Đặc điểm thiếu máu do Parvovirus B19 ở bệnh nhân sau ghép thận
Parvovirus B19 (PVB19) nhằm vào tiền thân tế bào dòng hồng cầu và có thể bị kích hoạt sau ghép tạng.
Nghiên cứu nhằm mục đích mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, hiệu quả điều trị PVB19 ở bệnh nhân
sau ghép thận tại bệnh viện Việt Đức. Nghiên cứu hồi cứu mô tả trên 663 bệnh nhân được theo dõi từ 2000
– 2018. Phát hiện PVB19 bằng phương pháp khuếch đại chuỗi ADN. Đánh giá hiệu quả điều trị dựa vào
Hemoglobin. 9/663 bệnh nhân (1,4%) có thiếu máu do PVB19. 8/9 bệnh nhân (88,9%) được chẩn đoán
trong 3 tháng đầu sau ghép. Hồng cầu có kích thước bình thường, tỉ lệ hồng cầu lưới 0,15 ± 0,04%, 4/9 bệnh
nhân (44,5%) có rối loạn chức năng thận ghép. Điều trị gồm điều chỉnh mức độ ức chế miễn dịch, truyền tĩnh
mạch Immunoglobulin, truyền khối hồng cầu. Đáp ứng điều trị tốt nhưng có 1 bệnh nhân (11,1%) tái phát
sau dùng Immunoglobulin liều thấp. Thiếu máu do PVB19 thường xuất hiện sớm sau ghép, kèm giảm rõ
hồng cầu lưới. Điều trị hiện tại cho đáp ứng tốt nhưng bệnh có khả năng tái p
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm thiếu máu do Parvovirus B19 ở bệnh nhân sau ghép thận
TCNCYH 113 (4) - 2018 85 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC ĐẶC ĐIỂM THIẾU MÁU DO PARVOVIRUS B19 Ở BỆNH NHÂN SAU GHÉP THẬN Hà Phan Hải An1,2*; Hoàng Thị Điểm2; Nguyễn Thế Cường2 1Trường Đại học Y Hà Nội; 2Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức Parvovirus B19 (PVB19) nhằm vào tiền thân tế bào dòng hồng cầu và có thể bị kích hoạt sau ghép tạng. Nghiên cứu nhằm mục đích mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, hiệu quả điều trị PVB19 ở bệnh nhân sau ghép thận tại bệnh viện Việt Đức. Nghiên cứu hồi cứu mô tả trên 663 bệnh nhân được theo dõi từ 2000 – 2018. Phát hiện PVB19 bằng phương pháp khuếch đại chuỗi ADN. Đánh giá hiệu quả điều trị dựa vào Hemoglobin. 9/663 bệnh nhân (1,4%) có thiếu máu do PVB19. 8/9 bệnh nhân (88,9%) được chẩn đoán trong 3 tháng đầu sau ghép. Hồng cầu có kích thước bình thường, tỉ lệ hồng cầu lưới 0,15 ± 0,04%, 4/9 bệnh nhân (44,5%) có rối loạn chức năng thận ghép. Điều trị gồm điều chỉnh mức độ ức chế miễn dịch, truyền tĩnh mạch Immunoglobulin, truyền khối hồng cầu. Đáp ứng điều trị tốt nhưng có 1 bệnh nhân (11,1%) tái phát sau dùng Immunoglobulin liều thấp. Thiếu máu do PVB19 thường xuất hiện sớm sau ghép, kèm giảm rõ hồng cầu lưới. Điều trị hiện tại cho đáp ứng tốt nhưng bệnh có khả năng tái phát. Từ khóa: Parvovirus B19, thiếu máu, ghép thận Địa chỉ liên hệ: Hà Phan Hải An, Bộ môn Nội Tổng hợp Trường Đại học Y Hà Nội Email: haphanhaian@hmu.edu.vn Ngày nhận: 14/6/2018 Ngày được chấp thuận: 15/8/2018 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Hầu hết người trưởng thành trong cộng đồng đều đã phơi nhiễm với PVB19, tỷ lệ này là khoảng 5 - 10% ở trẻ em, tăng lên 50% ở độ tuổi 15,60% ở độ tuổi 30 và 90% ở độ tuổi từ 60 trở lên [1]. Ở người khỏe mạnh, tình trạng nhiễm PVB19 thường có diễn biến thuận lợi và có tỷ lệ tử vong rất thấp [2]. Bệnh nhân suy giảm miễn dịch thường không phản ứng được hiệu quả với PVB19, tạo điều kiện cho virus tồn tại dai dẳng trong máu, gây thiếu máu mạn tính, các bất thường về huyết học, viêm cơ tim, viêm phổi [3]. Trường hợp đầu tiên nhiễm PVB19 được báo cáo năm 1986, sau đó có rất nhiều trường hợp nhiễm PVB19 sau ghép tạng và ghép tế bào gốc tạo máu đã được báo cáo [4]. Bệnh nhân ghép thận có thể xuất hiện triệu chứng nhiễm PVB19 do nhiễm trùng tiên phát qua đường hô hấp thông thường hoặc qua thận ghép, hoặc do virus tiềm ẩn tái hoạt [5]. Đáp ứng miễn dịch có hiệu quả giúp hạn chế tình trạng tăng virus trong khoảng 5 ngày. Kháng thể đặc hiệu IgM có thể phát hiện được sau nhiễm trùng 2 tuần và tồn tại kéo dài đến 6 tháng. Kháng thể đặc hiệu IgG tồn tại trong nhiều năm. Trong thời gian virus tồn tại trong máu hồng cầu lưới có thể giảm, nhưng mức Hemoglobin (Hb) không giảm. Ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch, do không đủ đáp ứng thể dịch và tế bào, PVB19 vẫn tồn tại và có thể gây thiếu máu mạn tính hoặc giảm sinh tủy [3]. Về mặt hình thái, sinh thiết tủy xương cho thấy các tiền nguyên hồng cầu khổng lồ, các nguyên hồng cầu ưa acid lớn, và tế bào thoái hóa. Thời gian xuất hiện bệnh do PVB19 thường xuất hiện sớm sau ghép, trung bình là 7 tuần. Thiếu máu, giảm bạch cầu và giảm tiểu cầu lần lượt được ghi nhận ở 98,8%, 37,5% và 21,0% bệnh nhân. Viêm gan, viêm 86 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC cơ tim và viêm phổi cũng có liên quan đến PVB19. Mất hoặc giảm chức năng tạng ghép được ghi nhận vào thời điểm bệnh PVB19 trong 10% số trường hợp [3]. Chẩn đoán bệnh do PVB19 dựa vào phản ứng huyết thanh học phát hiện kháng thể đặc hiệu IgM hoặc IgG, hoặc PCR-DNA PVB19 trong máu hoặc mô [6]. Hiện tại chưa có thuốc đặc hiệu để điều trị PVB19. Các giải pháp điều trị bao gồm: giảm liều thuốc ức chế miễn dịch khi có triệu chứng nhiễm PVB19, truyền Immunoglobulin tĩnh mạch (IVIG), truyền máu trong trường hợp thiếu máu nặng [7]. Đã có khá nhiều báo cáo của các tác giả nước ngoài về nhiễm PVB19 và ảnh hưởng của tình trạng này ở bệnh nhân sau ghép. Tuy nhiên ở Việt Nam thông tin về tình trạng bệnh lý này ở nhóm bệnh nhân ghép thận còn rất ít ỏi. Vì vậy, nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân thiếu máu do nhiễm parvovirus B19 (PVB19) sau ghép thận theo dõi tại khoa Thận - Lọc máu Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. 2. Nhận xét kết quả của các biện pháp điều trị thiếu máu do PVB19 cho các bệnh nhân nêu trên. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng và phương pháp Chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu mô tả dựa vào hồ sơ bệnh án của tất cả các bệnh nhân ghép thận được theo dõi định kỳ ngoại trú tại khoa Thận - Lọc máu Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức từ ngày 1/1/2000 đến ngày 30/4/2018 và chọn ra các bệnh nhân được chẩn đoán xác định thiếu máu do PVB19 bằng kỹ thuật khuếch đại chuỗi ADN (PCR PVB19 – DNA). Các thông tin về đặc điểm nhân khẩu học, lâm sàng, cận lâm sàng, thuốc ức chế miễn dịch, các biện pháp điều trị PVB19 và kết quả điều trị dựa vào biến động chỉ số Hemoglobin (Hb) được ghi nhận. Những bệnh nhân chuyển đi cơ sở khác, không có đủ bằng chứng thiếu máu do PVB19 được loại ra khỏi nghiên cứu. 2. Xử lý số liệu Các số liệu được nhập và xử lý theo phần mềm SPSS 16.0 tính tỷ lệ phần trăm, chỉ số trung bình. 3. Đạo đức nghiên cứu Nghiên cứu hồi cứu, không can thiệp, không gây tác động nguy hại trực tiếp đến bệnh nhân; Các xét nghiệm tiến hành trong nghiên cứu là những xét nghiệm thường quy khi theo dõi và điều trị sau ghép, không gây thêm nguy cơ hay phí tổn nào thêm cho bệnh nhân; Các thông tin thu thập được chỉ dùng cho mục đích nghiên cứu và được bảo mật; Đề cương nghiên cứu đã được thông qua hội đồng khoa học và đạo đức bệnh viện. (QĐ 970/QĐ-VĐ ngày 31/5/2018). III. KẾT QUẢ Từ 1/1/2000 đến 30/4/2018 có 663 bệnh nhân sau ghép thận được theo dõi tại khoa Thận - Lọc máu Bệnh viện Việt Đức, 9 (1,4%) bệnh nhân được chẩn đoán xác định thiếu máu do PVB19. Các đặc điểm về nhân khẩu học, nguyên nhân suy thận, nguồn thận hiến, hòa hợp HLA của nhóm bệnh nhân bị thiếu máu do PVB19 được trình bày ở bảng 1. TCNCYH 113 (4) - 2018 87 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 1. Thông tin chung của các bệnh nhân thiếu máu do PVB19 sau ghép thận Đặc điểm Số bệnh nhân (%) hoặc trung bình Tuổi khởi phát 29,3 ± 7,1 năm (17 - 39 tuổi) Giới nam 8/9 (88,9%) Nguyên nhân suy thận viêm cầu thận mạn 9/9 (100%) Nơi cư trú Hà Nội Các tỉnh thành phía Bắc 4/9 (44,5%) 5/9 (55,5%) Nơi ghép Bệnh viện Việt Đức 9/9 (100%) Nguồn hiến Sống cùng huyết thống Sống không cùng huyết thống Chết não 1/9 (11,1%) 6/9 (66,7%) 2/9 (22,2%) HLA mismatch (MM) 6/6MM 4/6MM 3/6MM 1/9 (11,1%) 5/9 (55,6%) 3/9 (33,3%) Đa số các bệnh nhân đều có thiếu máu nặng trước ghép (Hb < 100g/l ghi nhận ở 6/9 (66,7%) bệnh nhân). Tất cả các bệnh nhân đều có nước tiểu ngay sau nối mạch và các chỉ số chức năng thận hồi phục về giới hạn bình thường sau ghép thận 2 tuần. Tại thời điểm ra viện (sau ghép 10 ngày) 7/9 bệnh nhân (77,8%) có chỉ số Hb cao hơn so với trước ghép. Thông tin về phác đồ thuốc ức chế miễn dịch ban đầu, tình trạng bệnh lý kèm theo và thời điểm chẩn đoán thiếu máu do PVB19 được trình bày ở bảng 2. Bảng 2. Thuốc ức chế miễn dịch ban đầu, tình trạng bệnh lý đi kèm và thời điểm chẩn đoán thiếu máu do PVB19 Đặc điểm Số bệnh nhân (%) Phác đồ thuốc ức chế miễn dịch ban đầu Steroid + Tac + MMF Steroid + Tac + MPA Steroid + CsA + MMF Steroid + CsA + MPA Steroid + Tac + ƯC mTor Steroid + CsA + ƯC mTor 8/9 (88,9%) 1/9 (11,1%) 0 0 0 0 88 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Đặc điểm Số bệnh nhân (%) Đồng nhiễm Viêm gan (B hoặc C) Nhiễm Cytomegalovirus máu Bệnh thận do BKV (dựa vào sinh thiết thận hoặc đếm tải lượng BKV máu) Lao 3/9 ( 33,3%) 1/9 (11,1%) 1/9 (11,1%) 1/9 (11,1%) Rối loạn chức năng thận ghép Thải ghép (dựa vào sinh thiết thận) Tăng creatinine máu khi phát hiện PVB19 Hội chứng thận hư sau ghép 3/6 (50,0%) 4/9 (44,4%) 1/9 (11,1%) Thời gian phát hiện thiếu máu do PVB19 ≤ 3 tháng đầu sau ghép > 3 tháng sau ghépa 8/9 (88,9%) 1/9 (11,1%) * BN: bệnh nhân, ƯCMD: ức chế miễn dịch, Tac: Tacrolimus, MMF: mycophenolate mofetil, MPA: mycophenolic acid, CsA: Cyclosporin A, ƯC mTOR: ức chế thụ thể đích của Rapamycin; BKV: polyoma virus BK a: xuất hiện sau ghép trên 5 năm, sau 1 đợt điều trị hội chứng thận hư bằng steroid liều cao kéo dài. Bảng 3. Đặc điểm cận lâm sàng của các bệnh nhân thiếu máu do PVB19 Đặc điểm Số bệnh nhân (%) hoặc trung bình Tổng phân tích tế bào máu ngoại vi Nồng độ Hb ngay trước thời điểm chẩn đoán PVB19 Nồng độ Hb thấp nhất MCV bình thường Bạch cầu tăng Bạch cầu giảm Tiểu cầu tăng Tiểu cầu giảm 84,4 ± 13,2 g/l ( 57 - 99g/l) 64,3 ± 6,2 g/l (57 - 74g/l) 9/9 (100%) 6/9 (66,7%) 0/9 (0%) 1/9 (11,1%) 0/9 (0%) Huyết đồ Tỉ lệ hồng cầu lưới 0,15 ± 0,04% (0,11% - 0,20%) Bằng chứng nhân lên của PVB19 PCR PVB19 - DNA định tính PCR PVB19 - DNA định lượng 2/9 ( 22,2%) 7/9 (78,8%) Tất cả các bệnh nhân đều có Hb tăng lên giới hạn bình thường, trung bình 15 ± 7 ngày sau khi kết thúc truyền IVIG. Các biện pháp điều trị được thực hiện và kết quả được trình bày ở bảng 4. TCNCYH 113 (4) - 2018 89 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Bảng 4. Các biện pháp điều trị bệnh nhân thiếu máu do PVB19 và hiệu quả Biện pháp điều trị Số lượng bệnh nhân, n (%) Giảm liều Tac và MMF Chuyển từ Tac + MMF sang CsA + ƯC mTOR Chuyển từ Tac + MPA sang CsA + MPA Truyền IVIG 2g/kg/5 ngày 1,2g/kg/5 ngày Truyền khối hồng cầu Erythropoietin 4/9 (44,5%) 4/9 (44,5%) 1/9 (11,1%) 8/9 (88,9%) 1/9 (11,1%) 8/9 (88,9%) 9/9 (100%) Kết quả điều trị sau ngừng IVIG Hb tăng về giới hạn bình thường Hb ổn định trong vòng 6 tháng liên tục Hb giảm lại Tải lượng PVB19 tăng lại 9/9 (100%) 8/9 (88,9%) 1/9 (11,1%) 1/9 (11,1%) BN: bệnh nhân, Tac: Tacrolimus, MMF: mycophenolate mofetil, MPA: mycophenolic acid, CsA: Cyclosporin A, ƯC mTOR: ức chế thụ thể đích của Rapamycin IV. BÀN LUẬN Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tỷ lệ bệnh nhân thiếu máu do PVB19 sau ghép thận thấp (1,4%), so với tỷ lệ thiếu máu chung sau ghép thận (28 - 51%) [7 - 10]. Đại đa số bệnh nhân (8/9 tương ứng 88,9%) xuất hiện thiếu máu sớm trong vòng 3 tháng đầu sau ghép, thể hiện qua sự giảm nhanh Hb sau khi chỉ số này đã tăng trong những tuần đầu tiên sau ghép. Đây là quãng thời gian bệnh nhân phải ở trong tình trạng ức chế miễn dịch mạnh nhất. Chỉ có 1 bệnh nhân khởi phát muộn sau ghép hơn 5 năm nhưng là sau một đợt điều trị steroid liều cao do có hội chứng thận hư sau ghép. Tất cả các bệnh nhân đều ở trong tình trạng thiếu máu nặng, với nồng độ Hemoglo- bin rất thấp, trung bình 64,3 ± 6,2 g/l nhưng hồng cầu có kích thước bình thường. Chúng tôi không gặp giảm bạch cầu hay giảm tiểu cầu trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu. Tỷ lệ hồng cầu lưới giảm nặng, trung bình 0,15 ± 0,04% và là một trong những dấu hiệu gợi ý có giá trị cho nguyên nhân thiếu máu do PVB19 ở quần thể bệnh nhân sau ghép tạng. PVB19 sau khi tiếp cận với vật chủ sẽ nhắm vào các tế bào gốc tiền thân của dòng hồng cầu trong tủy xương bằng cách liên kết với glycosphingolipid globoside (Gb4), còn được gọi là kháng nguyên nhóm máu P. Kháng nguyên P được biểu hiện dồi dào trên hồng cầu, tuy nhiên kháng nguyên này chưa đủ để giúp virus xâm nhập và nhân bản trong tế bào người. Các nghiên cứu gần đây đề cập đến vai trò hỗ trợ của một đồng thụ thể tế bào, α5β1 integrin, mặc dù điều này vẫn còn gây 90 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC tranh cãi. Integrin được biểu hiện ở mức độ cao trên các tế bào gốc dòng hồng cầu, trong khi các tế bào khác có kháng nguyên nhưng không biểu hiện đồng thụ thể này được thấy là không thích hợp cho nhiễm trùng. Một phân tử thứ ba, Ku80, cũng đã được đề xuất như là một đồng thụ thể có thể cần thiết cho nhiễm PVB19. Sau khi các tế bào gốc hồng cầu bị nhiễm PVB19, tế bào sẽ chết do ly giải hoặc theo chương trình qua trung gian protein NS1 [11; 12]. Chẩn đoán xác định thiếu máu do PVB19 ở các bệnh nhân đều được thực hiện bằng kỹ thuật PCR PVB19 – DNA, định tính ở 2/9 bệnh nhân đầu tiên, và định lượng ở 7/9 bệnh nhân sau đó. Để chẩn đoán sớm, cần theo dõi sát công thức máu và nhận ra thời điểm Hb bắt đầu tụt giảm. Hiện nay chưa có thuốc đặc hiệu diệt PVB19. Các biện pháp điều trị hỗ trợ bao gồm điều chỉnh giảm mức độ ức chế miễn dịch nhưng luôn phải cân nhắc nguy cơ thải ghép, do bệnh nhân thường ở giai đoạn sớm sau ghép. Chúng tôi nhận thấy IVIG có hiệu quả trong điều trị bệnh nhân nhiễm PVB19, mặc dù liều dùng IVIG trong y văn chưa hoàn toàn thống nhất, với nhiều khuyến cáo liều từ 1,2g đến 2g/kg/5 ngày [7; 13]. Nếu thiếu máu nặng, có triệu chứng lâm sàng có thể cân nhắc truyền khối hồng cầu. Mặc dù các bệnh nhân nghiên cứu đều đáp ứng tốt với điều trị, trường hợp bệnh nhân dùng IVIG liều thấp ban đầu đã xuất hiện tái phát sau khi ngừng điều trị 5 tháng và phải lặp lại một đợt điều trị IVIG nữa. Vì vậy, chúng tôi cho rằng nên điều trị liều đủ ngay từ đầu, mặc dù chi phí điều trị khá cao, nhưng điều này giúp hạn chế tái phát. Điều chỉnh mức độ ức chế miễn dịch để đảm bảo cân đối giữa lợi ích và nguy cơ luôn là điều khó khăn. Thông thường, các bệnh nhân được chuyển sang dùng CsA thay cho Tac, giảm liều MMF và một số trường hợp chuyển sang dùng ức chế mTOR thay cho MMF. Mặc dù có một số khuyến cáo hạn chế sử dụng Erythropoietin, các bệnh nhân của chúng tôi đều được dùng 1 liều ở giai đoạn sau IVIG khi chờ đợi đáp ứng và chúng tôi chưa thấy có bệnh nhân không đáp ứng điều trị trong nhóm nghiên cứu. V. KẾT LUẬN Tỷ lệ thiếu máu do PVB19 ở bệnh nhân ghép thận theo dõi tại khoa Thận - Lọc máu bệnh viện Việt Đức khá thấp, chỉ là 1.4%. Giảm nặng hồng cầu lưới với kích thước hồng cầu bình thường trong máu ngoại vi là dấu hiệu gợi ý chẩn đoán có giá trị. Đếm tải lượng PVB19 bằng kỹ thuật PCR PVB19-DNA giúp xác định chẩn đoán và theo dõi điều trị. Bên cạnh các biện pháp hỗ trợ và điều chỉnh mức độ ức chế miễn dịch, IVIG tỏ ra có hiệu quả trong điều trị thiếu máu do PVB19 ở bệnh nhân sau ghép thận. Lời cám ơn Trân trọng cảm ơn tập thể nhân viên khoa Thận - Lọc máu và các bệnh nhân đã đóng góp cho nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cohen BJ, Buckley MM (1988). The prevalence of antibody to human parvovirus B19 in England and Wales. J Med Microbiol; 25, 151 - 153. 2. Young NS, Brown KE (2004). Parvovi- rus B19. NEJM, 350(6), 586 - 597. 3. Eid AJ, Brown RA, Patel R, Razonable TCNCYH 113 (4) - 2018 91 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC RR (2006). Parvovirus B19 infection after transplantation: a review of 98 cases. Clin In- fect Dis, 43(1), 40 - 48. 4. Neild G, Anderson M, Hawes S, Colvin BT (1986). Parvovirus infection after renal transplant. Lancet, 2, 1226 - 1227. 5. Waldman M, Kopp JB (2007). Parvovi- rus B19-associated complications in renal transplant recipients. Nat Clin Pract Nephrol; 3 (10), 540 - 550. 6. Brown KE (2015). Parvovirus B19. In: Bennet JE, Dolin R, Blaser M, Mandell, Doug- las and Bennet’s Principals and Practice of Infectious Diseases. 8th ed. Philadelphia, Churchill Livingstone Elsevier; 2, 1840 - 1847. 7. Krisnan P, Ramadas P, Rajendran PP, et al (2015). Effects of Parvovirus B19 infec- tion in renal transplant recipients: a retrospec- tive review of three cases. Int J Angiol; 24(2), 87 - 92. 8. Shah N, Al-Khoury S, Afzali B et al (2006). Posttransplantation anemia in adult renal allograft recipients: prevalence and pre- dictors. Transplantation, 81(8), 1112 - 1118. 9. Emad Abdallah, Emam Waked, Malak Nabil (2010). Anemia after kidney transplanta- tion. African Journal of Nephrology, 14, 40 - 45. 10. Yves Vanrenterghem (2003). Preva- lence and Management of Anemia in Renal Transplant Recipients: A European Survey. AJT; 3, 835 – 845. 11. Anat Gafter-Gvili (2007). Posttrans- plantation anemia in kidney transplant recipi- ents. Medicine, 96, 32. 12. Meryl Waldman, Jeffrey B.Kopp (2007). Parvovirus B19 and the kidney. Clin J Am Soc Nephrol; 2, 47 - 56. 13. Jordan SC, Toyoda M, Kahwaji J, Vo AA (2011). Clinical aspects of intravenous immunoglobulin use in solid organ transplant recipients. AJT, 11, 196 - 202. Summary PARVOVIRUS B19 - ASSOCIATED ANEMIA IN KIDNEY TRANSPLANT RECIPIENTS Parvovirus B19 (PVB19) has incorporated into red blood cell progenitors, and can be reacti- vated after organ transplantation. The purpose of this study is to describe clinical manifestations, laboratory findings, treatment and its effectiveness in kidney recipients at Viet Duc hospital. A retrospective descriptive study was performed on 663 kidney recipients who had regular follow- ups from 2000 - 2018. PVB19 was detected by PCR PVB19-DNA and the effectiveness of therapy was assessed by Hemoglobin level. 9/663 kidney recipients (1.4%) were been diagnosed with PVB19-associated anemia. Eight of these 9 recipients (88.9%) were diagnosed within the first 3 months following transplantation. All patients had normoscopic anemia with an average of reticu- locyte percentage of 0.15 ± 0.04%. Graft dysfunction was registered in 4/9 (44.5%) patients. Treatment included adjustment of immunosuppression, intravenous Immunoglobulin (IVIG) and blood transfusion. All patients responded well to treatment except one (11.1%) who experienced relapse after using low dose of IVIG. PVB19-associated anemia usually occurred early after trans- plantation, and was associated with very low reticulocyte percentage. Actual treatment was effec- tive, but the risk of relapse was present. Key words: Parvovirus B19, anemia, kidney transplantation
File đính kèm:
- dac_diem_thieu_mau_do_parvovirus_b19_o_benh_nhan_sau_ghep_th.pdf