Đặc điểm rối loạn trầm cảm chủ yếu ở bệnh nhân ung thư đại trực-tràng

Ung thư đại-trực tràng đang là bệnh ung thư đứng thứ 3 ở nam giới và thứ 2 ở

nữ giới. Bệnh nhân mắc ung thư đại-trực tràng thì rất có nguy cơ bị rối loạn cảm xúc,

đặc biệt là rối loạn trầm cảm, do những hậu quả của bệnh lý về thể chất cũng như tinh

thần, tâm lý xã hội, kinh tế.

Mục tiêu: Chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm xác định tỉ lệ mắc rối loạn trầm

cảm chủ yếu ở các bệnh nhân ung thư đại-trực tràng và các yếu tố liên quan về dịch tễ,

xã hội, tình trạng bệnh tật.

Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang, tiến hành khám lâm sàng 255

bệnh nhân ung thư đại-trực tràng đang điều trị tại Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ

Chí Minh. Bệnh nhân được đánh giá rối loạn trầm cảm chủ yếu theo tiêu chuẩn chẩn

đoán của Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần, lần thứ 5 (Diagnostic and

statistical manual of mental disorders 5, DSM-5)[5], phân loại mức độ nặng của rối

loạn bằng thang Hamilton 17 mục.

Kết quả: Tỉ lệ mắc rối loạn trầm cảm chủ yếu ở bệnh nhân ung thư đại-trực

tràng là 25,88% (22,73% là mức độ rất nặng và nặng, 39,39% là mức độ vừa và 37,88%

là mức độ nhẹ), không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giới tính, tuổi, khu vực sinh

sống. Tỉ lệ trầm cảm cao hơn ở những bệnh nhân có thu nhập thấp, giai đoạn mắc ung

thư muộn, hiện có nhiều triệu chứng ung thư hơn.

pdf 12 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm rối loạn trầm cảm chủ yếu ở bệnh nhân ung thư đại trực-tràng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm rối loạn trầm cảm chủ yếu ở bệnh nhân ung thư đại trực-tràng

Đặc điểm rối loạn trầm cảm chủ yếu ở bệnh nhân ung thư đại trực-tràng
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
109
1 Bệnh viện Quân y 175
2 Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh
2 Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh
Người phản hồi (Corresponding): Đinh Vũ Ngọc Ninh ([email protected])
Ngày nhận bài: 27/8/2018, ngày phản biện: 12/9/2018
Ngày bài báo được đăng: 30/9/2018
ĐẶC ĐIỂM RỐI LOẠN TRẦM CẢM CHỦ YẾU Ở BỆNH NHÂN 
UNG THƯ ĐẠI TRỰC-TRÀNG
Đinh Vũ Ngọc Ninh1, Bùi Chí Viết2
Ngô Tích Linh3, Dương Xuân Minh1 
TÓM TẮT
Ung thư đại-trực tràng đang là bệnh ung thư đứng thứ 3 ở nam giới và thứ 2 ở 
nữ giới. Bệnh nhân mắc ung thư đại-trực tràng thì rất có nguy cơ bị rối loạn cảm xúc, 
đặc biệt là rối loạn trầm cảm, do những hậu quả của bệnh lý về thể chất cũng như tinh 
thần, tâm lý xã hội, kinh tế. 
Mục tiêu: Chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm xác định tỉ lệ mắc rối loạn trầm 
cảm chủ yếu ở các bệnh nhân ung thư đại-trực tràng và các yếu tố liên quan về dịch tễ, 
xã hội, tình trạng bệnh tật.
Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang, tiến hành khám lâm sàng 255 
bệnh nhân ung thư đại-trực tràng đang điều trị tại Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ 
Chí Minh. Bệnh nhân được đánh giá rối loạn trầm cảm chủ yếu theo tiêu chuẩn chẩn 
đoán của Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần, lần thứ 5 (Diagnostic and 
statistical manual of mental disorders 5, DSM-5)[5], phân loại mức độ nặng của rối 
loạn bằng thang Hamilton 17 mục.
Kết quả: Tỉ lệ mắc rối loạn trầm cảm chủ yếu ở bệnh nhân ung thư đại-trực 
tràng là 25,88% (22,73% là mức độ rất nặng và nặng, 39,39% là mức độ vừa và 37,88% 
là mức độ nhẹ), không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giới tính, tuổi, khu vực sinh 
sống. Tỉ lệ trầm cảm cao hơn ở những bệnh nhân có thu nhập thấp, giai đoạn mắc ung 
thư muộn, hiện có nhiều triệu chứng ung thư hơn.
Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ mắc rối loạn trầm cảm chủ yếu ở 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 
110
bệnh nhân ung thư đại trực-tràng là khá cao, một số các yếu tố về dịch tễ, kinh tế xã hội 
giúp tiên lượng nguy cơ mắc của rối loạn này.
CHARACTERISTICS OF MAJOR DEPRESSIVE DISORDER IN 
COLORECTAL CANCER
ABSTRACT
Introduction: Colorectal cancer is the third most common cancer in men and 
the second in women. Patients with colorectal cancer are at high risk for emotional 
disturbances, especially major depressive disorders, as a result of physical and mental 
pathologies, economic and psychosocial conditions.
Email tác giả: [email protected]
Purpose: This study to determine the prevalence of major depressive disorder 
in patients with colorectal cancer and other epidemiological, social and disease factors.
Method: Cross-sectional study designed to carry out a clinical examination of 
255 colorectal cancer patients receiving treatment at the Ho Chi Minh City Oncology 
Hospital. Patients evaluated for major depressive disorders were based on the diagnostic 
criteria of the Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders (DSM-5), severity 
classification of disorder by Hamilton scale 17 items.
Result: The prevalence of major depressive disorder in patients with colorectal 
cancer was 25,88% (22,73% were very severe and severe, 39,39% moderate and 37,88% 
mild). There is no statistically significant difference in sex, age or area of residence. The 
rate of depression is higher in low-income, late-stage cancer patients, who have more 
cancer symptoms.
Conclusion: Results of study is a relative high prevalence major depressive 
disorder in colorectal cancer and some epidemiological, sociaeconomic factors can 
predict this disorder.
Keywords: Major depressive disorder, colorectal cancer, DSM-5.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư đại-trực tràng là thuật 
ngữ để chỉ những khối ung thư xuất phát 
từ biểu mô niêm mạc đại-trực tràng. Đây là 
một trong năm loại ung thư phổ biến nhất 
thế giới. Theo báo cáo về ung thư năm 
2012 của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), 
số bệnh nhân mắc ung thư mới hàng năm 
là 14 triệu người, trong đó 8 triệu người 
tử vong, hơn 60% trường hợp mắc mới là 
ở khu vực ở Châu Phi, Châu Á, Trung và 
Nam Mỹ, khoảng 70% trường hợp chết do 
ung thư cũng ở đây [8]. Ung thư đại-trực 
tràng là loại ung thư có tỉ lệ mắc cao, đứng 
thứ 3 ở nam giới chiếm với 10,0% sau ung 
thư phổi và ung thư tuyến tiền liệt; đứng 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
111
thứ 2 ở nữ giới chiếm 9,2% sau ung thư 
vú. Tỉ lệ mắc và tử vong cao nhất ở Châu 
Âu, lần lượt là 32,9% trên 1,4 triệu ca mắc 
và 31% trên 694.000 ca tử vong. Tỉ lệ mắc 
và tử vong ở khu vực Đông và Trung Á 
khoảng 19,3% và 18,5%, xếp thứ 2 và thứ 
3 phân theo khu vực.
Trong báo cáo về Sự bùng phát 
của ung thư ở các nước Đông Nam Á năm 
2012 của tác giả Merel Kimman cùng 
cộng sự, ung thư đại-trực tràng vẫn nằm 
trong tốp 5 loại ung thư phổ biến. Cụ thể, 
tỉ lệ mắc mới ở cả 2 giới giữ vị trí thứ 4 
với 68.811 ca và tỉ lệ tử vong thứ 2 với 
44.280 ca. Ở Việt Nam, tỉ lệ mắc ung thư 
đại trực-tràng ở nam và nữ lần lượt là 8,7% 
và 9,7%, tỉ lệ tử vong lần lượt là 4,8% và 
5,1%[9].
Nhiều nghiên cứu đã ghi nhận về 
tỉ lệ mắc trầm cảm ở bệnh nhân ung thư. 
Tỉ lệ cho thấy nhiều kết quả khác nhau, 
thường cao hơn ở dân số chung không 
mắc ung thư (khoảng 6,7%)[1]. Ở ung 
thư đại-trực tràng, theo một nghiên cứu 
tổng hợp của Sehlo và Al Ahwal năm 
2013 cho thấy tỉ lệ mắc trầm cảm từ 13-
57% [11, 12], một số nghiên cứu điển hình 
như Matsushita (2005) tại Tokyo, Nhật 
với phương pháp HADS, tỷ lệ 28%; 
Sherif (2001), phương pháp DSM IV, 
tại Jeddah, Ả Rập Saudi, tywr lệ 40%; 
Pasquini (2006) Roma, Ý, với phương 
pháp HADS/SCID-1 có tỷ lệ 20%; 
Tavoli (2007) với phương pháp HADS, 
tại Tehran, Iran, tỷ lệ 57%.
Các nghiên cứu chưa đánh giá 
được hết các yếu tố có liên quan đến tỉ lệ 
mắc trên, chúng tôi thực hiện nhằm xác 
định tỉ lệ mắc rối loạn trầm cảm chủ yếu 
ở các bệnh nhân ung thư đại-trực tràng và 
các yếu tố liên quan về dịch tễ, xã hội, tình 
trạng bệnh tật.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng: 
Chúng tôi chọn mẫu là 255 bệnh 
nhân được chẩn đoán xác định mắc ung 
thư đại-trực tràng đang điều trị tại Bệnh 
viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh từ 
tháng 1 năm 2018 đến tháng 5 năm 2018. 
Chúng tôi đưa vào nghiên cứu những bệnh 
nhân thỏa tiêu chí: 
Bệnh nhân trên 16 tuổi.
Được chẩn đoán ung thư đại-trực 
tràng ở bất kỳ giai đoạn.
Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Thời gian chẩn đoán xác định ung 
thư đại trực tràng đến khi lấy mẫu ít nhất 
4 tuần.
Không mắc các bệnh lý nội khoa 
khác (cường/suy giáp), không đang sử 
dụng các thuốc điều trị các bệnh lý nội 
khoa nói trên, không dùng corticoid kéo 
dài, không dùng các thuốc chống ung thư.
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 
112
2. Phương pháp nghiên cứu: Mô 
tả cắt ngang.
Cách tiến hành: 
Chúng tôi tiếp cận hồ sơ bệnh án 
của bệnh nhân tham gia nghiên cứu để thu 
thập các thông tin về hành chính, ghi nhận 
về chẩn đoán ung thư đại-trực tràng.
Tiến hành phỏng vấn lâm sàng 
chẩn đoán rối loạn trầm cảm chủ yếu theo 
tiêu chuẩn DSM-5.
Bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn rối 
loạn trầm cảm chủ yếu sẽ tiếp tục được 
phỏng vấn bằng thang đánh giá trầm cảm 
Hamilton 17 mục.
Phương pháp thống kê:
Chúng tôi sử dụng phần mềm 
quản lý là EpiData 3.1 và xử lý số liệu 
bằng phần mềm Stata IC 13.
Phép kiểm định sử dụng là t-test 
và Chi bình phương.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Khảo sát 255 bệnh nhân ung thư 
đại-trực tràng tại Bệnh viện Ung bướu 
Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi có 
được kết quả như sau:
Bảng 1: Đặc điểm của mẫu nghiên cứu (n=255)
Đặc điểm % (n) Trung bình (SD)
Giới tính (nữ) 43,53 (111)
Tuổi (năm) 58,03 (12,85)
Dân tộc 
 Kinh
 Khác
98,04 (250)
1,96 (5)
Tôn giáo 
 Không
 Có
56,08 (143)
43,92 (112)
Nơi sinh sống
 Nông thôn
 Thành thị
61,96 (158)
38,04 (97)
Trình độ học vấn
 Dưới PTTH
 Trên PTTH
80,78 (206)
19,22 (49)
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
113
Nghề nghiệp
 Lao động trí óc
 Lao động chân tay
10,59 (27)
89,41 (228)
Hôn nhân
 Hiện có vợ/chồng
 Độc thân
 Góa
 Đã ly dị
77,65 (198)
2,75 (7)
14,90 (38)
4,71 (12)
Thu nhập
 Trên trung bình
 Trung bình và nghèo
75,69 (193)
24,31 (62)
BMI (kg/m2) 21,48 (0,19)
Chỉ số Karnofsky (KPS) 76,35 (6,32)
Loại tế bào ung thư
 Biểu mô tuyến
 Khác
92,55 (236)
7,45 (19)
Giai đoạn ung thư
 Giai đoạn I và II
 Giai đoạn III và IV
37,64 (96)
62,36 (159)
Vị trí ung thư
 Đại tràng phải
 Đại tràng ngang
 Đại tràng trái
 Trực tràng
17,65 (45)
3,14 (8)
9,01 (23)
70,20 (179)
Các phương pháp điều trị
 Phẫu thuật
 Phẫu thuật và xạ/hóa trị
 Phẫu thuật, xạ trị và hóa trị
61,18 (156)
26,67 (68)
12,15 (31)
Hậu môn nhân tạo
 Không
 Có (tạm thời và vĩnh viễn)
91,38 (233)
8,62 (22)
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 
114
Bệnh nhân tham gia nghiên cứu 
có 56,47% là nam, nhiều hơn so với nữ 
là 43,53%. Tuổi trung bình bệnh nhân là 
58,03 tuổi (SD 12,85 tuổi). Dân tộc kinh 
chiếm đại đa số với 98,04%. Bệnh nhân 
không theo tín ngưỡng tôn giáo là 56,08%, 
số còn lại theo Phật giáo, Thiên chúa giáo 
và một số tôn giáo khác. Gần 2/3 bệnh 
nhân (61,96%) là đang sinh sống ở khu 
vực nông thôn. Trình độ học vấn từ PTTH 
trở lên chỉ 19,22%. Lao động trí óc khoảng 
10,59% bệnh nhân, 89,41% làm công việc 
lao động chân tay. Bệnh nhân hiện đang 
sống với vợ/chồng là 77,65%, độc thân là 
2,75%, đã ly dị là 4,71% và góa là 14,90%. 
Thu nhập bệnh nhân trên trung bình là 
75,69%, trung bình và nghèo là 24,31%. 
BMI trung bình bệnh nhân là 21,48 kg/
m2 (SD 0,19 kg/m2). Chỉ số KPS trung 
bình là 76,35 (SD 6,32). Ung thư tế bào 
biêu mô tuyến là loại chiếm phần lớn với 
92,55%. Bệnh nhân ở giai đoạn sớm (I và 
II) là 37,64%, giai đoạn muộn (III và IV) 
là 62,36%. Vị trí ung thư nhiều nhất là trực 
tràng với 70,20%, ung thư đại tràng phải là 
17,65%, đại tràng trài là 9,01%, đại tràng 
ngang chỉ 3,14%. Bệnh nhân được điều 
trị bằng phẫu thuật đơn thuần là 61,18%, 
phẫu thuật và xạ/hóa trị là 26,67%, điều 
trị cả 3 phương pháp phẫu thuật, xạ trị và 
hóa trị là 12,15%. Bệnh nhân phần lớn là 
không làm hậu môn nhân tạo đến 91,38%, 
có làm hậu môn nhân tạo (tạm thời và vĩnh 
viễn) chiếm 8,62%.
Bảng 2: Đặc điểm dịch tễ và một số yếu tố của rối loạn trầm cảm chủ yếu ở bệnh 
nhân nghiên cứu (n=255)
Đặc điểm Trầm cảm
% (n)
Không trầm cảm
% (n)
Giá trị p
Tỉ lệ 25,88 (66) 74,12 (189)
Mức độ nặng
 Nhẹ
 Vừa
 Nặng
 Rất nặng
37,88 (25)
39,39 (26)
16,67 (11)
6,06 (4)
Giới tính
 Nam
 Nữ 
30,56 (44)
19,82 (22)
69,44 (100)
80,18 (89)
0,052
Tuổi (trung bình) 57,77 58,12 0,83
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
115
Dân tộc
 Kinh
 Khác
26,00 (65)
20,00 (1)
74,00 (185)
80,00 (4)
0,76
Tôn giáo
 Có
 Không
12,50 (14)
36,36 (52)
87,50 (98)
63,64 (91)
<0,001
Trình độ học vấn
 Dưới PTTH
 Trên PTTH
30,10 (62)
8,16 (4)
69,90 (144)
91,84 (45)
0,002
Nghề nghiệp
 Lao động trí óc
 Lao động chân tay
7,41 (2)
28,07 (64)
92,59 (25)
71,93 (164)
0,02
Hôn nhân
 Hiện có vợ/chồng
 Độc thân
 Góa
 Đã ly dị
20,20 (40)
71,43 (5)
26,32 (10)
91,67 (11)
79,80 (158)
28,57 (2)
73,68 (28)
8,33 (1)
<0,001
Kinh tế
 Trên trung bình
 Trung bình, nghèo
10,36 (20)
74,19 (46)
89,64 (173)
25,81 (16)
<0,001
BMI (kg/m2) 21,06 21,62 0,24
Chỉ số KPS 65,15 80,26 <0,001
Loại ung thư
 Biểu mô tuyến
 Khác
25,85 (61)
26,32 (5)
74,15 (175)
73,68 (14)
0,964
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 
116
Vị trí ung thư
 Đại tràng phải
 Đại tràng ngang
 Đại tràng trái
 Trực tràng
15,56 (7)
25,00 (2)
17,39 (4)
29,61 (53)
84,44 (38)
75,00 (6)
82,61 (19)
70,39 (126)
0,198
Giai đoạn ung thư
 Giai đoạn I và II
 Giai đoạn III và IV
8,33 (8)
36,48 (58)
91,67 (88)
63,52 (101)
<0,001
Điều trị
 Phẫu thuật
 Phẫu thuật và hóa/
xạ trị
 Phẫu thuật, hóa trị và 
xạ trị
13,46 (21)
33,82 (23)
70,97 (22)
86,54 (135)
66,18 (45)
29,03 (9)
<0,001
Hậu môn nhân tạo
 Không
 Tạm thời và vĩnh viễn
21,03 (49)
77,27 (17)
78,97 (184)
22,73 (5)
<0,001
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ 
lệ mắc rối loạn trầm cảm chủ yếu ở bệnh 
nhân ung thư đại-trực tràng là 25,88% 
(trong đó có 22,73% là mức độ rất nặng và 
nặng, 39,39% là mức độ vừa và 37,88% là 
mức độ nhẹ). 
Các yếu tố về giới tính, tuổi, dân 
tộc, chỉ số BMI, loại tế bào ung thư, vị 
trí ung thư không thấy sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê (p>0,05); các yếu tố như 
tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, 
tình trạng hôn nhân và kinh tế, chỉ số KPS, 
giai đoạn ung thư, phương pháp điều trị, số 
lượng triệu chứng ung thư trên bệnh nhân 
và tình trạng hậu môn nhân tạo cho thấy 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). 
Đặc điểm lâm sàng của rối loạn 
trầm cảm ghi nhận triệu chứng phổ biến 
nhất là khí sắc trầm ở 59/66 bệnh nhân, 
giảm/mất quan tâm thích thú ở 58/66 bệnh 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
117
nhân; đặc biệt triệu chứng có ý nghĩ hoặc 
hành vi tự sát tới 50% (33/66) bệnh nhân.
BÀN LUẬN
Theo kết quả của nghiên cứu thấy 
tỉ lệ bệnh nhân mắc rối loạn trầm cảm chủ 
yếu ở bệnh nhân ung thư đại-trực tràng là 
25.88%, kết quả này cũng tương đồng với 
một số nghiên cứu như của tác giả Braamse 
[6], tác giả Aminisani [4], cao hơn kết quả 
một số các nghiên cứu của tác giả Massie 
[10], tác giả Wilson [13]. Kết quả này sở 
dĩ có sự khác biệt là do đặc điểm dân số 
nghiên cứu, công cụ đánh giá, tiêu chuẩn 
chẩn đoán khác biệt. Mức độ nặng của 
trầm cảm ở bệnh nhân phân bố ở 4 mức 
độ là nhẹ (37,88%), vừa (39,39%), nặng 
(16,67%) và rất nặng (6,.06%). Kết quả 
này tương tự với nghiên cứu của tác giả 
Caruso và cộng sự [7], tác giả Al Ahwal 
[12].
Kết quả nghiên cứu cho thấy, rối 
loạn trầm cảm chủ yếu mắc nhiều ở nam 
giới hơn nữ giới, sự khác biệt này không 
có ý nghĩa thống kê (p=0,052). So sánh 
với các nghiên cứu cho thấy kết quả tương 
tự như nghiên cứu của tác giả Al Ahwal 
[12], tác giả Lê Thoại Quyên [2]. Bệnh 
nhân thuộc nhóm trình độ học vấn sau phổ 
thông trung học (trung cấp-cao đẳng, đại 
học, sau đại học) có tỉ lệ mắc trầm cảm 
là 8,16% thấp hơn nhóm trình độ học vấn 
phổ thông trung học trở xuống (mù chữ, 
tiểu học, trung học cơ sở, phổ thông trung 
học) có tỉ lệ mắc là 30,10%, sự khác biệt 
có ý nghĩa thống kê với p=0,002. Điều này 
có sự tương đồng với kết quả nghiên cứu 
của tác giả Nguyễn Đăng Khoa, Nguyễn 
Văn Phụng là tỉ lệ mắc trầm cảm cao ở 
nhóm có trình độ học vấn thấp hơn là 
nhóm có trình độ học vấn cao [3], nhưng 
kết quả ngược lại nghiên cứu của tác giả 
Lê Thoại Quyên [2]. Bệnh nhân có tỉ lệ 
mắc trầm cảm cao nhất ở nhóm đã ly dị 
(91,67%) và nhóm độc thân (71,43%), 
thấp hơn là nhóm góa (26,32%) và hiện 
có gia đình (20,20%) với sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê (p<0,001). So sánh với 
kết quả của tác giả Nguyễn Đăng Khoa, 
Nguyễn Văn Phụng [3], tác giả Braamse 
[6] có kết quả tương tự. Nhóm bệnh nhân 
có thu nhập trung bình trở xuống có tỉ lệ 
trầm cảm là 74,19%, nhóm có thu nhập trên 
trung bình có tỉ lệ trầm cảm là 10,36%, sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). 
So với nghiên cứu của tác giả Al Ahwal thì 
tỉ lệ trầm cảm ở nhóm thu nhập trung bình 
trở xuống cao hơn, nhóm thu nhập trên 
trung bình thấp hơn (với p = 0,005) [12]. 
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy tỉ 
lệ mắc rối loạn trầm cảm chủ yếu ở bệnh 
nhân ung thư đại-trực tràng là 25,88%, 
trong đó có 22,73% là mức độ rất nặng và 
nặng, 39,39% là mức độ vừa và 37,88% 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 
118
là mức độ nhẹ. Các triệu chứng chính hay 
gặp nhất tương ứng với tiêu chuẩn chẩn 
đoán của DSM-5 là khí sắc trầm và mất 
hứng thú lần lượt gặp ở 59/66 và 58/66 
bệnh nhân, đáng chú ý là triệu chứng ý 
nghĩ/hành vi tự sát gặp tới 50% bệnh nhân. 
Một số yếu tố như tôn giáo, trình độ học 
vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và 
thu nhập, chỉ số KPS, giai đoạn ung thư, 
phương pháp điều trị, tình trạng hậu môn 
nhân tạo và số triệu chứng ung thư ở bệnh 
nhân là có liên quan đến tỉ lệ mắc rối loạn 
trầm cảm chủ yếu. Về mặt lâm sàng, việc 
chú ý đến các yếu tố trên sẽ góp phần 
giúp các bác sỹ điều trị tiên lượng bệnh và 
hướng tới điều trị toàn diện cho bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Hoàng Hải (2008) “Trầm 
cảm ở người trưởng thành tại Thành phố 
Hồ Chí Minh - Tỉ lệ mắc và hiệu quả của 
giáo dục trong điều trị”, p. 
2. Lê Thoại Quyên (2017) Khảo 
sát tỷ lệ rối loạn trầm cảm chủ yếu trên 
bệnh nhân ung thư phổi nguyên phát và 
các yếu tố liên quan.
3. Nguyễn Đăng Khoa, Nguyễn 
Văn Phụng (2014) Khảo sát tỉ lệ trầm cảm 
và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân ung 
thư vú điều trị tại bệnh viện ung bướu TP. 
Hồ Chí Minh năm 2014. IN Minh, B. v. T. 
t. T. H. C. (Ed.).
4. N. Aminisani, et al. (2016) 
“Depression, anxiety, and health related 
quality of life among colorectal cancer 
survivors”. Journal of Gastrointestinal 
Oncology, 8, (1), p. 81-88.
5. V. A. Arlington (2013) “Desk 
Reference to the Diagnostic Criteria 
From DSM-5”, American Psychiatric 
Association, p. 
6. M. J. A. Braamse, et al. 
(2016) “Factors associated with anxiety 
and depressive symptoms in colorectal 
cancer survivors”. European Journal of 
Gastroenterology & Hepatology, 28 (7), 
p. 831-835.
7. R. Caruso, M. G. Nanni, M. 
Riba, S. Sabato, A. J. Mitchell, E. Croce, 
L. Grassi (2017) “Depressive spectrum 
disorders in cancer: prevalence, risk 
factors and screening for depression: a 
critical review”. Acta Oncologica, 56, (2), 
p. 146-155.
8. D. Forman, J. Ferlay (2014) 
World Cancer Report. Switzerland.
9. M. Kimman, R. Norman, S. Jan, 
D. Kingston, M. Woodward (2012) “The 
Burden of Cancer in Member Countries of 
the Association of Southeast Asian Nations 
(ASEAN)”. Asian Pacific J Cancer Prev, 
13, 411-420.
10. M. J. Massie (2004) 
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 
119
“Prevalence of Depression in Patients 
With Cancer”. Journal of National Cancer 
Institues Monography, 32, 57-71.
11. M. G. Sehlo, M. S. Al Ahwal 
(2013) “Depression in patients with 
colorectal cancer”. Saudi Med J 2013, 34, 
(4), p. 341-347.
12. M. Shaheen Al Ahwal, F. Al 
Zaben, D. Khalifa, M. Sehlo, R. Ahmad, 
H. Koenig (2015) “Depression in patients 
with colorectal cancer in Saudi Arabia”. 
Psycho-Oncology, 24, (9), p. 1043-1050.
13. K. G. Wilson, et al. (2007) 
“Depression and Anxiety Disorders in 
Palliative Cancer Care “. Journal of Pain 
and Symptom Management, 33, (2), p. 
118–129.
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 
120
THỂ LỆ BÀI ĐĂNG TẠP CHÍ Y 
DƯỢC THỰC HÀNH 175
Tạp chí Y dược thực hành 175 xuất 
bản 4 số thường kỳ/năm và các chuyên đề, 
đăng tải các công trình nghiên cứu, các bài 
tổng quan về Y-Dược học trong nước và 
Quốc tế, thông tin về nghiên cứu và đào tạo.
I. Một số yêu cầu về bài đăng 
công trình nghiên cứu khoa học:
1. Bài gửi đăng công trình nghiên 
cứu khoa học chưa đăng ở bất kỳ tạp chí 
quốc gia nào.
2. Các thuật ngữ thống nhất theo từ 
điển Bách khoa Việt Nam.
3. Bài gửi đăng bắt buộc phải đánh 
máy bằng tiếng Việt, rõ ràng, lề trái 3 cm, 
lề phải 2 cm, lề trên 2 cm, lề dưới 2 cm. 
Một bài không dài quá 7 trang khổ A4, font 
Time New Roman cỡ 13. Các danh từ tiếng 
Việt Nam nếu dịch từ tiếng nước ngoài phải 
viết kèm theo tiếng nước ngoài. Các chữ 
viết tắt phải có chú thích các từ gốc của các 
chữ viết tắt.
4. Trình tự các mục trong bài viết:
a. Đầu đề (tiếng Việt và tiếng Anh).
b. Họ và tên tác giả: không ghi học 
hàm, học vị, chức danh. Có ghi chú nơi 
công tác của tác giả.
c. Nội dung:
- Tóm tắt tiếng Việt và tiếng Anh 
(tối đa 200 từ).
- Đặt vấn đề, bao gồm cả phần mục 
tiêu nghiên cứu của đề tài.
- Đối tượng và phương pháp nghiên 
cứu.
- Kết quả.
- Bàn luận.
- Kết luận.
Chỉ sử dụng những bảng biểu, ảnh 
cần thiết và phải ghi chú thích rõ yêu cầu in 
vào đoạn nào trong bài, mỗi bài không quá 
5 hình.
d. Tài liệu tham khảo (không qua 
10 tài liệu): Tài liệu tiếng Việt ghi trước, 
sau đó tài liệu tiếng nước ngoài. Tài liệu 
tham khảo ghi theo thứ tự: họ tên tác giả, 
năm xuất bản, tên cuốn sách, bài báo, tạp 
chí, số trang và trang tham khảo.
5. Mỗi tác giả đứng tên đầu của bài 
báo chỉ được đăng tối đa một bài trong một 
số. Bài gửi đăng không trả lại bản thảo. Tác 
giả ghi số điện thoại và địa chỉ email vào 
cuối bài.
II. Đối với các bài tổng quan, 
trao đổi học tập, thông tin, bài dịch, kiến 
thức thường thức:
Đối với các bài tổng quan cần có 
đầy đủ các tài liệu tham khảo và nguồn số 
liệu đã được trích dẫn trong bài. Tác giả bài 
tổng quan ghi rõ chức danh, học hàm, học 
vị, chuyên ngành, cơ quan hoặc Hội chuyên 
khoa ở phần ghi chú cuối trang đầu tiên của 
bài viết. Bài tổng quan được đánh bằng 
tiếng Việt, dài không quá 7 trang khổ A4 
(kể cả bảng biểu và tài liệu tham khảo).
Các thông tin, bài dịch, kiến thức 
thường thức cần ghi rõ xuất xứ của nguồn 
tài liệu. Đối với bài dịch cần chụp toàn văn 
bản bài báo tiếng nước ngoài gửi kèm bài 
dịch.
*Bài viết xin gửi về: Tòa soạn Tạp 
chí Y Dược thực hành 175, Bệnh viện Quân 
y 175 – Số 786 Nguyễn Kiệm, Phường 
3, Quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh. Điện 
thoại: 069.641192 hoặc gửi qua email: 
[email protected] 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_roi_loan_tram_cam_chu_yeu_o_benh_nhan_ung_thu_dai_t.pdf