Đặc điểm tổn thương ở trẻ mắc bệnh mô bào Langerhans tại Bệnh viện nhi Trung ương
Nghiên cứu mô tả tổn thương các cơ quan trong bệnh mô bào Langerhans ở trẻ em tại bệnh viện Nhi
Trung ương từ năm 2009 đến năm 2014. 104 trẻ được nhận vào nghiên cứu, nam chiếm 56,7%; tuổi khởi
phát thường nhỏ (tuổi trung bình 32 tháng ± 32,2 tháng). Trong các cơ quan tổn thương do bệnh mô bào
Langerhans, tổn thương xương là hay gặp nhất (73,1%); nhưng chỉ có 40,4% trẻ được chụp đủ XQ hệ
xương; trong đó, không có sự khác biệt giữa tỉ lệ bệnh nhân tổn thương xương một vị trí và đa vị trí (54,3%
so với 45,7%). Tổn thương huyết học đứng thứ 2 với 46 trường hợp (chiếm 44,2%); biểu hiện phần lớn là
thiếu máu (45/46 trẻ) và rối loạn tăng sinh trong tủy xương (38/46 trẻ). Tổn thương da hay gặp ở trẻ nhỏ
dưới 2 tuổi (82% trường hợp). Tổn thương lách chiếm khoảng 1/3 số trẻ bệnh và thường phối hợp với các rối
loạn huyết học (91,4% các trường hợp).
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm tổn thương ở trẻ mắc bệnh mô bào Langerhans tại Bệnh viện nhi Trung ương

TCNCYH 113 (4) - 2018 53 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Địa chỉ liên hệ: Đỗ Cẩm Thanh, Trường Đại học Y Hà Nội Email: [email protected] Ngày nhận: 10/6/2018 Ngày được chấp thuận: 15/8/2018 ĐẶC ĐIỂM TỔN THƯƠNG Ở TRẺ MẮC BỆNH MÔ BÀO LANGERHANS TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG Đỗ Cẩm Thanh1, Bùi Ngọc Lan2, Bùi Văn Viên1 1Trường Đại học Y Hà Nội, 2Bệnh viện Nhi Trung ương Nghiên cứu mô tả tổn thương các cơ quan trong bệnh mô bào Langerhans ở trẻ em tại bệnh viện Nhi Trung ương từ năm 2009 đến năm 2014. 104 trẻ được nhận vào nghiên cứu, nam chiếm 56,7%; tuổi khởi phát thường nhỏ (tuổi trung bình 32 tháng ± 32,2 tháng). Trong các cơ quan tổn thương do bệnh mô bào Langerhans, tổn thương xương là hay gặp nhất (73,1%); nhưng chỉ có 40,4% trẻ được chụp đủ XQ hệ xương; trong đó, không có sự khác biệt giữa tỉ lệ bệnh nhân tổn thương xương một vị trí và đa vị trí (54,3% so với 45,7%). Tổn thương huyết học đứng thứ 2 với 46 trường hợp (chiếm 44,2%); biểu hiện phần lớn là thiếu máu (45/46 trẻ) và rối loạn tăng sinh trong tủy xương (38/46 trẻ). Tổn thương da hay gặp ở trẻ nhỏ dưới 2 tuổi (82% trường hợp). Tổn thương lách chiếm khoảng 1/3 số trẻ bệnh và thường phối hợp với các rối loạn huyết học (91,4% các trường hợp). Từ khoá: bệnh mô bào, Langerhans, Bệnh viện Nhi Trung ương I. ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh mô bào Langerhans là một bệnh lý hiếm gặp với tỉ lệ mắc bệnh khoảng 2 - 7 trẻ/1 triệu trường hợp [1]. Bệnh có thể gây tổn thương khu trú ở một cơ quan hoặc ảnh hưởng đến nhiều cơ quan quan trọng như gan, lách, tủy xương, phổi với diễn biến bệnh rất đa dạng [2; 3]. Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về chẩn đoán và điều trị bệnh từ những năm 1991 [4; 5]. Tuy nhiên, ở Việt Nam mới chỉ có một nghiên cứu hồi cứu năm 2011 ở thành phố Hồ Chí Minh được công bố [6]. Bệnh viện Nhi Trung ương điều trị bệnh nhân bệnh mô bào Langerhans từ năm 2009 nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào tổng kết về đặc điểm lâm sàng bệnh. Vì vậy, nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu mô tả đặc điểm tổn thương các cơ quan trong bệnh mô bào Langerhans tại bệnh viện Nhi Trung ương từ năm 2009 đến năm 2014. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Bệnh Nhi dưới 18 tuổi được chẩn đoán bệnh mô bào Langerhans trong thời gian 1/1/2009 - 31/10/2014 tại Khoa Huyết học, Bệnh viện Nhi Trung ương. Tiêu chuẩn chọn Bệnh nhân dưới 18 tuổi, được chẩn đoán bệnh mô bào Langerhans theo tiêu chuẩn của hội mô bào (1987) ở mức độ 1 và 3, gia đình đồng ý tham gia nghiên cứu. Mức 1: có triệu chứng lâm sàng điển hình của thể bệnh: Letterer Siwe, Hand - Schüller - Christian. Mức 3: Chẩn đoán xác định với nhuộm CD1a dương tính ở tế bào tổn thương. Mức 2 chúng tôi không xác định được vì không có đủ phương pháp nhuộm theo tiêu chuẩn. - Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân hồi cứu không đủ dữ liệu đánh giá. 2. Phương pháp Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu thuận tiện. 54 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viện Nhi Trung ương. Mỗi bệnh nhân có một hồ sơ nghiên cứu tại thời điểm chẩn đoán bệnh. Hồi cứu từ 1/1/2009 đến 30/11/2013, thông tin từ hồ sơ bệnh án lưu trữ. Tiến cứu từ 1/12/2013 - 31/10/2014, khám lâm sàng và ghi nhận các xét nghiệm. Tiêu chuẩn áp dụng theo phác đồ LCH III: - Tổn thương xương: Tổn thương dạng khuyết xương trên phim chụp X-quang hệ xương: sọ, cột sống, các xương dài [2]. - Rối loạn hệ tạo máu khi thiếu máu (Hemoglobin < 100g/l) và/ hoặc giảm tiểu cầu (dưới 100G/l) và/ hoặc giảm bạch cầu (dưới 4G/l và/ hoặc bạch cầu hạt < 1,5 G/l) và/ hoặc rối loạn tủy đồ (có thực bào máu hoặc rối loạn sinh tủy). - Tổn thương da: Bất kì tổn thương ban nào trên bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định là bệnh mô bào Langerhans. - Tổn thương gan: gan to hoặc xét nghiệm rối loạn chức năng gan hoặc men gan tăng trên 3 lần bình thường. Tổn thương lách khi lách to qua khám/ siêu âm [2]. Hạch to: Hạch vùng cổ, nách trên 1 cm, vùng bẹn trên 1,5 cm, các hạch ở vùng khác khi sờ thấy; xác định bằng khám/ siêu âm. - Tổn thương thần kinh: Bất thường khi khám kết hợp chẩn đoán hình ảnh. - Tổn thương phổi khi có dấu hiệu khó thở hoặc tổn thương điển hình trên chẩn đoán hình ảnh (thâm nhiễm dạng nốt hoặc dạng kén, nang). 3. Xử lý số liệu Theo chương trình SPSS 16.0. Thuật toán thống kê: χ2, tính giá trị trung bình, độ lệch, T - test. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05. 4. Đạo đức nghiên cứu Nghiên cứu phục vụ cho chẩn đoán và điều trị bệnh nhi mắc bệnh mô bào Langer- hans tại Bệnh viện Nhi Trung ương. III. KẾT QUẢ 1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu 104 trẻ được nhận vào nghiên cứu, 40/104 trẻ được chẩn đoán ở mức 1, 64/104 trẻ được chẩn đoán xác định bệnh ở mức 3. Bảng 1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu Số bệnh nhân n (%) Giới Nam Nữ 59 (56,7%) 45 (43,3%) Tuổi Dưới 2 tuổi Từ 2 đến 5 tuổi Từ 5 đến 10 Trên 10 tuổi Tuổi trung bình (Tuổi nhỏ nhất - lớn nhất) 53 (51%) 37 (35,6 %) 11 (10,6%) 3 (2,8 %) 32 ± 32,2 tháng (51 ngày - 14,5 tuổi) TCNCYH 113 (4) - 2018 55 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Tỉ lệ nam/nữ là 1,3: 1 (p > 0,05). Trẻ nhỏ hơn 2 tuổi chiếm 51% các trường hợp. 2. Triệu chứng khởi bệnh Bảng 2. Triệu chứng khởi bệnh Triệu chứng U phần mềm Sốt Đau xương Thiếu máu Ban sẩn Lồi mắt Hạch to Khác n = 104 38 22 14 6 5 5 5 9 Phần trăm (%) 36,5 21,1 13,5 5,8 4,8 4,8 4,8 8,7 Triệu chứng đầu tiên để trẻ đi khám bệnh hay gặp nhất là xuất hiện khối u phần mềm (36,5%), sau đó là sốt và đau xương (21,1% và 13,5%). Triệu chứng điển hình ban sẩn chỉ có 5 trường hợp chiếm 4,8%. 3. Các cơ quan tổn thương trong bệnh mô bào Langerhans Biểu đồ 1. Các cơ quan tổn thương Tổn thương xương hay gặp nhất (73,1%), sau đó là rối loạn hệ tạo máu (44,2%) và tổn thương da (37,5%). 4. Tổn thương xương Tại thời điểm chẩn đoán, 76/104 trẻ có tổn thương xương dạng khuyết xương trên X-quang. Trong đó, 35 trường hợp (40,4%) được chụp toàn bộ phim X-quang hệ xương; 41 trường hợp còn lại (59,6%) chỉ được chụp X-quang sọ hoặc vị trí tổn thương có triệu chứng trên lâm sàng. Trong 35 trẻ được đánh giá đủ hệ xương, tổn thương xương một vị trí là 19 trường hợp (54,3%), tổn thương xương nhiều vị trí là 16 trường hợp (45,7%) (p > 0,05). Thứ tự các xương tổn thương là xương sọ (53,8%), xương đùi (12,3%), cột sống (7,7%), xương sườn (6,2%), xương chày (6,2%), hốc mắt (4,6%), xương cánh tay (3,2%), các xương khác (6%). 56 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 5. Rối loạn hệ tạo máu Bảng 3. Rối loạn hệ tạo máu Rối loạn Có Không Thiếu máu (n = 104) 45 (43,3%) 59 (56,7%) Giảm bạch cầu (n = 104) 11 (10,6%) 93 (89,4%) Giảm tiểu cầu (n = 104) 15 (14,4%) 89 (85,6%) Tăng sinh tế bào tủy xương (n = 71) 38 (53,5%) 33 (46,5%) Hình ảnh thực bào máu (n = 71) 6 (8,5%) 65 (91,5%) Rối loạn máu ngoại vi hay gặp nhất là thiếu máu với 43,3% trẻ bệnh; rối loạn trên tủy đồ hay gặp là tăng sinh tủy (38/71 mẫu tủy thu được). 6. Liên quan tổn thương lách và rối loạn hệ tạo máu Bảng 4. Liên quan tổn thương lách và rối loạn hệ tạo máu Rối loạn hệ tạo máu Có n = 35 Không n = 69 p < 0,001 Có 32 (91,4%) 15 (21,7%) Không 3 (8,6%) 54 (78,3%) Lách to Lách to thường phối hợp rối loạn hệ tạo máu (91,4% trường hợp). 7. Tổn thương da Bảng 5. Tổn thương da theo nhóm tuổi Tổn thương da Dưới 2 tuổi Từ 2 - 5 tuổi Trên 5 tuổi p Có tổn thương (n = 39) 32 (82%) 7 (18%) 0 (0%) < 0,05 Không tổn thương (n = 65) 21 (32,3%) 30 (46,1%) 14 (21,5%) Nhóm tuổi Phần lớn trẻ có tổn thương da thuộc nhóm dưới 2 tuổi (82%). IV. BÀN LUẬN Bệnh mô bào Langerhans thường khởi phát sớm, tuổi nhỏ nhất trong nghiên cứu là 51 ngày tuổi; 51% trẻ mắc bệnh dưới 2 tuổi. Một số nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự [4; 7]. Trong các cơ quan tổn thương trong bệnh mô bào Langerhans, tổn thương xương là hay TCNCYH 113 (4) - 2018 57 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC gặp nhất với 73,1% các trường hợp, tương tự số liệu trong y văn [3]. Số trẻ bị tổn thương xương một vị trí không có khác biệt với số trẻ tổn thương xương nhiều vị trí (p > 0,05). Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Stuurman 2003 thì tỉ lệ tổn thương xương một vị trí cao hơn với 76%; tương tự trong nghiên cứu điều trị phác đồ DAL - HX (2001), Titgemeyer ghi nhận tỉ lệ này là 68% [5; 8]. Sự khác biệt này có thể do trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 40,4% bệnh nhi được chụp đủ phim X- quang hệ xương để đánh giá tổn thương ban đầu. Số liệu X-quang đầy đủ đa phần các trẻ bị bệnh 2 năm gần đây và các trẻ được theo dõi tiến cứu. Nghiên cứu này có 44,2% trường hợp tổn thương hệ tạo máu, cao hơn nhiều so với nghiên cứu khác, tỉ lệ này dao động 7,5 -35% [4; 6; 7]. Gần như tất cả các trẻ có rối loạn hệ tạo máu đều có biểu hiện thiếu máu (45/46 trẻ). Độ tuổi bị bệnh trong nghiên cứu đa số là trẻ nhỏ (dưới 2 tuổi chiếm 51%) nên thiếu máu thiếu sắt là chẩn đoán cần được loại trừ nhưng chỉ có 20/104 bệnh nhân có xét nghiệm ferritin tại thời điểm chẩn đoán bệnh. Đây có thể là lý do khiến ghi nhận rối loạn hệ tạo máu lúc chẩn đoán cao hơn so với thực tế. Trong nghiên cứu của Galluzzo phân tích trên 22 mẫu sinh thiết tủy xương của bệnh nhân bị bệnh mô bào Langerhans có 31,8% tăng sinh tủy ít hơn 53,5% trong nghiên cứu của chúng tôi [9]. Vì mẫu chọc hút tủy chưa đại diện được tổn thương tủy xương như sinh thiết tủy và liên quan kĩ thuật lấy mẫu nên dẫn đến sự chênh lệch giữa các nghiên cứu. Bệnh nhân của chúng tôi tổn thương da chủ yếu là trẻ dưới 2 tuổi, chiếm 82% các bệnh nhân trong nghiên cứu, phù hợp với độ tuổi hay gặp tổn thương da là 0 - 4 tuổi [3]. Tỉ lệ trẻ có tổn thương gan trong nghiên cứu là 29,8%; tương đương với 27,2% ở nghiên cứu của Márcia và cộng sự (1988 - 2004) trên 33 trẻ nhưng cao hơn tỉ lệ 10,1% trong nghiên cứu 32 trung tâm huyết học của Pháp (1996) [4; 7]. Sự khác biệt này có thể do định nghĩa tổn thương gan áp dụng khác nhau. Với nghiên cứu của Pháp, tổn thương gan khi men gan và bilirubin máu cao hơn gấp 5 lần bình thường trong khi theo LCH III, con số này chỉ cần hơn 3 lần bình thường [2]. Tổn thương lách trong nghiên cứu là 33,7% tương đương với tỉ lệ được ghi nhận trong y văn [3]. Kết quả nghiên cứu cho thấy 91,4% trường hợp tổn thương lách kèm theo rối loạn hệ tạo máu. Điều này khiến chúng tôi đặt ra câu hỏi phải chăng tổn thương lách trong bệnh mô bào Langerhans gây cường lách thứ phát hay đơn thuần là tổn thương thường kết hợp với rối loạn hệ tạo máu, một chỉ điểm lâm sàng để đi tìm tổn thương hệ tạo máu? Trong các y văn thì rối loạn hệ tạo máu là biểu hiện chính của bệnh mô bào Langer- hans dạng nặng, các nghiên cứu chỉ ra rằng 60 - 70% bệnh nhân chết vì bệnh mô bào Langerhans có rối loạn về máu. Sự xuất hiện đồng thời của rối loạn hệ tạo máu và tổn thương lách có thể là lý do tổn thương lách được xếp vào nhóm cơ quan nguy cơ [2; 3]. Tổn thương hạch trong nghiên cứu là 16,3% nhỏ hơn so với mô tả của Motoi về bệnh mô bào Langerhans ở cả người lớn và trẻ em với 30% trường hợp [10]. Sự khác biệt có thể do dữ liệu nghiên cứu hồi cứu thường khó có thể đầy đủ. Trong nghiên cứu này, tổn thương phổi được xác định bằng hình ảnh CT -scan ngực với tổn thương điển hình và chỉ chiếm 3,8% trường hợp. Tổn thương thần kinh ghi nhận trong nghiên cứu là 6,7% với 2 58 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC trường hợp bệnh với biểu hiện liệt chi và 5 bệnh nhân có đái tháo nhạt tại thời điểm nghiên cứu. Tỉ lệ này thấp hơn so với 10% ở một số y văn [3]. IV. KẾT LUẬN Bệnh mô bào Langerhans thường gặp ở trẻ nhỏ; 51% là trẻ dưới 2 tuổi. Tổn thương của bệnh có thể gặp ở nhiều cơ quan trong đó hay gặp nhất là tổn thương xương (chiếm 73,1%); tuy nhiên trong nghiên cứu chưa ghi nhận đầy đủ tổn thương cơ quan này (59,6% không được chụp đủ phim X-quang hệ xương tại thời điểm chẩn đoán). Rối loạn hệ tạo máu thường gặp là giảm hemoglobin trong máu ngoại vi (chiếm 43,3%) nhưng có thể nhầm lẫn với thiếu máu thiếu sắt sinh lý nên cần xét nghiệm ferritin thường quy tại thời điểm chẩn đoán. Tổn thương lách có thể là dấu hiệu chỉ điểm để tầm soát tổn thương hệ tạo máu vì tỉ lệ phối hợp hai cơ quan này là 91,4% các ca bệnh. Lời cảm ơn Chúng tôi xin cảm ơn các Khoa, Phòng Bệnh viện Nhi Trung ương cùng các gia đình bệnh nhi đã hỗ trợ chúng tôi hoàn thành nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Badalian-Very G., Vergilio J. A., Degar B. A et al (2012). Recent advances in the un- derstanding of Langerhans cell histiocytosis. Br J Haematol, 156(2), 163 - 172. 2. Gadner Helmut Grois Nicole, Minkov Milen (2002). LCH III- Treatment protocol of the third internatinal study for Langerhans cells histiocytosis: Histiocyte Society. 3. Jean Donadieu R. Maarten Egeler and Jon Pritchard (2005). Langerhans cell histio- cytisis: a clinical update. Cambridge University Press, 6, 95 - 129. 4. Márcia Kanadani Campos Marcos Bo- rato Viana et al (2004). Langerhans cell histiocytosis: a 16-year experience. Jornal de pediatric, 83(1), 79 - 86. 5. Titgemeyer C., Grois N., Minkov M et al (2001). Pattern and course of single-system disease in Langerhans cell histiocytosis data from the DAL-HX 83- and 90-study. Med Pedi- atr Oncol, 37(2), 108 - 114. 6. Võ Thị Phương Mai, Quách Vĩnh Phúc, Đoàn Minh Trông và cộng sự (2011). Chẩn đoán và điều trị bệnh mô bào Langer- hans ở trẻ em. Y học thành phố Hồ Chí Minh, 15(4), 215. 7. Group The French Langerhans' Cell Histiocytosis Study (1996). A multicentre retrospective survey of Langerhans' cell histio- cytosis: 348 cases observed between 1983 and 1993. Archives of Disease Childhood, 75, 17 - 24. 8. Weitzman S., and Egeler R. M (2008). Langerhans cell histiocytosis: update for the pediatrician. Curr Opin Pediatr, 20(1), 23 - 29. 9. Galluzzo M. L., Braier J., Rosenzweig S. D et al (2010). Bone marrow findings at diagnosis in patients with multisystem langerhans cell histiocytosis. Pediatr Dev Pathol, 13(2), 101 - 106. 10. Motoi M., Helbron D., Kaiserling E., et al (1980). Eosinophilic granuloma of lymph nodesa variant of histiocytosis X. Histopathology, 4(6), 585 - 606. TCNCYH 113 (4) - 2018 59 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Summary MANIFESTATIONS OF LANGERHANS CELL HISTIOCYTOSIS IN VIETNAM NATIONAL PEDIATRICS HOSPITAL Clinical features of 104 patients with Langerhans cell histiocytosis were analyzed in Vietnam National Hospital of Pediatrics from 2009 to 2014. The percentage of diagnosis in males was 56.7%; the median age at diagnosis was 32 months. Bone lesions were the most frequent mani- festation in 73.1% of patients, but only 40.4% patients had full X-rays of the skeletal system. There was no significant difference in the unifocal and multifocal bone involvement (54.3% vs 45.7%). 46/104 patients had hematopoietic involvement (44.2%), 45/46 cases had anemia, 38/46 cases had (hypercellular) in bone marrow aspiration samples. The majority of patients with skin involvement were under 2 years old. Spleen involvement was present in one third of patients at diagnosis and in most cases with spleen lesion, children had hematopoietic involvement (91.4%). Key words: Langerhans cell histiocytosis, Vietnam national children’s hospital
File đính kèm:
dac_diem_ton_thuong_o_tre_mac_benh_mo_bao_langerhans_tai_ben.pdf