắt đầu muộn hơn thai phụ nữ ĐTĐTK A2. Có thể lựa chọn xét nghiệm tiền sản và tần suất xét nghiệm chuyên biệt theo tình hình thực tế địa phương; tuy nhiên, vì đa ối có thể là hậu quả của tăng đường huyết của thai nhi, nên các bác sĩ lâm sàng thường sử dụng các xét nghiệm kết hợp với đo lượng nước ối thường xuyên. 55 THÔNG TIN CẬP NHẬT 7 Những mối quan tâm khi sanh những thai kỳ có biến chứng đái tháo đường là gì? Thai phụ ĐTĐ có đường huyết kiểm soát tốt và không kèm biến chứng khác thường được quản lý đến cuối thai kỳ. Trong hầu hết các trường hợp, thai phụ kiểm soát đường huyết tốt bằng thuốc không cần thiết phải sinh con trước 39 tuần. Thử nghiệm ngẫu nhiên GINEXMAL (Alberico S, 2017) so sánh thai phụ ĐTĐTK khởi phát chuyển dạ lúc 38 tuần so với chờ đến 41 tuần. Mặc dù nghiên cứu không đạt được cỡ mẫu dự kiến nhưng cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ sinh mổ lấy thai (12,6% so với 11,8%, P = 0,81) và nhiều kết cục khác. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng bilirubin máu ở nhóm gây khởi phát chuyển dạ cao hơn (10% so với 4,1%, P = 0,03).9 Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên trong đó thai phụ ĐTĐTK điều trị bằng insulin và thai nhi có trọng lượng phù hợp ở tuổi thai được chọn ngẫu nhiên gây khởi phát chuyển dạ lúc 38 tuần hoặc theo dõi tiếp cho thấy không có sự khác biệt trong tỷ lệ mổ lấy thai. Tuy nhiên, nhóm khởi phát chuyển dạ có tỷ lệ trẻ sơ sinh nặng cân hơn so với tuổi thai nhỏ hơn. Hơn nữa, nghiên cứu đoàn hệ nhiều giai đoạn cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ con to hoặc mổ lấy thai ở những thai phụ ĐTĐTK điều trị bằng insulin được khởi phát chuyển dạ lúc 38-39 tuần so với nhóm chứng được theo dõi sanh trong quá khứ. Kẹt vai chiếm khoảng 10% nhóm theo dõi sanh ở tuổi thai trên 40 tuần so với 1,4% ở nhóm khởi phát chuyển dạ lúc 38-39 tuần. Tuy nhiên, một nghiên cứu gần đây so sánh khởi phát chuyển dạ trước 40 tuần với theo dõi sanh cho thấy giảm tỷ lệ sanh mổ ở thai phụ ĐTĐTK được khởi phát chuyển dạ. Phân tích khác (Lurie S, 1996) cho thấy việc sinh con ở tuổi thai 38-39 tuần sẽ làm giảm tỷ lệ tử vong chu sinh mà không tăng tỷ lệ sinh mổ. Mặc dù có sức thuyết phục, nhưng những dữ liệu này vẫn chưa được xác nhận bởi những thử nghiệm ngẫu nhiên lớn. Do đó, thời điểm chấm dứt thai kỳ ở thai phụ ĐTĐTK A1 không nên trước 39 tuần trừ khi có chỉ định khác. Ở những phụ nữ như vậy, việc quản lý kéo dài đến 40 tuần 6 ngày kèm với đánh giá thai nhi được cho là thích hợp. Đối với thai phụ ĐTĐTK A2, chấm dứt thai kỳ được khuyến cáo lúc 39 tuần đến 39 tuần 6 ngày. Ngược lại, các chuyên gia ủng hộ việc chấm dứt thai kỳ sớm hơn cho thai phụ ĐTĐTK có đường huyết không kiểm soát được. Tuy nhiên, thiếu hướng dẫn rõ ràng về mức độ đường huyết nào sẽ phải sinh sớm hơn và những khuyến cáo về thời điểm chấm dứt thai kỳ cũng thiếu hướng dẫn cụ thể. Do đó, việc xem xét thời điểm chấm dứt thai kỳ nên cân bằng giữa nguy cơ non tháng và nguy cơ thai chết lưu. Những trường hợp như vậy, sinh con trong khoảng từ 37 tuần đến 38 tuần 6 ngày được cho là hợp lý, nhưng nên cho sinh từ 34 tuần đến 36 tuần cho những thai phụ nằm bệnh viện nhưng không thể kiểm soát đường huyết hoặc những người có kết quả xét nghiệm đánh giá thai bất thường. Do con to thường gặp ở thai phụ ĐTĐTK và kẹt vai thường có thể xảy ra ở bất cứ cân nặng nào của thai nhi trên thai phụ ĐTĐTK so với thai phụ không bị ĐTĐTK (Acker DB, 1985; Langer O, 1991), nên bác sĩ cần đánh giá sự tăng trưởng của thai nhi bằng siêu âm hoặc khám lâm sàng trong tam cá nguyệt thứ ba để chẩn đoán con to trên thai phụ ĐTĐTK. Mặc dù siêu âm là phương tiện phổ biến để ước lượng trọng lượng thai, nhưng một nghiên cứu gần đây (Scifres CM, 2015) cho thấy trong số những trường hợp thai được chẩn đoán là nặng cân hơn so với tuổi thai bằng siêu âm, chỉ có 22% là nặng cân hơn so với tuổi thai khi sinh. Ước tính có đến 588 được sinh mổ để ngăn ngừa một trường hợp liệt đám rối cánh tay vĩnh viễn, cho cân nặng ước lượng con khoảng 4,500g. và có đến 962 ca sinh mổ vì con ước khoảng 4.000g (Rouse DJ, 1996; Garabedian C, 2010). 56 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 3, Tháng 11 – 2017 8 Vì vậy, có thể phù hợp khi khuyến cáo rằng thai phụ ĐTĐ nên được tư vấn về nguy cơ và lợi ích của việc mổ lấy thai chủ động khi ước lượng thai từ ≥4.500g trở lên (Obstet Gynecol 2016;128:e195– 209). Hình 1. Theo dõi Đái tháo đường sau sanh Phụ nữ có tiền căn ĐTĐTK nên được theo dõi và tư vấn sau sanh như thế nào? Mặc dù tình trạng bất dung nạp carbohydrate trên thai phụ ĐTĐTK thường thoái lui sau khi sanh, nhưng có đến 1/3 thai phụ sẽ bị ĐTĐ hoặc rối loạn chuyển hoá đường trong thời kỳ hậu sản. Người ta ước lượng có 15%-70% sẽ phát triển thành ĐTĐ týp 2 về sau (Kim C, 2002; Kaaja RJ, 2005; Chodick G, 2010). Khuyến cáo tầm soát vào thời điểm từ 4–12 tuần sau sanh cho tất cả các phụ nữ có tiền căn ĐTĐTK để chẩn đoán ĐTĐ, bất thường đường huyết đói hoặc rối loạn dung nạp đường (Hình 1) (Diabetes Care 2017;40:S114–9). Hội thảo Đái tháo đường quốc tế lần 5 khuyến cáo dùng xét nghiệm dung nạp đường 75g-2 giờ để tầm soát cho thai phụ đái tháo đường trong thời kỳ hậu sản và thường làm cùng với đường huyết đói (Metzger BE, 2007). ADA và ACOG khuyến cáo xét nghiệm mỗi 1–3 năm đối với phụ nữ ĐTĐTK nhưng có các kết quả xét nghiệm tầm soát trong thời kỳ hậu sản bình thường. Đối với phụ nữ vẫn còn mong con, sàng lọc giữa các lần mang thai có thể phát hiện chuyển hóa đường bất thường để đảm bảo kiểm soát đường trước khi mang thai. Tóm tắt các khuyến cáo và kết luận Các khuyến cáo và kết luận có chứng cứ khoa học tốt và nhất quán (Mức độ A) Thai phụ ĐTĐTK nên được tư vấn đầy đủ về chế độ dinh dưỡng và tập thể dục. Nếu không kiểm soát được mức đường huyết thì điều trị bằng thuốc vì lợi ích cho mẹ và thai. Khi ĐTĐTK được chỉ định điều trị bằng thuốc, insulin nên là lựa chọn điều trị đầu tiên. 57 THÔNG TIN CẬP NHẬT 9 Các khuyến cáo và kết luận có chứng cứ khoa học giới hạn hoặc không nhất quán (Mức độ B) Tất cả thai phụ nên được sàng lọc ĐTĐTK bằng xét nghiệm sàng lọc nồng độ đường huyết. Ở thai phụ đáp ứng kém với insulin hoặc sử dụng insulin sẽ không an toàn, metformin là sự lựa chọn thích hợp thứ hai. Glyburide không được khuyến cáo là thuốc lựa chọn điều trị đầu tay vì kết quả điều trị không tối ưu bằng insulin. Khi sử dụng thuốc uống cần tư vấn cho thai phụ ĐTĐTK về việc thiếu những dữ liệu chứng minh an toàn. Thai phụ ĐTĐTK nên được tư vấn về những nguy cơ và lợi ích của việc mổ lấy thai chủ động khi ước lượng cân thai ≥ 4.500 g Các khuyến cáo và kết luận chủ yếu dựa trên sự đồng thuận và ý kiến chuyên gia (Mức độ C) Không có bằng chứng rõ ràng cho thấy giá trị ngưỡng nào của xét nghiệm đường huyết 1 giờ sau ăn tốt hơn (130 mg/dL, 135 mg/dL hoặc 140 mg/dL), bác sĩ sản khoa và các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản có thể chọn một điểm cut-off phù hợp duy nhất và nhất quán trong thực hành của họ, sử dụng các yếu tố như tỷ lệ hiện mắc ĐTĐTK trong cộng đồng khi đưa ra quyết định. Không có các thử nghiệm nào cho thấy một bộ tiêu chuẩn chẩn đoán xét nghiệm dung nạp đường 3 giờ nào là tối ưu. Các bác sỹ và các cơ sở xét nghiệm nên chọn một bộ tiêu chuẩn chẩn đoán duy nhất, nhất quán và phù hợp với dân số của mình (bộ tiêu chí của Carpenter và Coustan hoặc Nhóm Dữ liệu Đái tháo đường Quốc gia). Khi một thai phụ ĐTĐTK bắt đầu chế độ điều trị dinh dưỡng, cần phải theo dõi mức đường huyết để khẳng định đường huyết đã được kiểm soát. Trong thực tế, ba bữa ăn chính và 2-3 món ăn nhẹ được khuyến cáo nhằm mục đích kiểm soát lượng carbohydrate đưa vào và giảm sự dao động đường huyết sau ăn. Thai phụ ĐTĐ nên tập aerobic cường độ vừa phải trong 30 phút ít nhất 5 ngày trong tuần hoặc tối thiểu là 150 phút/tuần. Thời điểm chấm dứt thai kỳ ở thai phụ ĐTĐ được kiểm soát chỉ với chế độ ăn và tập thể dục (ĐTĐTK A1) không nên trước 39 tuần, trừ khi có chỉ định khác. Nói chung, theo dõi những thai phụ này cùng với xét nghiệm theo dõi thai đến 40 tuần 6 ngày là phù hợp. Đối với thai phụ ĐTĐTK được kiểm soát tốt bằng thuốc (ĐTĐTK A2), thời điểm chấm dứt thai kỳ nên từ 39 tuần đến 39 tuần 6 ngày. Khám sàng lọc lúc 4-12 tuần sau sanh được khuyến cáo cho tất cả thai phụ ĐTĐ nhằm mục đích chẩn đoán xác định bệnh đái tháo đường, bất thường đường huyết đói hoặc rối loạn dung nạp đường huyết. Phụ nữ có bất thường đường huyết đói, rối loạn dung nạp đường hoặc bệnh ĐTĐ nên được chuyển sang điều trị dự phòng hoặc điều trị bằng thuốc. ADA và ACOG khuyến cáo nên làm lại xét nghiệm 1-3 năm/lần đối với những thai phụ ĐTĐTK nhưng có kết quả tầm soát sau sinh bình thường. Tài liệu tham khảo 1. Yogev Y, Xenakis EM, Langer O. The association between pre-eclampsia and the severity of gestational diabetes: the impact of glycemic control. Am J Obstet Gynecol 2004;191:1655–60. (Level II-3) 2. Dabelea D, Hanson RL, Lindsay RS, Pettitt DJ, Imperatore G, Gabir MM, et al. Intrauterine exposure to diabetes conveys risks for type 2 diabetes and obesity: a study of discordant sibships. Diabetes 2000;49:2208–11. (Level II-2) 3. Management of diabetes in pregnancy. American Diabetes Association. Diabetes Care 2017;40:S114–9. (Level III) 4. Classification and diagnosis of diabetes. American Diabetes Association. Diabetes Care 2017;40:S11–24. (Level III)
File đính kèm:
dai_thao_duong_thai_ky.pdf

