Đặc điểm thực vật rừng nhiệt đới gió mùa Việt Nam

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Bán đảo Đông Dương là một phần của khu vực Đông Nam Á, bao gồm lãnh

thổ 3 quốc gia: Việt Nam, Lào và Campuchia. Đây là một trong số không nhiều

trung tâm phát sinh loài thực vật trên thế giới, bao gồm cả các đơn vị phân loại bậc

cao. Sự đa dạng sinh học ở khu vực này rất cần được bảo vệ, trước tiên là bảo vệ

môi trường thực vật đặc trưng của các hệ sinh thái rừng. Trong điều kiện biến đổi

khí hậu toàn cầu hiện nay và sự gia tăng áp lực của các hoạt động nhân sinh, việc thu

thập những kiến thức khoa học về tổ chức không gian và chức năng của hệ sinh thái

tự nhiên nguyên sinh ngày càng cấp thiết.

pdf 13 trang phuongnguyen 1500
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm thực vật rừng nhiệt đới gió mùa Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm thực vật rừng nhiệt đới gió mùa Việt Nam

Đặc điểm thực vật rừng nhiệt đới gió mùa Việt Nam
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 01, 12 - 2012 28 
ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT RỪNG NHIỆT ĐỚI GIÓ MÙA VIỆT NAM 
KUZNETSOV A.N, NGUYỄN ĐĂNG HỘI, PHAN LƯƠNG, KUZNETSOVA S.P 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bán đảo Đông Dương là một phần của khu vực Đông Nam Á, bao gồm lãnh 
thổ 3 quốc gia: Việt Nam, Lào và Campuchia. Đây là một trong số không nhiều 
trung tâm phát sinh loài thực vật trên thế giới, bao gồm cả các đơn vị phân loại bậc 
cao. Sự đa dạng sinh học ở khu vực này rất cần được bảo vệ, trước tiên là bảo vệ 
môi trường thực vật đặc trưng của các hệ sinh thái rừng. Trong điều kiện biến đổi 
khí hậu toàn cầu hiện nay và sự gia tăng áp lực của các hoạt động nhân sinh, việc thu 
thập những kiến thức khoa học về tổ chức không gian và chức năng của hệ sinh thái 
tự nhiên nguyên sinh ngày càng cấp thiết. 
Trước đây, nghiên cứu thực vật ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào các nội 
dung về phân loại và những tổng quan về hệ thực vật địa phương [2], [10], [11], 
[12], [13], [14], [28]. Tuy nhiên, trong nhiều công trình đã công bố còn có những 
điểm chưa chính xác, một số thông tin về thành phần loài trong quần xã thực vật 
còn bị nhầm lẫn. Bên cạnh đó, đến nay vẫn chưa xác lập được cơ sở khoa học vững 
chắc về tổ chức cấu trúc, chức năng của hệ sinh thái rừng nhiệt đới khu vực Đông 
Dương. Dù vậy, những nghiên cứu theo hướng này đã được Ashton tiến hành ở 
vùng nhiệt đới của Cựu thế giới và ông đã nhấn mạnh sự cần thiết nghiên cứu sâu 
về đặc điểm sinh học thực vật rừng, đặc biệt là đối với những loài cây gỗ tham gia 
thành tạo quần xã [1]. 
Ở Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung, có rất ít các nghiên cứu 
làm rõ về đặc điểm hình thành và chức năng của rừng nhiệt đới gió mùa. Trong khi 
đó, những nghiên cứu theo hướng này cho phép giải quyết được một số nhiệm vụ 
trong thực tiễn như phục hồi, khai thác, sử dụng hợp lý và bảo vệ nguồn tài nguyên 
rừng nhiệt đới gió mùa. Việc đẩy mạnh khai thác nguồn tài nguyên rừng đã làm 
gia tăng rối loạn nguồn gen, làm mất đi một phần rừng nhiệt đới chỉ trong vòng 
một thế hệ con người và điều này cũng đã được khẳng định nhiều lần trong các 
công ước quốc tế. 
Ở khu vực đồng bằng miền Nam Việt Nam cũng như các đồng bằng, bình 
nguyên khác của Đông Dương, rừng cây họ Dầu Dipterocarpaceae chiếm ưu thế [9], 
[15]. Trước những năm 50 của thế kỷ 20, rừng cây họ Dầu chiếm diện tích rộng lớn 
ở Việt Nam [1], [12] trên các đai độ cao dưới 700 m. Đây là tấm thảm thực vật che 
phủ cho các khu vực đồng bằng trên nền phiến sét và cao nguyên bazan. Như vậy, 
lãnh thổ Việt Nam là mô hình đại diện để nghiên cứu về phát triển của thực vật rừng 
Đông Dương và phần lục địa Đông Nam Á. 
Trên cơ sở số liệu nghiên cứu trong nhiều năm, bài báo tập trung bàn luận một 
số vấn đề về đặc điểm tổ chức cấu trúc, chức năng và chu kỳ năm (hiện tượng học) 
của rừng nhiệt đới gió mùa đồng bằng Đông Dương, cũng như các vấn đề về phân 
loại và điều kiện tái sinh của rừng. 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 01, 12 - 2012 29 
II. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Bài báo sử dụng số liệu nghiên cứu trong nhiều năm được tiến hành tại trạm 
sinh thái Mã Đà (1989 - 1995, 2001 - 2010), trong các kiểu rừng cây họ Dầu thân 
cao đồng bằng (cách TP Hồ Chí Minh 120 km về phía Đông Bắc); rừng đồng bằng 
Cát Tiên (cách TP Hồ Chí Minh 180 km về phía Đông Bắc) và rừng trên dãy núi cao 
Hoàng Liên Sơn (cách thủ đô Hà Nội 350 km về phía Bắc). Các nghiên cứu cũng 
được tiến hành tại những vùng chịu tác động của hoạt động nhân sinh, trong đó có 
tác động của chất diệt cỏ, bom napan do quân đội Mỹ sử dụng trong thời gian chiến 
tranh Đông Dương lần 2 [6], [17], [19], [20], [22], [23], [24]. 
Trên cơ sở cách tiếp cận nhất quán, tổng hợp về sinh học quần xã [16], đã tiến 
hành nghiên cứu: thành phần loài, cấu trúc đứng và ngang quần xã thực vật rừng, 
đặc điểm sinh học thực vật rừng, động học của thảm lá và gỗ, đặc điểm hình thái và 
thủy văn đất rừng, vi khí hậu dưới tán rừng. 
Đã xây dựng sơ đồ đặc thù định loại tại thực địa cho các dạng thực vật khác nhau 
như cây gỗ, dây leo và thực vật bán bì sinh có các cơ quan tự dưỡng (quang hợp) và sinh 
dưỡng (bộ rễ) cách mặt đất về cao độ đến 50 m như một nhiệm vụ độc lập về phương pháp. 
Để xác định thuộc tính loài, đã mở rộng tổ hợp các dấu hiệu nhận biết, bao 
gồm các dấu hiệu hình thái chung của thân cây, màu sắc vỏ, mặt cắt của vỏ cây và 
gỗ, mùi, màu sắc và độ đặc quánh của nhựa cây. Bằng số liệu của 60 loài cây gỗ và 
dây leo phổ biến, đã xây dựng một quy trình xác định có tính đến hình dạng, kích 
thước của lá, các đặc trưng chi tiết của phiến lá, thậm chí hình vẽ chi tiết một số 
dạng gân lá khác nhau, mùi của lá (khi vò nhàu) và mật độ lá [19]. 
Trong đặc điểm cấu trúc đứng của rừng, việc phân chia rừng thành các tầng 
được dựa trên cơ sở hệ thống phân loại cổ điển các dạng sống cơ bản của thực vật. 
Theo đó, rừng nhiệt đới gió mùa được phân thành 2 tầng cơ bản: tầng cây gỗ và tầng 
thân thảo. Tầng cây gỗ được chúng tôi phân thành một số phân tầng đặc trưng cho 
cấu trúc đứng của cây gỗ rừng. Cấu trúc đứng của rừng được trình bày dưới dạng 
các biểu đồ mặt cắt, được coi như chân dung của rừng. Cơ sở để xây dựng những 
cấu trúc đó là mô tả chi tiết đặc điểm địa thực vật theo các tuyến khảo sát khác nhau, 
tại những ô tiêu chuẩn cố định và tạm thời có kích thước khác nhau. 
Đã xây dựng và mô tả trên 200 biểu đồ mặt cắt đứng của một số rừng Việt 
Nam, được tạo thành trên những yếu tố địa hình khác nhau từ Bắc vào Nam, từ vùng 
ven biển đến các sườn núi có độ cao đến 2.900 m. 
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Đa dạng hệ thực vật 
Sự đa dạng của rừng Việt Nam được tạo ra nhờ có lãnh thổ trải dài 1650 km 
theo kinh độ (Thái Văn Trừng, 1962, Vũ Tự Lập, 1980). Lãnh thổ được ngăn cách 
với khối không khí lục địa từ phía tây bởi dãy Trường Sơn (chiều dài 600 km, cao 
1.200 - 1.900 m, đôi khi có các đỉnh cao tới 2.600 m). Với địa thế phía Tây là vùng 
đồng bằng rộng lớn của Lào, Campuchia và phía Đông là đại dương làm cho khu 
vực có sự tương tác giữa các khối không khí của lục địa và đại dương, đồng thời tạo 
nên các tiểu vùng khí hậu đan xen nhau. Cùng với điều kiện địa lý, đây là nguyên 
nhân hình thành tính đa dạng cao của lớp phủ thảm thực vật. 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 01, 12 - 2012 30 
Trong thành phần khu hệ rừng Việt Nam đã ghi nhận được trên 7.050 loài thực 
vật thuộc các dạng khác nhau. Trong đó cây gỗ có 3.140 loài (44,5%), cây thân thảo 
trên đất 1.660 loài (23,5%), dây leo 1.310 loài (18,6%), bì sinh 844 loài (11,9%), cây 
ký sinh 66 loài (0,9%), bán bì sinh 31 loài (0,4%) [20]. Tổng số loài thực vật ở Việt 
Nam được đánh giá là hơn 10 nghìn loài [2]. So sánh hệ thực vật rừng của Việt Nam 
với khu vực lân cận Đông Dương và Nam Trung Quốc (Vân Nam, Nam Tứ Xuyên) 
cho thấy tính đồng nhất tiến hóa của sự hình thành thảm thực vật trong khu vực này 
của lục địa Á - Âu. Các hệ thực vật có sự tương đồng về tính đa dạng các đơn vị 
phân loại và có sự gần gũi về bậc phân loại họ, chi (đôi khi đến loài). 
Các thông số khí hậu địa phương, cảnh quan và kiểu sinh thái thổ nhưỡng là 
những yếu tố hình thành nên sự đa dạng loài cây gỗ rừng [6], [12], [19], [22], [23]. 
Trong thành phần rừng cây họ Dầu thân cao ở đồng bằng phát triển trên nền đất 
feralite tầng dày, có tới trên 400 loài cây gỗ [19]. Trong rừng cây gỗ đó, đã ghi nhận 
ưu thế của các đại diện thuộc họ Anacardiaceae, Burseraceae (Canarium), 
Combretaceae (Terminalia), Dipterocarpaceae (Dipterocarpus, Hopea, Shorea), 
Elaeocarpaceae (Elaeocarpus), Ericaceae (Rhododendron), Euphorbiaceae, 
Fagaceae (Lithocarpus, Quercus), Lauraceae, Lythraceae (Lagerstroemia), 
Meliaceae (Aglaia), Myrtaceae, Rhizophoraceae (Rhizophora), Sapindaceae, 
Sapotaceae. Đại diện và chiếm ưu thế là 53 loài thuộc 34 chi của 19 họ [21]. 
Việc so sánh thành phần loài những khu rừng phân bố trên các vùng địa lý khác 
nhau về kinh độ và vĩ độ đã làm rõ được đặc trưng riêng của thành phần loài các quần 
xã rừng nguyên sinh mà điều kiện của nó là rừng, với tư cách là một hình thái thực vật 
đã được hình thành trên lãnh thổ Việt Nam từ rất lâu trong lịch sử. Nguyên nhân của 
hiện tượng này là quá trình biến đổi liên tục lớp phủ thực vật - hệ quả của việc tiến thoái 
nhiều lần của biển và sự tạo sơn trong kỷ Jura và Creta, trên nền nhiệt độ dương và 
không có băng giá trên сác vùng núi. Thời gian và sự hình thành khả năng thích nghi 
của thực vật với điều kiện tự nhiên và đồng thích nghi với môi trường thực vật của mình 
là các yếu tố quyết định khả năng bảo tồn các loài nguyên cổ cũng như hình thành các 
loài mới, trong đó có những loài đặc hữu. Sự hiện diện của các loài cổ xưa ở các bậc 
phân loại khác nhau cho thấy hệ thực vật rừng Việt Nam có tuổi tiến hoá rất lâu: loài ở 
đại trung sinh Mezozoi (Pinus (syn. Ducampopinus) krempfii), chi (Amentotaxus, 
Angiopteris, Cephalotaxus, Cyathea, Cycas, Keteleeria, Liquidambar, Liriodendron) và 
họ (Amentotaxaceae, Cephalotaxaceae, Cyatheaceae, Cycadaceae, Marattiaceae) [12]. 
3.2. Cấu trúc đứng của rừng 
Trong quá trình hình thành hệ thực vật và cấu trúc nguyên sinh, các cánh rừng 
nhiệt đới gió mùa là những hệ thống sinh học phức tạp có cấu trúc đứng đặc thù. 
Trong một đai độ cao cụ thể, một số loài cây gỗ hình thành nên các phân tầng nhất 
định. Trong không gian rừng, khoảng biến thiên về độ cao của các cây tạo nên mỗi 
phân tầng dưới phụ thuộc vào mức độ phát triển của các phân tầng trên, cũng như 
phụ thuộc vào độ khép tán, đường kính và hình dạng tán lá. Thông thường, phân 
tầng trên cùng (phân tầng 1) không khép tán; phân tầng 2 phát triển tốt và khép tán; 
phân tầng 3 có tính phân mảnh và phân tầng dưới cùng (phân tầng 4) lại phát triển 
tốt. Theo số liệu của chúng tôi, phần trên cùng của rừng Việt Nam có khoảng 330 
loài cây gỗ, phần giữa là 2.460 loài và phần dưới 320 loài [20]. 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 01, 12 - 2012 31 
Theo mức độ đơn giản - phức tạp, chúng tôi đã chia ra 3 dạng cấu trúc đứng 
của rừng đồng bằng hình thành trong điều kiện lượng nước mưa trong mùa mưa có 
thể đạt tới 2.000 mm. Cấu trúc được xác định chủ yếu thông qua đặc điểm đất và 
khả năng tích lũy độ ẩm của đất rừng. Rừng có cấu trúc đơn giản (1 - 2 phân tầng 
cây đứng, cao từ 4 - 12 m) phát triển chủ yếu trên đất cát, sét-gley và phiến (dạng 
cấu trúc này cũng đúng với rừng ngập mặn ven biển). Rừng có cấu trúc trung bình 
(có 3 phân tầng, cao từ 10 - 35 m) hình thành chủ yếu trên đất có thành phần cơ giới 
nhẹ, đất trên nền đá phiến sét và đất than bùn-gley. Rừng có cấu trúc phức tạp (4 - 5 
phân tầng, cao 40 - 55 m), phát triển trên đất feralite tầng dày (có khi tới 5 m), thoát 
nước tốt, cũng như trên đất phù sa dọc thung lũng sông. Như vậy, tuỳ thuộc vào mức 
độ thẩm thấu ẩm, mức độ hình thành các tầng chứa nước mưa trong đất, diễn ra quá 
trình hình thành cấu trúc đứng phức tạp của rừng cây gỗ. 
Đối với rễ cây rừng, điều quan trọng nhất là mức độ thu nhận độ ẩm trong đất 
suốt thời gian cả năm. Sự khác nhau của các loại đất là độ sâu của tầng không thấm 
nước, tốc độ thẩm thấu ẩm từ khí quyển, tính chất phân bố độ ẩm trong lớp khoáng 
và khả năng tích trữ nước của đất. Lớp không thấm nước là lớp phiến sét (từ đất sét 
đến dạng sét kết tinh), bazan (xốp hoặc chặt), đá granit dạng phân mảnh hoặc trụ, 
canxit (chặt hoặc tơi xốp). Các lớp này phân bố ở độ sâu khác nhau, bắt đầu từ bề 
mặt, trong đó đặc tính không thấm nước biến động từ mức từng phần cho đến hầu 
như hoàn toàn (ở dạng tấm hoặc phiến). Đất với độ thấm nước sâu đảm bảo cho sự 
phân tầng hệ rễ thuộc các phân tầng cây khác nhau. Đất với lớp không thấm nước 
nông không tạo ra được sự phân hoá đó. 
Rừng có cấu trúc phức tạp nhất gồm 5 phân tầng được hình thành trong điều 
kiện khí hậu gió mùa điển hình, thông thường là phát triển trên loại đất feralite đỏ - 
vàng tầng dày (đến 4 m). Ở đây, một lượng lớn nước mùa mưa (lượng mưa 1.100 - 
1.500 mm) được tích tụ trong các tầng đất và độ ẩm theo tính chất trọng lực và mao 
mạch giúp các loài cây gỗ rừng sử dụng trong suốt thời gian của năm [19]. 
Mức độ phức tạp khác nhau của cấu trúc theo chiều đứng của cây cũng nhận 
thấy ở rừng trên địa hình núi. Cấu trúc đơn giản được đặc trưng bởi các loài thông 3 
lá Pinus kesiya và thông 2 lá Pinus latteri, cao đến 20m, phát triển trên đai độ cao 
1.200 - 1.600 m, đặc điểm này cũng đúng với rừng rêu mây mù và rừng lùn (cây cao 
2 - 6 m) trên các đỉnh và giông núi có độ cao tới 2.000 m với tầng đất mỏng, nhiều 
sỏi đá. Rừng cây gỗ với cấu trúc đơn giản được gặp trên đỉnh của các dãy núi đá vôi 
(địa hình karst) ở đai độ cao 400 - 600 m. Rừng cây gỗ có cấu trúc trung bình, cao 
10 - 24 m, được hình thành trên sườn núi, trên các đỉnh cao nguyên, trên vùng trũng 
và dọc các thung lũng sông ở độ cao đến 2.400m, phát triển trên các loại đất có 
thành phần cơ giới và nguồn gốc khác nhau, thậm chí là đất lẫn nhiều đá nhưng 
được cung cấp đủ nước. Rừng có cấu trúc phức tạp với chiều cao cây đến 30 m bắt 
gặp tại các vùng núi thấp (dưới 800 m) trên sườn thoải và dải chân núi, nơi độ sâu 
của tầng dưỡng rễ lớn hơn 1 m [4], [6], [17], [22], [23]. 
Như vậy, đối với rừng trên núi, các yếu tố chủ yếu quyết định mức độ phức tạp 
của cấu trúc theo phương đứng của rừng là độ cao so với mực nước biển (liên quan 
chế độ nhiệt), độ dốc, hướng đón gió mùa, độ dày tầng đất (liên quan đến độ sâu của 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 01, 12 - 2012 32 
tầng dưỡng rễ). Khi khả năng tiêu thoát nước của đất giảm, độ ăn sâu của rễ cây sẽ 
giảm và cấu trúc theo phương đứng của rừng cũng sẽ trở nên đơn giản hơn do giảm 
số các phân tầng cây gỗ [17, 22, 23]. 
Trong rừng nhiệt đới gió mùa, cùng với các loài cây gỗ tạo rừng, luôn có các 
loài “thứ yếu”, các loài này khi gặp điều kiện thuận lợi có thể trở thành các loài chủ 
yếu hoặc là các loài quan trọng (chìa khóa). Lấy ví dụ như loài Tung Tetrameles 
nudiflora (Datyscaceae) và Bằng lăng Lagerstroemia calyculata (Lythraceae). Kết 
quả nghiên cứu cho thấy, đây là các loài nền của rừng trong thung lũng của VQG 
Cát Tiên [24] hay loài Cám Parinari annamensis (Chrysobalanaceae) phổ biến tại 
khu vực rừng đồng bằng đảo Phú Quốc [25], nhưng chúng lại là loài thứ yếu ở rừng 
Mã Đà [19]. 
Sự kết hợp phức tạp, đôi khi độc đáo giữa khí hậu địa phương, thổ nhưỡng, 
thuỷ văn và các yếu tố môi trường đã dẫn đến sự xuất hiện bất ngờ của hệ thực vật 
và đôi khi là những loài đặc hữu. Ví dụ, các cánh rừng với loài ưu thế là Du sam núi 
đất Keteleeria evelyniana (Pinaceae) và Thông lá dẹt Pinus krempfii phát triển trên 
núi miền Nam Việt Nam: Loài thứ nhất Keteleeria evelyniana chỉ phân bố ở khối 
núi Bidoup, trên các nhánh từ phía Tây hướng về đỉnh của khối núi; loài thứ hai 
Pinus krempfii cũng phân bố tại khối núi này (độ cao 1.450 - 1.900 m) và ở khối núi 
Hòn Bà liền kề thuộc tỉnh Khánh Hoà ... t số loài cây khác nhau, chúng tôi đã làm rõ 
được tính chất đặc thù của các thông số của ổ phục hồi hay tái sinh theo quan điểm 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 01, 12 - 2012 36 
của Grubb [3]. Cây gỗ của rừng nhiệt đới gió mùa thân cao với cấu trúc đứng phức 
tạp tái sinh thế hệ sau trên bình diện màn rừng - “cửa sổ” rừng. Ở đây, một số loài 
cây tạo rừng và những loài cây thuộc phân tầng bên dưới được tái sinh trong “cửa sổ” 
rừng và tại các vệt sáng mặt trời dưới tán rừng. Trong khi đó, những loài khác, bao 
gồm cả các loài trong rừng cây họ Dầu thân cao (Dipterocarpus dyeri, D. retusus, D. 
turbinatus) chỉ tái sinh dưới tán rừng, nghĩa là chúng có giới hạn ổ tái sinh hẹp. 
Việc gieo hạt tự nhiên của các loài cây gỗ này chỉ tốt trong khoảng nhiệt độ 
không khí trung bình 24 - 32oC, nhiệt độ đất ở độ sâu đến 20 cm là 25 - 27oC, độ ẩm 
tương đối 85 - 95% và độ chiếu sáng 0,04 - 1,0%. Các điều kiện đó cho phép tránh 
sự cạnh tranh của các loài cỏ và dây leo là các loài không chịu được ánh sáng yếu. 
Tiếp theo, tại “cửa sổ” rừng, mầm của các loài cây chính bị chết, các cây non phát 
triển yếu ớt do lá bị mặt trời thiêu cháy [17], [19]. Việc chi tiết hoá các thông số ổ 
tái sinh của các loài cây gỗ cho phép dự báo những hậu quả đối với quần xã rừng do 
sự can thiệp của con người cũng như tìm kiếm cách phục hồi lại những rừng cây gỗ 
đã bị mất. 
“Cửa sổ” trong rừng nhiệt đới gió mùa được tạo thành do cây đổ hay tán lá hay 
cành bị vặn gãy. Việc quan sát các cây bị yếu hay chết khô trong các kiểu rừng khác 
nhau cho phép kết luận, đối với các cây lớn trong số các loài tạo rừng, việc cây bị đổ 
không đặc trưng. Như vậy, sự đổ cây kèm theo “hiệu ứng đôminô”, hay sự tạo thành 
“cửa sổ” lớn hơn hay một khoảng trống trong tán rừng là không xảy ra. Ở phần lớn 
các cây bị yếu hay đang chết, các cành, nhánh của tán cây bị rụng dần và làm cho 
thân cây bị phá hủy từ từ sau nhiều năm. Việc thân cây bị gẫy cũng như cây đổ 
thường do bị chặt, do con người. Ở rừng trên núi (đặc biệt là trên đất tầng mỏng và 
đá) cây bị đổ là hiện tượng phổ biến và mang tính tự nhiên. Tuy nhiên, “cửa sổ” lớn 
ở đây không được hình thành [24]. 
3.6. Hậu quả của chất độc sinh thái và áp lực của hoạt động nhân sinh lên 
rừng mưa nhiệt đới 
Việc đánh giá hậu quả sinh thái do chiến tranh hóa học của quân đội Mỹ gây ra 
chỉ có thể thực hiện sau khi xây dựng được cơ sở khoa học dựa trên các yếu tố thực 
tiễn và hệ thống tri thức về các quần xã thực vật rừng nhiệt đới cũng như hình thái 
rừng nói chung. Các nghiên cứu hệ sinh thái rừng nhiệt đới gió mùa nguyên sinh và 
những cánh rừng đã bị thay đổi do con người ở 3 miền Bắc, Trung, Nam cũng như ở 
Nam Lào và Đông Kalimanta (đảo Borneo) cho thấy phản ứng của quần xã rừng đối 
với sự phá hủy do hoạt động nhân sinh mang tính chất đặc thù và được xác định 
bằng tổ hợp các yếu tố, trong đó vai trò quan trọng hàng đầu là thành phần loài thực 
vật, cấu trúc không gian của quần xã rừng, sự có mặt của các loài chủ đạo hoặc các 
loài lập quần, những đặc điểm sinh học của cây rừng, đặc điểm vi khí hậu rừng, cấu 
trúc và đặc điểm thủy văn đất [5], [20]. 
Dựa trên kết quả nghiên cứu của chúng tôi và các tài liệu đã công bố, có thể 
khẳng định rằng, các quần xã xavan và tương tự xavan là thứ sinh đối với Việt Nam 
và nói chung cho cả Đông Dương. Sự xuất hiện quần xã thực vật với ưu thế của các 
loài hoà thảo là do tác động của con người phá rừng để canh tác nông nghiệp hoặc 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 01, 12 - 2012 37 
phục vụ quân sự. Sau thảm họa do con người gây ra, thảm thực vật tự nhiên bị biến 
đổi, hình thành nên các quần xã dạng xavan với các loài hoà thảo. Đây là kiểu thảm 
thực vật phi địa đới được hình thành trên đất với sự biến đổi về tính chất lý - hóa học 
và chế độ thủy văn. Chúng tôi đã xác định được rằng, khi mất tán cây, chiều hướng 
diễn biến tiếp theo là sự xâm lấn rất nhanh chóng của các loài thân thảo khác nhau 
đối với loài bản địa. Trên khu vực đồng bằng, hình thành các quần xã với các loài cỏ 
cọng lớn (từ các chi Imperata, Pennisetum, Themeda), tre nứa (từ các chi Bambusa, 
Dendrocalamus), Cỏ lào (Eupatorium odoratum), ở vùng núi quần xã chiếm ưu thế là 
dương xỉ (Dicranopteris, Diplopterygium, Gleichenia, Pteridium) hoặc tre nứa [24]. 
Trên thực tế, điều cực kỳ quan trọng là sự sinh tồn của các quần xã hoà thảo 
mới này trên lãnh thổ Việt Nam sẽ còn tiếp tục tồn tại không biết đến bao giờ. Điều 
này là do thiếu vắng các yếu tố (lớn hơn yếu tố do con người) có thể làm thay đổi xu 
thế phát triển của chúng. Nhìn vào sự tồn tại bền vững nhiều năm qua của các quần 
xã hoà thảo, chúng tôi có cơ sở nhận định về sự có mặt của hiện tượng gián đoạn 
trong chuỗi diễn thế. Đặc điểm sinh học đặc trưng của cây rừng là không có khả 
năng tái sinh cùng với các loài hoà thảo, kể cả khi có chế độ cưỡng bức và trồng cây. 
Do vậy, tại các khu vực bị mất rừng, xuất hiện ranh giới rõ rệt giữa các quần xã 
xavan, tương tự xavan và cây gỗ rừng. Để phục hồi rừng nhiệt đới, con người cần 
phải tạo ra những điều kiện như để hồi sinh các loài cây chủ đạo trong rừng - đặc 
trưng cho mỗi vùng lãnh thổ, cũng như tạo ra những rừng cây đa loài bằng cách kiên 
trì trồng cây dưới tán rừng thuộc phạm vi của đới chuyển tiếp. 
IV. KẾT LUẬN 
Đông Dương nói chung, Việt Nam nói riêng là một trong số không nhiều trung 
tâm đa dạng thực vật trên thế giới với sự phong phú cao các đơn vị phân loại. 
Trên cơ sở tiếp cận nhất quán và tổng hợp về phương diện sinh học quần xã, đã 
tiến hành nghiên cứu và làm rõ thành phần loài, cấu trúc quần xã thực vật rừng, đặc 
điểm sinh học thực vật rừng, sự biến đổi của thảm rụng và gỗ, đặc điểm đất rừng, vi 
khí hậu dưới tán rừng. Đã ghi nhận trên 7.050 loài thực vật tham gia hình thành 
rừng, trong đó có khoảng 53 loài thuộc 34 chi của 19 họ là những loài chủ yếu thành 
tạo rừng nhiệt đới gió mùa. 
Mức độ phức tạp của rừng phụ thuộc vào đặc điểm của đất và khả năng tích 
lũy độ ẩm của đất rừng. Trong cấu trúc đứng của rừng, từ phân tầng trên cùng xuống 
các phân tầng dưới, khoảng thời gian ra hoa tăng lên, trong khi mức độ thay lá hoàn 
toàn lại giảm đi. Ở rừng trên núi từ độ cao 1.000 - 1.200 m, hàng năm trên bề mặt 
đất hình thành một lớp thảm rụng thực vật. Đã xác định được đặc trưng các thông số 
của ổ tái sinh hoặc phục hồi các loài cây gỗ rừng. 
Hiện nay, do những tác động của con người, thành phần loài và sự giàu có của 
rừng nhiệt đới gió mùa đang được thay thế bởi quần xã thực vật có cấu trúc đơn giản 
với ưu thế của các loài hoà thảo. Để phục hồi rừng nhiệt đới, con người cần phải tạo 
ra những điều kiện phục hồi các loài cây chủ đạo trong rừng theo đặc trưng cho mỗi 
vùng lãnh thổ, cũng như tạo ra những rừng cây đa loài bằng cách kiên trì trồng cây 
dưới tán rừng thuộc phạm vi của đới chuyển tiếp. 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 01, 12 - 2012 38 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ashton P.S. Dipterocarp biology as a window to the understanding of tropical 
forest structure // Ann. Rev. Ecol. Syst. 1988. V. 19. P. 347-370. 
2. Averyanov L.V., Phan Ke Loc, Nguen Tien Hiep, Harder D.K. Phytogeographic 
review of Vietnam and adjacent areas of Eastern Indochina // Ser. Komarovia. 
Moscow: KMK Scientific Press Ltd., 2003 V. 3. P. 1-83. 
3. Community Ecology. / Eds. Diamond J., Case T.Y. N. Y., 1986. 665 p. 
4. Eames J.C., Kuznetsov A.N. et al. A preliminary Biological Assessment of the 
Kon Plong Forest Complex, Kon Tum Province, Vietnam. Hanoi: WWF 
Indochine Programme, 2001a. 102 p. 
5. Eames J.C., Kuznetsov A.N., Fredriksson G., Jarvis B. A preliminary 
Biodiversity Assessment of PT Daisy. Berau District, East Kalimantan, 
Indonesia. Saigon: Tropical Forest Trust, 2001b. 108 p. 
6. Kuznetsov A.N. The forest of Vu Quang Nature. A description of Habitats and 
plant communities. Hanoi: WWF Indochine Programme, 2001. 102 p. 
7. Nguyen Tien Hiep, Phan Ke Loc, Nguyen Đuc To Luu, Thomas P.I., Farjon A., 
Averyanov L., Regalado J. Jr. Vietnam Conifers: Conservation Status Review 
2004. Hanoi: Fauna & Flora International Programme, 2004. 128 p. 
8. Pham Hoang Ho. An Illustrated Flora of Vietnam. Hochiminh: Minist. Edicat., 
1999-2000. V. I-III. 991 p., 953 p., 1020 p. (In Vietnamese). 
9. Richards P.W. The tropical rain forest and ecological study. Second edition. 
Cambridge: Cambridge Univ. Press, 1996. 575 p. 
10. Rundel P.W. Forest habitats and flora in Lao PDR, Cambodia, and Vietnam. 
Hanoi: WWF Indochine Programme, 1999. 197 p. 
11. Schmid M. Vegetation du Viet-Nam: le massif Sud-Annamitigue et les regions 
limitrophes. Paris: Orstom, 1974. 243 p. 
12. Thai Van Trung. Forest Tropical Ecosystems of Vietnam. Hanoi: Science and 
Technique, 1999. 298 p. (In Vietnamese with French summary). 
13. Vidal J.E. Bibliographie botanique Indochinoise // Bull. Soc. des et Indoch. V. 
XLYII (4). Paris: Museum, 1972. 94 p. 
14. Vidal J.E. Outline of Ecology and Vegetation of the Indochinese Peninsula // 
Tropical Botany /Eds. Larsen K., Holm-Nielsen L.B. London: Academic Press, 
1979. P. 109-123. 
15. Whitmore T.C. An introduction to Tropical rain forests. Oxford: Oxf. Univ. 
Press, 1992. 226 p. 
16. Дылиса Н.В. Программа и методика биогеоценотических исследований. 
/Под ред. 
17. Кузнецов А.Н. Растительность массива Фансипан // Матер. зоол.-бот. 
исследований в горном массиве Фансипан (северный Вьетнам). Сер. 
Биоразнообразие Вьетнама. Москва; Ханой, 1998. С. 81-128. 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 01, 12 - 2012 39 
18. Кузнецов А.Н. Первичные тропические леса и биотопы горного массива 
Чыонг Шон на территории Национального парка Ву Куанг, Вьетнам // 
Матер. зоол.-бот. исследований в Национальном парке Ву Куанг. Сер. 
Биоразнообразие Вьетнама. Москва; Ханой, 2001. С. 51-161. 
19. Кузнецов А.Н. Тропический диптерокарповый лес. М.: ГЕОС, 2003. 140 с. 
20. Кузнецов А.Н. Анализ флоры муссонных тропических лесов Вьетнама: 
состав жизненных форм //Бюл. МОИП, Отд. биол. Т. 113. Вып. 1. 2008. С. 
21-31. 
21. Кузнецов А.Н. Деревья муссонных тропических лесов Вьетнама // Вестн. 
ТвГУ. Сер. Биология и экология. Вып. 15, № 34. 2009.С. 127-138. 
22. Кузнецов А.Н., Кузнецова С.П. Растительность карстового горного 
массива Ке Банг - Фон Ня, провинция Куанг Бинь, центральный Вьетнам // 
Матер. зоол.-бот. иссл. в карстовом массиве Ке Банг - Фон Ня. Сер. 
Биоразнообразие Вьетнама. Москва; Ханой, 2003. С. 21-78. 
23. Кузнецов А.Н., Кузнецова С.П. Растительность горного массива Хон Ба - 
Би Дуп, пров. Кхань Хоа, южный Вьетнам // Матер. зоол.-бот. иссл. в 
горном массиве Хон Ба - Би Дуп. Сер. Биоразнообразие Вьетнама. Москва; 
Ханой, 2006. С. 9-115. 
24. Кузнецов А.Н., Кузнецова С.П. Сукцессии в тропических лесных 
растительных сообществах Вьетнама // Биосфера. Т. 3. № 1. 2011a. С. 
594-602. 
25. Кузнецов А.Н., Кузнецова С.П. Сукцессии в тропических лесных 
растительных сообществах Вьетнама // Биосфера. Т. 3. № 1. 2011б. С. 
594-602. 
26. Кузнецов А.Н., Кузнецова С.П., Фан Лыонг. Тропические леса южного 
Вьетнама после комплексного военного воздействия // Бюл. МОИП. Отд. 
биол. 2010. Т. 115. Вып. 3. С. 32-45. 
27. Фридланд В.М. Почвы и коры выветривания влажных тропиков. М.: 
Наука, 1964. 321 с. 
28. Чертов О.Г. Экотопы дождевого тропического леса (на примере 
Вьетнама). Л.: Наука, 1985. 48 с. 
SUMMARY 
 CHARACTERISTICS OF VIETNAM MONSOON TROPICAL FOREST 
The researches are carried from 1989 to 2012. On a base of uniform 
biogeocoenosis (appr. ecosystem) approach the forest plant species composition, 
vertical and horizontal structure, the biological aspects some forest trees, the forest 
plant litter dynamic, the morphology and hydrology of forest soils and forest 
microclimate were studied. The forest flora of Vietnam, except for moos and 
lichens, comprises more than 7050 species of different life forms: trees-3140, herbs- 
1660, vine species-1310, epiphytes-844, semi-epiphytes-31 and 66 species- 
 Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 01, 12 - 2012 40 
parasites. The top of forests is formed by app. 330 tree species, the canopy - 2460 
and less than 320 species-the understorey. Approximately 53 species from 34 genera 
and 19 families are representing the main trees forming the tropical monsoon forests. 
For representation of vertical structure of forests, we use a method of the profile 
diagrams. In total, profile diagrams for more than two hundred flat and mountain 
forest stands are prepared. Category of complexity of vertical structure for lowland 
forests is determined both the type of soil, and ability of soil to filtrate and 
accumulate an atmospheric water. There is a complication of forest stands vertical 
structure by a process of optimization soil and hydrological conditions. In mountain 
forests there is a simplification of forest stands vertical structure by a process of 
change forest soils from deeply drainage on a vector to easing of drainage and 
reduction of root zone. The changes in spectrum of environment forming trees in 
different forests occur mainly at a level of a rank of family, whereas in subordinated 
layers - in the greater degree at a level of species and genus inside family. Native 
tropical forest ecosystems represent a climatic climax. There is a dynamic balance in 
functioning of these ecosystems. This dynamics is determined by endogenous 
infringements, which are characteristic for forest ecosystems in general. The Man 
has introduced to the tropical nature new types of destructions. The apotheosis of 
destruction is the use of phytotoxicants and napalm, which were used to destruction 
of Vietnamese forests during the War. The occurrence not forest open territories has 
resulted in change of a microclimate, hydrological regime, properties of soils and 
development of erosive processes. It’s extremely important, that forest tree species, 
in natural conditions renewing under the primary forest canopy or in gaps and by 
virtue of their biological features, can not develop in open territories. Forest trees 
and the ecoton trees, are not evolutionary adapted to development on new, changed 
by the man, territories. This effected in the interruption of the series of successional 
changes of the vegetation. Complex, species-rich and evolutionary formed forest 
communities are substituted by simple in structure and species composition new or 
evolutionary alien communities with grass domination. It is obvious, that at 
progressing rates of deforestation various and weekly prognosis changes of climate 
will occur. The man should deal with new realities, when the economic benefits will 
appear temporary. 
Từ khóa: cấu trúc rừng, rừng đồng bằng, rừng nhiệt đới gió mùa, cây họ Dầu 
Nhận bài ngày 15 tháng 10 năm 2012 
Hoàn thiện ngày 10 tháng 11 năm 2012 
Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_thuc_vat_rung_nhiet_doi_gio_mua_viet_nam.pdf