Đặc điểm tổn thương ở trẻ mắc bệnh mô bào Langerhans tại Bệnh viện nhi Trung ương

Nghiên cứu mô tả tổn thương các cơ quan trong bệnh mô bào Langerhans ở trẻ em tại bệnh viện Nhi

Trung ương từ năm 2009 đến năm 2014. 104 trẻ được nhận vào nghiên cứu, nam chiếm 56,7%; tuổi khởi

phát thường nhỏ (tuổi trung bình 32 tháng ± 32,2 tháng). Trong các cơ quan tổn thương do bệnh mô bào

Langerhans, tổn thương xương là hay gặp nhất (73,1%); nhưng chỉ có 40,4% trẻ được chụp đủ XQ hệ

xương; trong đó, không có sự khác biệt giữa tỉ lệ bệnh nhân tổn thương xương một vị trí và đa vị trí (54,3%

so với 45,7%). Tổn thương huyết học đứng thứ 2 với 46 trường hợp (chiếm 44,2%); biểu hiện phần lớn là

thiếu máu (45/46 trẻ) và rối loạn tăng sinh trong tủy xương (38/46 trẻ). Tổn thương da hay gặp ở trẻ nhỏ

dưới 2 tuổi (82% trường hợp). Tổn thương lách chiếm khoảng 1/3 số trẻ bệnh và thường phối hợp với các rối

loạn huyết học (91,4% các trường hợp).

pdf 7 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm tổn thương ở trẻ mắc bệnh mô bào Langerhans tại Bệnh viện nhi Trung ương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm tổn thương ở trẻ mắc bệnh mô bào Langerhans tại Bệnh viện nhi Trung ương

Đặc điểm tổn thương ở trẻ mắc bệnh mô bào Langerhans tại Bệnh viện nhi Trung ương
 TCNCYH 113 (4) - 2018 53 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Địa chỉ liên hệ: Đỗ Cẩm Thanh, Trường Đại học Y Hà Nội 
Email: [email protected] 
Ngày nhận: 10/6/2018 
Ngày được chấp thuận: 15/8/2018 
ĐẶC ĐIỂM TỔN THƯƠNG Ở TRẺ MẮC BỆNH MÔ BÀO 
LANGERHANS TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG 
Đỗ Cẩm Thanh1, Bùi Ngọc Lan2, Bùi Văn Viên1 
1Trường Đại học Y Hà Nội, 2Bệnh viện Nhi Trung ương 
Nghiên cứu mô tả tổn thương các cơ quan trong bệnh mô bào Langerhans ở trẻ em tại bệnh viện Nhi 
Trung ương từ năm 2009 đến năm 2014. 104 trẻ được nhận vào nghiên cứu, nam chiếm 56,7%; tuổi khởi 
phát thường nhỏ (tuổi trung bình 32 tháng ± 32,2 tháng). Trong các cơ quan tổn thương do bệnh mô bào 
Langerhans, tổn thương xương là hay gặp nhất (73,1%); nhưng chỉ có 40,4% trẻ được chụp đủ XQ hệ 
xương; trong đó, không có sự khác biệt giữa tỉ lệ bệnh nhân tổn thương xương một vị trí và đa vị trí (54,3% 
so với 45,7%). Tổn thương huyết học đứng thứ 2 với 46 trường hợp (chiếm 44,2%); biểu hiện phần lớn là 
thiếu máu (45/46 trẻ) và rối loạn tăng sinh trong tủy xương (38/46 trẻ). Tổn thương da hay gặp ở trẻ nhỏ 
dưới 2 tuổi (82% trường hợp). Tổn thương lách chiếm khoảng 1/3 số trẻ bệnh và thường phối hợp với các rối 
loạn huyết học (91,4% các trường hợp). 
Từ khoá: bệnh mô bào, Langerhans, Bệnh viện Nhi Trung ương 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh mô bào Langerhans là một bệnh lý 
hiếm gặp với tỉ lệ mắc bệnh khoảng 2 - 7 trẻ/1 
triệu trường hợp [1]. Bệnh có thể gây tổn 
thương khu trú ở một cơ quan hoặc ảnh 
hưởng đến nhiều cơ quan quan trọng như 
gan, lách, tủy xương, phổi với diễn biến bệnh 
rất đa dạng [2; 3]. Trên thế giới đã có nhiều 
công trình nghiên cứu về chẩn đoán và điều trị 
bệnh từ những năm 1991 [4; 5]. Tuy nhiên, ở 
Việt Nam mới chỉ có một nghiên cứu hồi cứu 
năm 2011 ở thành phố Hồ Chí Minh được 
công bố [6]. Bệnh viện Nhi Trung ương điều trị 
bệnh nhân bệnh mô bào Langerhans từ năm 
2009 nhưng chưa có công trình nghiên cứu 
nào tổng kết về đặc điểm lâm sàng bệnh. Vì 
vậy, nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu 
mô tả đặc điểm tổn thương các cơ quan trong 
bệnh mô bào Langerhans tại bệnh viện Nhi 
Trung ương từ năm 2009 đến năm 2014. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng 
Bệnh Nhi dưới 18 tuổi được chẩn đoán 
bệnh mô bào Langerhans trong thời gian 
1/1/2009 - 31/10/2014 tại Khoa Huyết học, 
Bệnh viện Nhi Trung ương. 
Tiêu chuẩn chọn 
Bệnh nhân dưới 18 tuổi, được chẩn đoán 
bệnh mô bào Langerhans theo tiêu chuẩn của 
hội mô bào (1987) ở mức độ 1 và 3, gia đình 
đồng ý tham gia nghiên cứu. Mức 1: có triệu 
chứng lâm sàng điển hình của thể bệnh: 
Letterer Siwe, Hand - Schüller - Christian. 
Mức 3: Chẩn đoán xác định với nhuộm CD1a 
dương tính ở tế bào tổn thương. Mức 2 chúng 
tôi không xác định được vì không có đủ 
phương pháp nhuộm theo tiêu chuẩn. 
- Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân hồi cứu 
không đủ dữ liệu đánh giá. 
2. Phương pháp 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu 
thuận tiện. 
 54 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viện Nhi 
Trung ương. 
Mỗi bệnh nhân có một hồ sơ nghiên cứu 
tại thời điểm chẩn đoán bệnh. Hồi cứu từ 
1/1/2009 đến 30/11/2013, thông tin từ hồ sơ 
bệnh án lưu trữ. Tiến cứu từ 1/12/2013 - 
31/10/2014, khám lâm sàng và ghi nhận các 
xét nghiệm. 
Tiêu chuẩn áp dụng theo phác đồ LCH III: 
- Tổn thương xương: Tổn thương dạng 
khuyết xương trên phim chụp X-quang hệ 
xương: sọ, cột sống, các xương dài [2]. 
- Rối loạn hệ tạo máu khi thiếu máu 
(Hemoglobin < 100g/l) và/ hoặc giảm tiểu cầu 
(dưới 100G/l) và/ hoặc giảm bạch cầu (dưới 
4G/l và/ hoặc bạch cầu hạt < 1,5 G/l) và/ hoặc 
rối loạn tủy đồ (có thực bào máu hoặc rối loạn 
sinh tủy). 
- Tổn thương da: Bất kì tổn thương ban 
nào trên bệnh nhân đã được chẩn đoán xác 
định là bệnh mô bào Langerhans. 
- Tổn thương gan: gan to hoặc xét nghiệm 
rối loạn chức năng gan hoặc men gan tăng 
trên 3 lần bình thường. Tổn thương lách khi 
lách to qua khám/ siêu âm [2]. Hạch to: Hạch 
vùng cổ, nách trên 1 cm, vùng bẹn trên 1,5 
cm, các hạch ở vùng khác khi sờ thấy; xác 
định bằng khám/ siêu âm. 
- Tổn thương thần kinh: Bất thường khi 
khám kết hợp chẩn đoán hình ảnh. 
- Tổn thương phổi khi có dấu hiệu khó thở 
hoặc tổn thương điển hình trên chẩn đoán 
hình ảnh (thâm nhiễm dạng nốt hoặc dạng 
kén, nang). 
3. Xử lý số liệu 
Theo chương trình SPSS 16.0. Thuật toán 
thống kê: χ2, tính giá trị trung bình, độ lệch, 
T - test. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi 
p < 0,05. 
4. Đạo đức nghiên cứu 
Nghiên cứu phục vụ cho chẩn đoán và 
điều trị bệnh nhi mắc bệnh mô bào Langer-
hans tại Bệnh viện Nhi Trung ương. 
III. KẾT QUẢ 
1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu 
104 trẻ được nhận vào nghiên cứu, 40/104 
trẻ được chẩn đoán ở mức 1, 64/104 trẻ được 
chẩn đoán xác định bệnh ở mức 3. 
Bảng 1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu 
 Số bệnh nhân n (%) 
Giới Nam 
 Nữ 
59 (56,7%) 
45 (43,3%) 
Tuổi Dưới 2 tuổi 
Từ 2 đến 5 tuổi 
Từ 5 đến 10 
Trên 10 tuổi 
Tuổi trung bình 
(Tuổi nhỏ nhất - lớn nhất) 
53 (51%) 
37 (35,6 %) 
11 (10,6%) 
 3 (2,8 %) 
32 ± 32,2 tháng 
(51 ngày - 14,5 tuổi) 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 55 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Tỉ lệ nam/nữ là 1,3: 1 (p > 0,05). Trẻ nhỏ hơn 2 tuổi chiếm 51% các trường hợp. 
2. Triệu chứng khởi bệnh 
Bảng 2. Triệu chứng khởi bệnh 
Triệu chứng 
U phần 
mềm 
Sốt 
Đau 
xương 
Thiếu 
máu 
Ban 
sẩn 
Lồi 
mắt 
Hạch 
to 
Khác 
n = 104 38 22 14 6 5 5 5 9 
Phần trăm (%) 36,5 21,1 13,5 5,8 4,8 4,8 4,8 8,7 
Triệu chứng đầu tiên để trẻ đi khám bệnh hay gặp nhất là xuất hiện khối u phần mềm (36,5%), 
sau đó là sốt và đau xương (21,1% và 13,5%). Triệu chứng điển hình ban sẩn chỉ có 5 trường 
hợp chiếm 4,8%. 
3. Các cơ quan tổn thương trong bệnh mô bào Langerhans 
Biểu đồ 1. Các cơ quan tổn thương 
Tổn thương xương hay gặp nhất (73,1%), sau đó là rối loạn hệ tạo máu (44,2%) và tổn 
thương da (37,5%). 
4. Tổn thương xương 
Tại thời điểm chẩn đoán, 76/104 trẻ có tổn thương xương dạng khuyết xương trên X-quang. 
Trong đó, 35 trường hợp (40,4%) được chụp toàn bộ phim X-quang hệ xương; 41 trường hợp 
còn lại (59,6%) chỉ được chụp X-quang sọ hoặc vị trí tổn thương có triệu chứng trên lâm sàng. 
Trong 35 trẻ được đánh giá đủ hệ xương, tổn thương xương một vị trí là 19 trường hợp (54,3%), 
tổn thương xương nhiều vị trí là 16 trường hợp (45,7%) (p > 0,05). Thứ tự các xương tổn thương 
là xương sọ (53,8%), xương đùi (12,3%), cột sống (7,7%), xương sườn (6,2%), xương chày 
(6,2%), hốc mắt (4,6%), xương cánh tay (3,2%), các xương khác (6%). 
 56 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
5. Rối loạn hệ tạo máu 
Bảng 3. Rối loạn hệ tạo máu 
Rối loạn Có Không 
Thiếu máu (n = 104) 45 (43,3%) 59 (56,7%) 
Giảm bạch cầu (n = 104) 11 (10,6%) 93 (89,4%) 
Giảm tiểu cầu (n = 104) 15 (14,4%) 89 (85,6%) 
Tăng sinh tế bào tủy xương (n = 71) 38 (53,5%) 33 (46,5%) 
Hình ảnh thực bào máu (n = 71) 6 (8,5%) 65 (91,5%) 
Rối loạn máu ngoại vi hay gặp nhất là thiếu máu với 43,3% trẻ bệnh; rối loạn trên tủy đồ hay 
gặp là tăng sinh tủy (38/71 mẫu tủy thu được). 
6. Liên quan tổn thương lách và rối loạn hệ tạo máu 
Bảng 4. Liên quan tổn thương lách và rối loạn hệ tạo máu 
Rối loạn hệ tạo máu 
Có 
n = 35 
Không 
n = 69 
p < 0,001 
Có 32 (91,4%) 15 (21,7%) 
Không 3 (8,6%) 54 (78,3%) 
Lách to 
Lách to thường phối hợp rối loạn hệ tạo máu (91,4% trường hợp). 
7. Tổn thương da 
Bảng 5. Tổn thương da theo nhóm tuổi 
Tổn thương da 
Dưới 2 tuổi Từ 2 - 5 tuổi Trên 5 tuổi p 
Có tổn thương (n = 39) 32 (82%) 7 (18%) 0 (0%) 
< 0,05 
Không tổn thương (n = 65) 21 (32,3%) 30 (46,1%) 14 (21,5%) 
Nhóm tuổi 
Phần lớn trẻ có tổn thương da thuộc nhóm dưới 2 tuổi (82%). 
IV. BÀN LUẬN 
Bệnh mô bào Langerhans thường khởi 
phát sớm, tuổi nhỏ nhất trong nghiên cứu là 
51 ngày tuổi; 51% trẻ mắc bệnh dưới 2 tuổi. 
Một số nghiên cứu khác cũng cho kết quả 
tương tự [4; 7]. 
Trong các cơ quan tổn thương trong bệnh 
mô bào Langerhans, tổn thương xương là hay 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 57 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
gặp nhất với 73,1% các trường hợp, tương tự 
số liệu trong y văn [3]. Số trẻ bị tổn thương 
xương một vị trí không có khác biệt với số trẻ 
tổn thương xương nhiều vị trí (p > 0,05). Tuy 
nhiên, trong nghiên cứu của Stuurman 2003 
thì tỉ lệ tổn thương xương một vị trí cao hơn 
với 76%; tương tự trong nghiên cứu điều trị 
phác đồ DAL - HX (2001), Titgemeyer ghi 
nhận tỉ lệ này là 68% [5; 8]. Sự khác biệt này 
có thể do trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ 
có 40,4% bệnh nhi được chụp đủ phim X-
quang hệ xương để đánh giá tổn thương ban 
đầu. Số liệu X-quang đầy đủ đa phần các trẻ 
bị bệnh 2 năm gần đây và các trẻ được theo 
dõi tiến cứu. 
Nghiên cứu này có 44,2% trường hợp tổn 
thương hệ tạo máu, cao hơn nhiều so với 
nghiên cứu khác, tỉ lệ này dao động 7,5 -35% 
[4; 6; 7]. Gần như tất cả các trẻ có rối loạn hệ 
tạo máu đều có biểu hiện thiếu máu (45/46 
trẻ). Độ tuổi bị bệnh trong nghiên cứu đa số là 
trẻ nhỏ (dưới 2 tuổi chiếm 51%) nên thiếu 
máu thiếu sắt là chẩn đoán cần được loại trừ 
nhưng chỉ có 20/104 bệnh nhân có xét nghiệm 
ferritin tại thời điểm chẩn đoán bệnh. Đây có 
thể là lý do khiến ghi nhận rối loạn hệ tạo máu 
lúc chẩn đoán cao hơn so với thực tế. Trong 
nghiên cứu của Galluzzo phân tích trên 22 
mẫu sinh thiết tủy xương của bệnh nhân bị 
bệnh mô bào Langerhans có 31,8% tăng sinh 
tủy ít hơn 53,5% trong nghiên cứu của chúng 
tôi [9]. Vì mẫu chọc hút tủy chưa đại diện 
được tổn thương tủy xương như sinh thiết tủy 
và liên quan kĩ thuật lấy mẫu nên dẫn đến sự 
chênh lệch giữa các nghiên cứu. 
Bệnh nhân của chúng tôi tổn thương da 
chủ yếu là trẻ dưới 2 tuổi, chiếm 82% các 
bệnh nhân trong nghiên cứu, phù hợp với độ 
tuổi hay gặp tổn thương da là 0 - 4 tuổi [3]. 
Tỉ lệ trẻ có tổn thương gan trong nghiên 
cứu là 29,8%; tương đương với 27,2% ở 
nghiên cứu của Márcia và cộng sự (1988 -
2004) trên 33 trẻ nhưng cao hơn tỉ lệ 10,1% 
trong nghiên cứu 32 trung tâm huyết học của 
Pháp (1996) [4; 7]. Sự khác biệt này có thể do 
định nghĩa tổn thương gan áp dụng khác 
nhau. Với nghiên cứu của Pháp, tổn thương 
gan khi men gan và bilirubin máu cao hơn gấp 
5 lần bình thường trong khi theo LCH III, con 
số này chỉ cần hơn 3 lần bình thường [2]. 
Tổn thương lách trong nghiên cứu là 
33,7% tương đương với tỉ lệ được ghi nhận 
trong y văn [3]. Kết quả nghiên cứu cho thấy 
91,4% trường hợp tổn thương lách kèm theo 
rối loạn hệ tạo máu. Điều này khiến chúng tôi 
đặt ra câu hỏi phải chăng tổn thương lách 
trong bệnh mô bào Langerhans gây cường 
lách thứ phát hay đơn thuần là tổn thương 
thường kết hợp với rối loạn hệ tạo máu, một 
chỉ điểm lâm sàng để đi tìm tổn thương hệ tạo 
máu? Trong các y văn thì rối loạn hệ tạo máu 
là biểu hiện chính của bệnh mô bào Langer-
hans dạng nặng, các nghiên cứu chỉ ra rằng 
60 - 70% bệnh nhân chết vì bệnh mô bào 
Langerhans có rối loạn về máu. Sự xuất hiện 
đồng thời của rối loạn hệ tạo máu và tổn 
thương lách có thể là lý do tổn thương lách 
được xếp vào nhóm cơ quan nguy cơ [2; 3]. 
Tổn thương hạch trong nghiên cứu là 
16,3% nhỏ hơn so với mô tả của Motoi về 
bệnh mô bào Langerhans ở cả người lớn và 
trẻ em với 30% trường hợp [10]. Sự khác biệt 
có thể do dữ liệu nghiên cứu hồi cứu thường 
khó có thể đầy đủ. Trong nghiên cứu này, tổn 
thương phổi được xác định bằng hình ảnh CT
-scan ngực với tổn thương điển hình và chỉ 
chiếm 3,8% trường hợp. Tổn thương thần 
kinh ghi nhận trong nghiên cứu là 6,7% với 2 
 58 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
trường hợp bệnh với biểu hiện liệt chi và 5 
bệnh nhân có đái tháo nhạt tại thời điểm 
nghiên cứu. Tỉ lệ này thấp hơn so với 10% ở 
một số y văn [3]. 
IV. KẾT LUẬN 
Bệnh mô bào Langerhans thường gặp ở 
trẻ nhỏ; 51% là trẻ dưới 2 tuổi. Tổn thương 
của bệnh có thể gặp ở nhiều cơ quan trong đó 
hay gặp nhất là tổn thương xương (chiếm 
73,1%); tuy nhiên trong nghiên cứu chưa ghi 
nhận đầy đủ tổn thương cơ quan này (59,6% 
không được chụp đủ phim X-quang hệ 
xương tại thời điểm chẩn đoán). Rối loạn hệ 
tạo máu thường gặp là giảm hemoglobin 
trong máu ngoại vi (chiếm 43,3%) nhưng có 
thể nhầm lẫn với thiếu máu thiếu sắt sinh lý 
nên cần xét nghiệm ferritin thường quy tại 
thời điểm chẩn đoán. Tổn thương lách có thể 
là dấu hiệu chỉ điểm để tầm soát tổn thương 
hệ tạo máu vì tỉ lệ phối hợp hai cơ quan này 
là 91,4% các ca bệnh. 
Lời cảm ơn 
Chúng tôi xin cảm ơn các Khoa, Phòng 
Bệnh viện Nhi Trung ương cùng các gia đình 
bệnh nhi đã hỗ trợ chúng tôi hoàn thành 
nghiên cứu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Badalian-Very G., Vergilio J. A., Degar 
B. A et al (2012). Recent advances in the un-
derstanding of Langerhans cell histiocytosis. 
Br J Haematol, 156(2), 163 - 172. 
2. Gadner Helmut Grois Nicole, Minkov 
Milen (2002). LCH III- Treatment protocol of 
the third internatinal study for Langerhans 
cells histiocytosis: Histiocyte Society. 
3. Jean Donadieu R. Maarten Egeler and 
Jon Pritchard (2005). Langerhans cell histio-
cytisis: a clinical update. Cambridge University 
Press, 6, 95 - 129. 
4. Márcia Kanadani Campos Marcos Bo-
rato Viana et al (2004). Langerhans cell 
histiocytosis: a 16-year experience. Jornal de 
pediatric, 83(1), 79 - 86. 
5. Titgemeyer C., Grois N., Minkov M et 
al (2001). Pattern and course of single-system 
disease in Langerhans cell histiocytosis data 
from the DAL-HX 83- and 90-study. Med Pedi-
atr Oncol, 37(2), 108 - 114. 
6. Võ Thị Phương Mai, Quách Vĩnh 
Phúc, Đoàn Minh Trông và cộng sự (2011). 
Chẩn đoán và điều trị bệnh mô bào Langer-
hans ở trẻ em. Y học thành phố Hồ Chí Minh, 
15(4), 215. 
7. Group The French Langerhans' Cell 
Histiocytosis Study (1996). A multicentre 
retrospective survey of Langerhans' cell histio-
cytosis: 348 cases observed between 1983 
and 1993. Archives of Disease Childhood, 75, 
17 - 24. 
8. Weitzman S., and Egeler R. M (2008). 
Langerhans cell histiocytosis: update for the 
pediatrician. Curr Opin Pediatr, 20(1), 23 - 29. 
9. Galluzzo M. L., Braier J., Rosenzweig 
S. D et al (2010). Bone marrow findings at 
diagnosis in patients with multisystem 
langerhans cell histiocytosis. Pediatr Dev 
Pathol, 13(2), 101 - 106. 
10. Motoi M., Helbron D., Kaiserling E., 
et al (1980). Eosinophilic granuloma of lymph 
nodesa variant of histiocytosis X. 
Histopathology, 4(6), 585 - 606. 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 59 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Summary 
MANIFESTATIONS OF LANGERHANS CELL HISTIOCYTOSIS 
IN VIETNAM NATIONAL PEDIATRICS HOSPITAL 
Clinical features of 104 patients with Langerhans cell histiocytosis were analyzed in Vietnam 
National Hospital of Pediatrics from 2009 to 2014. The percentage of diagnosis in males was 
56.7%; the median age at diagnosis was 32 months. Bone lesions were the most frequent mani-
festation in 73.1% of patients, but only 40.4% patients had full X-rays of the skeletal system. 
There was no significant difference in the unifocal and multifocal bone involvement (54.3% vs 
45.7%). 46/104 patients had hematopoietic involvement (44.2%), 45/46 cases had anemia, 38/46 
cases had (hypercellular) in bone marrow aspiration samples. The majority of patients with skin 
involvement were under 2 years old. Spleen involvement was present in one third of patients at 
diagnosis and in most cases with spleen lesion, children had hematopoietic involvement (91.4%). 
Key words: Langerhans cell histiocytosis, Vietnam national children’s hospital 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_ton_thuong_o_tre_mac_benh_mo_bao_langerhans_tai_ben.pdf