Đặc điểm rối loạn trầm cảm chủ yếu ở bệnh nhân ung thư đại trực-tràng
Ung thư đại-trực tràng đang là bệnh ung thư đứng thứ 3 ở nam giới và thứ 2 ở
nữ giới. Bệnh nhân mắc ung thư đại-trực tràng thì rất có nguy cơ bị rối loạn cảm xúc,
đặc biệt là rối loạn trầm cảm, do những hậu quả của bệnh lý về thể chất cũng như tinh
thần, tâm lý xã hội, kinh tế.
Mục tiêu: Chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm xác định tỉ lệ mắc rối loạn trầm
cảm chủ yếu ở các bệnh nhân ung thư đại-trực tràng và các yếu tố liên quan về dịch tễ,
xã hội, tình trạng bệnh tật.
Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang, tiến hành khám lâm sàng 255
bệnh nhân ung thư đại-trực tràng đang điều trị tại Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ
Chí Minh. Bệnh nhân được đánh giá rối loạn trầm cảm chủ yếu theo tiêu chuẩn chẩn
đoán của Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần, lần thứ 5 (Diagnostic and
statistical manual of mental disorders 5, DSM-5)[5], phân loại mức độ nặng của rối
loạn bằng thang Hamilton 17 mục.
Kết quả: Tỉ lệ mắc rối loạn trầm cảm chủ yếu ở bệnh nhân ung thư đại-trực
tràng là 25,88% (22,73% là mức độ rất nặng và nặng, 39,39% là mức độ vừa và 37,88%
là mức độ nhẹ), không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giới tính, tuổi, khu vực sinh
sống. Tỉ lệ trầm cảm cao hơn ở những bệnh nhân có thu nhập thấp, giai đoạn mắc ung
thư muộn, hiện có nhiều triệu chứng ung thư hơn.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm rối loạn trầm cảm chủ yếu ở bệnh nhân ung thư đại trực-tràng
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 109 1 Bệnh viện Quân y 175 2 Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh 2 Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh Người phản hồi (Corresponding): Đinh Vũ Ngọc Ninh ([email protected]) Ngày nhận bài: 27/8/2018, ngày phản biện: 12/9/2018 Ngày bài báo được đăng: 30/9/2018 ĐẶC ĐIỂM RỐI LOẠN TRẦM CẢM CHỦ YẾU Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐẠI TRỰC-TRÀNG Đinh Vũ Ngọc Ninh1, Bùi Chí Viết2 Ngô Tích Linh3, Dương Xuân Minh1 TÓM TẮT Ung thư đại-trực tràng đang là bệnh ung thư đứng thứ 3 ở nam giới và thứ 2 ở nữ giới. Bệnh nhân mắc ung thư đại-trực tràng thì rất có nguy cơ bị rối loạn cảm xúc, đặc biệt là rối loạn trầm cảm, do những hậu quả của bệnh lý về thể chất cũng như tinh thần, tâm lý xã hội, kinh tế. Mục tiêu: Chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm xác định tỉ lệ mắc rối loạn trầm cảm chủ yếu ở các bệnh nhân ung thư đại-trực tràng và các yếu tố liên quan về dịch tễ, xã hội, tình trạng bệnh tật. Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang, tiến hành khám lâm sàng 255 bệnh nhân ung thư đại-trực tràng đang điều trị tại Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh. Bệnh nhân được đánh giá rối loạn trầm cảm chủ yếu theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần, lần thứ 5 (Diagnostic and statistical manual of mental disorders 5, DSM-5)[5], phân loại mức độ nặng của rối loạn bằng thang Hamilton 17 mục. Kết quả: Tỉ lệ mắc rối loạn trầm cảm chủ yếu ở bệnh nhân ung thư đại-trực tràng là 25,88% (22,73% là mức độ rất nặng và nặng, 39,39% là mức độ vừa và 37,88% là mức độ nhẹ), không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giới tính, tuổi, khu vực sinh sống. Tỉ lệ trầm cảm cao hơn ở những bệnh nhân có thu nhập thấp, giai đoạn mắc ung thư muộn, hiện có nhiều triệu chứng ung thư hơn. Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ mắc rối loạn trầm cảm chủ yếu ở TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 110 bệnh nhân ung thư đại trực-tràng là khá cao, một số các yếu tố về dịch tễ, kinh tế xã hội giúp tiên lượng nguy cơ mắc của rối loạn này. CHARACTERISTICS OF MAJOR DEPRESSIVE DISORDER IN COLORECTAL CANCER ABSTRACT Introduction: Colorectal cancer is the third most common cancer in men and the second in women. Patients with colorectal cancer are at high risk for emotional disturbances, especially major depressive disorders, as a result of physical and mental pathologies, economic and psychosocial conditions. Email tác giả: [email protected] Purpose: This study to determine the prevalence of major depressive disorder in patients with colorectal cancer and other epidemiological, social and disease factors. Method: Cross-sectional study designed to carry out a clinical examination of 255 colorectal cancer patients receiving treatment at the Ho Chi Minh City Oncology Hospital. Patients evaluated for major depressive disorders were based on the diagnostic criteria of the Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders (DSM-5), severity classification of disorder by Hamilton scale 17 items. Result: The prevalence of major depressive disorder in patients with colorectal cancer was 25,88% (22,73% were very severe and severe, 39,39% moderate and 37,88% mild). There is no statistically significant difference in sex, age or area of residence. The rate of depression is higher in low-income, late-stage cancer patients, who have more cancer symptoms. Conclusion: Results of study is a relative high prevalence major depressive disorder in colorectal cancer and some epidemiological, sociaeconomic factors can predict this disorder. Keywords: Major depressive disorder, colorectal cancer, DSM-5. ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư đại-trực tràng là thuật ngữ để chỉ những khối ung thư xuất phát từ biểu mô niêm mạc đại-trực tràng. Đây là một trong năm loại ung thư phổ biến nhất thế giới. Theo báo cáo về ung thư năm 2012 của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), số bệnh nhân mắc ung thư mới hàng năm là 14 triệu người, trong đó 8 triệu người tử vong, hơn 60% trường hợp mắc mới là ở khu vực ở Châu Phi, Châu Á, Trung và Nam Mỹ, khoảng 70% trường hợp chết do ung thư cũng ở đây [8]. Ung thư đại-trực tràng là loại ung thư có tỉ lệ mắc cao, đứng thứ 3 ở nam giới chiếm với 10,0% sau ung thư phổi và ung thư tuyến tiền liệt; đứng CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 111 thứ 2 ở nữ giới chiếm 9,2% sau ung thư vú. Tỉ lệ mắc và tử vong cao nhất ở Châu Âu, lần lượt là 32,9% trên 1,4 triệu ca mắc và 31% trên 694.000 ca tử vong. Tỉ lệ mắc và tử vong ở khu vực Đông và Trung Á khoảng 19,3% và 18,5%, xếp thứ 2 và thứ 3 phân theo khu vực. Trong báo cáo về Sự bùng phát của ung thư ở các nước Đông Nam Á năm 2012 của tác giả Merel Kimman cùng cộng sự, ung thư đại-trực tràng vẫn nằm trong tốp 5 loại ung thư phổ biến. Cụ thể, tỉ lệ mắc mới ở cả 2 giới giữ vị trí thứ 4 với 68.811 ca và tỉ lệ tử vong thứ 2 với 44.280 ca. Ở Việt Nam, tỉ lệ mắc ung thư đại trực-tràng ở nam và nữ lần lượt là 8,7% và 9,7%, tỉ lệ tử vong lần lượt là 4,8% và 5,1%[9]. Nhiều nghiên cứu đã ghi nhận về tỉ lệ mắc trầm cảm ở bệnh nhân ung thư. Tỉ lệ cho thấy nhiều kết quả khác nhau, thường cao hơn ở dân số chung không mắc ung thư (khoảng 6,7%)[1]. Ở ung thư đại-trực tràng, theo một nghiên cứu tổng hợp của Sehlo và Al Ahwal năm 2013 cho thấy tỉ lệ mắc trầm cảm từ 13- 57% [11, 12], một số nghiên cứu điển hình như Matsushita (2005) tại Tokyo, Nhật với phương pháp HADS, tỷ lệ 28%; Sherif (2001), phương pháp DSM IV, tại Jeddah, Ả Rập Saudi, tywr lệ 40%; Pasquini (2006) Roma, Ý, với phương pháp HADS/SCID-1 có tỷ lệ 20%; Tavoli (2007) với phương pháp HADS, tại Tehran, Iran, tỷ lệ 57%. Các nghiên cứu chưa đánh giá được hết các yếu tố có liên quan đến tỉ lệ mắc trên, chúng tôi thực hiện nhằm xác định tỉ lệ mắc rối loạn trầm cảm chủ yếu ở các bệnh nhân ung thư đại-trực tràng và các yếu tố liên quan về dịch tễ, xã hội, tình trạng bệnh tật. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng: Chúng tôi chọn mẫu là 255 bệnh nhân được chẩn đoán xác định mắc ung thư đại-trực tràng đang điều trị tại Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 1 năm 2018 đến tháng 5 năm 2018. Chúng tôi đưa vào nghiên cứu những bệnh nhân thỏa tiêu chí: Bệnh nhân trên 16 tuổi. Được chẩn đoán ung thư đại-trực tràng ở bất kỳ giai đoạn. Đồng ý tham gia nghiên cứu. Thời gian chẩn đoán xác định ung thư đại trực tràng đến khi lấy mẫu ít nhất 4 tuần. Không mắc các bệnh lý nội khoa khác (cường/suy giáp), không đang sử dụng các thuốc điều trị các bệnh lý nội khoa nói trên, không dùng corticoid kéo dài, không dùng các thuốc chống ung thư. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 112 2. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Cách tiến hành: Chúng tôi tiếp cận hồ sơ bệnh án của bệnh nhân tham gia nghiên cứu để thu thập các thông tin về hành chính, ghi nhận về chẩn đoán ung thư đại-trực tràng. Tiến hành phỏng vấn lâm sàng chẩn đoán rối loạn trầm cảm chủ yếu theo tiêu chuẩn DSM-5. Bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn rối loạn trầm cảm chủ yếu sẽ tiếp tục được phỏng vấn bằng thang đánh giá trầm cảm Hamilton 17 mục. Phương pháp thống kê: Chúng tôi sử dụng phần mềm quản lý là EpiData 3.1 và xử lý số liệu bằng phần mềm Stata IC 13. Phép kiểm định sử dụng là t-test và Chi bình phương. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Khảo sát 255 bệnh nhân ung thư đại-trực tràng tại Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi có được kết quả như sau: Bảng 1: Đặc điểm của mẫu nghiên cứu (n=255) Đặc điểm % (n) Trung bình (SD) Giới tính (nữ) 43,53 (111) Tuổi (năm) 58,03 (12,85) Dân tộc Kinh Khác 98,04 (250) 1,96 (5) Tôn giáo Không Có 56,08 (143) 43,92 (112) Nơi sinh sống Nông thôn Thành thị 61,96 (158) 38,04 (97) Trình độ học vấn Dưới PTTH Trên PTTH 80,78 (206) 19,22 (49) CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 113 Nghề nghiệp Lao động trí óc Lao động chân tay 10,59 (27) 89,41 (228) Hôn nhân Hiện có vợ/chồng Độc thân Góa Đã ly dị 77,65 (198) 2,75 (7) 14,90 (38) 4,71 (12) Thu nhập Trên trung bình Trung bình và nghèo 75,69 (193) 24,31 (62) BMI (kg/m2) 21,48 (0,19) Chỉ số Karnofsky (KPS) 76,35 (6,32) Loại tế bào ung thư Biểu mô tuyến Khác 92,55 (236) 7,45 (19) Giai đoạn ung thư Giai đoạn I và II Giai đoạn III và IV 37,64 (96) 62,36 (159) Vị trí ung thư Đại tràng phải Đại tràng ngang Đại tràng trái Trực tràng 17,65 (45) 3,14 (8) 9,01 (23) 70,20 (179) Các phương pháp điều trị Phẫu thuật Phẫu thuật và xạ/hóa trị Phẫu thuật, xạ trị và hóa trị 61,18 (156) 26,67 (68) 12,15 (31) Hậu môn nhân tạo Không Có (tạm thời và vĩnh viễn) 91,38 (233) 8,62 (22) TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 114 Bệnh nhân tham gia nghiên cứu có 56,47% là nam, nhiều hơn so với nữ là 43,53%. Tuổi trung bình bệnh nhân là 58,03 tuổi (SD 12,85 tuổi). Dân tộc kinh chiếm đại đa số với 98,04%. Bệnh nhân không theo tín ngưỡng tôn giáo là 56,08%, số còn lại theo Phật giáo, Thiên chúa giáo và một số tôn giáo khác. Gần 2/3 bệnh nhân (61,96%) là đang sinh sống ở khu vực nông thôn. Trình độ học vấn từ PTTH trở lên chỉ 19,22%. Lao động trí óc khoảng 10,59% bệnh nhân, 89,41% làm công việc lao động chân tay. Bệnh nhân hiện đang sống với vợ/chồng là 77,65%, độc thân là 2,75%, đã ly dị là 4,71% và góa là 14,90%. Thu nhập bệnh nhân trên trung bình là 75,69%, trung bình và nghèo là 24,31%. BMI trung bình bệnh nhân là 21,48 kg/ m2 (SD 0,19 kg/m2). Chỉ số KPS trung bình là 76,35 (SD 6,32). Ung thư tế bào biêu mô tuyến là loại chiếm phần lớn với 92,55%. Bệnh nhân ở giai đoạn sớm (I và II) là 37,64%, giai đoạn muộn (III và IV) là 62,36%. Vị trí ung thư nhiều nhất là trực tràng với 70,20%, ung thư đại tràng phải là 17,65%, đại tràng trài là 9,01%, đại tràng ngang chỉ 3,14%. Bệnh nhân được điều trị bằng phẫu thuật đơn thuần là 61,18%, phẫu thuật và xạ/hóa trị là 26,67%, điều trị cả 3 phương pháp phẫu thuật, xạ trị và hóa trị là 12,15%. Bệnh nhân phần lớn là không làm hậu môn nhân tạo đến 91,38%, có làm hậu môn nhân tạo (tạm thời và vĩnh viễn) chiếm 8,62%. Bảng 2: Đặc điểm dịch tễ và một số yếu tố của rối loạn trầm cảm chủ yếu ở bệnh nhân nghiên cứu (n=255) Đặc điểm Trầm cảm % (n) Không trầm cảm % (n) Giá trị p Tỉ lệ 25,88 (66) 74,12 (189) Mức độ nặng Nhẹ Vừa Nặng Rất nặng 37,88 (25) 39,39 (26) 16,67 (11) 6,06 (4) Giới tính Nam Nữ 30,56 (44) 19,82 (22) 69,44 (100) 80,18 (89) 0,052 Tuổi (trung bình) 57,77 58,12 0,83 CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 115 Dân tộc Kinh Khác 26,00 (65) 20,00 (1) 74,00 (185) 80,00 (4) 0,76 Tôn giáo Có Không 12,50 (14) 36,36 (52) 87,50 (98) 63,64 (91) <0,001 Trình độ học vấn Dưới PTTH Trên PTTH 30,10 (62) 8,16 (4) 69,90 (144) 91,84 (45) 0,002 Nghề nghiệp Lao động trí óc Lao động chân tay 7,41 (2) 28,07 (64) 92,59 (25) 71,93 (164) 0,02 Hôn nhân Hiện có vợ/chồng Độc thân Góa Đã ly dị 20,20 (40) 71,43 (5) 26,32 (10) 91,67 (11) 79,80 (158) 28,57 (2) 73,68 (28) 8,33 (1) <0,001 Kinh tế Trên trung bình Trung bình, nghèo 10,36 (20) 74,19 (46) 89,64 (173) 25,81 (16) <0,001 BMI (kg/m2) 21,06 21,62 0,24 Chỉ số KPS 65,15 80,26 <0,001 Loại ung thư Biểu mô tuyến Khác 25,85 (61) 26,32 (5) 74,15 (175) 73,68 (14) 0,964 TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 116 Vị trí ung thư Đại tràng phải Đại tràng ngang Đại tràng trái Trực tràng 15,56 (7) 25,00 (2) 17,39 (4) 29,61 (53) 84,44 (38) 75,00 (6) 82,61 (19) 70,39 (126) 0,198 Giai đoạn ung thư Giai đoạn I và II Giai đoạn III và IV 8,33 (8) 36,48 (58) 91,67 (88) 63,52 (101) <0,001 Điều trị Phẫu thuật Phẫu thuật và hóa/ xạ trị Phẫu thuật, hóa trị và xạ trị 13,46 (21) 33,82 (23) 70,97 (22) 86,54 (135) 66,18 (45) 29,03 (9) <0,001 Hậu môn nhân tạo Không Tạm thời và vĩnh viễn 21,03 (49) 77,27 (17) 78,97 (184) 22,73 (5) <0,001 Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ mắc rối loạn trầm cảm chủ yếu ở bệnh nhân ung thư đại-trực tràng là 25,88% (trong đó có 22,73% là mức độ rất nặng và nặng, 39,39% là mức độ vừa và 37,88% là mức độ nhẹ). Các yếu tố về giới tính, tuổi, dân tộc, chỉ số BMI, loại tế bào ung thư, vị trí ung thư không thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05); các yếu tố như tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và kinh tế, chỉ số KPS, giai đoạn ung thư, phương pháp điều trị, số lượng triệu chứng ung thư trên bệnh nhân và tình trạng hậu môn nhân tạo cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Đặc điểm lâm sàng của rối loạn trầm cảm ghi nhận triệu chứng phổ biến nhất là khí sắc trầm ở 59/66 bệnh nhân, giảm/mất quan tâm thích thú ở 58/66 bệnh CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 117 nhân; đặc biệt triệu chứng có ý nghĩ hoặc hành vi tự sát tới 50% (33/66) bệnh nhân. BÀN LUẬN Theo kết quả của nghiên cứu thấy tỉ lệ bệnh nhân mắc rối loạn trầm cảm chủ yếu ở bệnh nhân ung thư đại-trực tràng là 25.88%, kết quả này cũng tương đồng với một số nghiên cứu như của tác giả Braamse [6], tác giả Aminisani [4], cao hơn kết quả một số các nghiên cứu của tác giả Massie [10], tác giả Wilson [13]. Kết quả này sở dĩ có sự khác biệt là do đặc điểm dân số nghiên cứu, công cụ đánh giá, tiêu chuẩn chẩn đoán khác biệt. Mức độ nặng của trầm cảm ở bệnh nhân phân bố ở 4 mức độ là nhẹ (37,88%), vừa (39,39%), nặng (16,67%) và rất nặng (6,.06%). Kết quả này tương tự với nghiên cứu của tác giả Caruso và cộng sự [7], tác giả Al Ahwal [12]. Kết quả nghiên cứu cho thấy, rối loạn trầm cảm chủ yếu mắc nhiều ở nam giới hơn nữ giới, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p=0,052). So sánh với các nghiên cứu cho thấy kết quả tương tự như nghiên cứu của tác giả Al Ahwal [12], tác giả Lê Thoại Quyên [2]. Bệnh nhân thuộc nhóm trình độ học vấn sau phổ thông trung học (trung cấp-cao đẳng, đại học, sau đại học) có tỉ lệ mắc trầm cảm là 8,16% thấp hơn nhóm trình độ học vấn phổ thông trung học trở xuống (mù chữ, tiểu học, trung học cơ sở, phổ thông trung học) có tỉ lệ mắc là 30,10%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p=0,002. Điều này có sự tương đồng với kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Đăng Khoa, Nguyễn Văn Phụng là tỉ lệ mắc trầm cảm cao ở nhóm có trình độ học vấn thấp hơn là nhóm có trình độ học vấn cao [3], nhưng kết quả ngược lại nghiên cứu của tác giả Lê Thoại Quyên [2]. Bệnh nhân có tỉ lệ mắc trầm cảm cao nhất ở nhóm đã ly dị (91,67%) và nhóm độc thân (71,43%), thấp hơn là nhóm góa (26,32%) và hiện có gia đình (20,20%) với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). So sánh với kết quả của tác giả Nguyễn Đăng Khoa, Nguyễn Văn Phụng [3], tác giả Braamse [6] có kết quả tương tự. Nhóm bệnh nhân có thu nhập trung bình trở xuống có tỉ lệ trầm cảm là 74,19%, nhóm có thu nhập trên trung bình có tỉ lệ trầm cảm là 10,36%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). So với nghiên cứu của tác giả Al Ahwal thì tỉ lệ trầm cảm ở nhóm thu nhập trung bình trở xuống cao hơn, nhóm thu nhập trên trung bình thấp hơn (với p = 0,005) [12]. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy tỉ lệ mắc rối loạn trầm cảm chủ yếu ở bệnh nhân ung thư đại-trực tràng là 25,88%, trong đó có 22,73% là mức độ rất nặng và nặng, 39,39% là mức độ vừa và 37,88% TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 118 là mức độ nhẹ. Các triệu chứng chính hay gặp nhất tương ứng với tiêu chuẩn chẩn đoán của DSM-5 là khí sắc trầm và mất hứng thú lần lượt gặp ở 59/66 và 58/66 bệnh nhân, đáng chú ý là triệu chứng ý nghĩ/hành vi tự sát gặp tới 50% bệnh nhân. Một số yếu tố như tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và thu nhập, chỉ số KPS, giai đoạn ung thư, phương pháp điều trị, tình trạng hậu môn nhân tạo và số triệu chứng ung thư ở bệnh nhân là có liên quan đến tỉ lệ mắc rối loạn trầm cảm chủ yếu. Về mặt lâm sàng, việc chú ý đến các yếu tố trên sẽ góp phần giúp các bác sỹ điều trị tiên lượng bệnh và hướng tới điều trị toàn diện cho bệnh nhân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đặng Hoàng Hải (2008) “Trầm cảm ở người trưởng thành tại Thành phố Hồ Chí Minh - Tỉ lệ mắc và hiệu quả của giáo dục trong điều trị”, p. 2. Lê Thoại Quyên (2017) Khảo sát tỷ lệ rối loạn trầm cảm chủ yếu trên bệnh nhân ung thư phổi nguyên phát và các yếu tố liên quan. 3. Nguyễn Đăng Khoa, Nguyễn Văn Phụng (2014) Khảo sát tỉ lệ trầm cảm và các yếu tố liên quan trên bệnh nhân ung thư vú điều trị tại bệnh viện ung bướu TP. Hồ Chí Minh năm 2014. IN Minh, B. v. T. t. T. H. C. (Ed.). 4. N. Aminisani, et al. (2016) “Depression, anxiety, and health related quality of life among colorectal cancer survivors”. Journal of Gastrointestinal Oncology, 8, (1), p. 81-88. 5. V. A. Arlington (2013) “Desk Reference to the Diagnostic Criteria From DSM-5”, American Psychiatric Association, p. 6. M. J. A. Braamse, et al. (2016) “Factors associated with anxiety and depressive symptoms in colorectal cancer survivors”. European Journal of Gastroenterology & Hepatology, 28 (7), p. 831-835. 7. R. Caruso, M. G. Nanni, M. Riba, S. Sabato, A. J. Mitchell, E. Croce, L. Grassi (2017) “Depressive spectrum disorders in cancer: prevalence, risk factors and screening for depression: a critical review”. Acta Oncologica, 56, (2), p. 146-155. 8. D. Forman, J. Ferlay (2014) World Cancer Report. Switzerland. 9. M. Kimman, R. Norman, S. Jan, D. Kingston, M. Woodward (2012) “The Burden of Cancer in Member Countries of the Association of Southeast Asian Nations (ASEAN)”. Asian Pacific J Cancer Prev, 13, 411-420. 10. M. J. Massie (2004) CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 119 “Prevalence of Depression in Patients With Cancer”. Journal of National Cancer Institues Monography, 32, 57-71. 11. M. G. Sehlo, M. S. Al Ahwal (2013) “Depression in patients with colorectal cancer”. Saudi Med J 2013, 34, (4), p. 341-347. 12. M. Shaheen Al Ahwal, F. Al Zaben, D. Khalifa, M. Sehlo, R. Ahmad, H. Koenig (2015) “Depression in patients with colorectal cancer in Saudi Arabia”. Psycho-Oncology, 24, (9), p. 1043-1050. 13. K. G. Wilson, et al. (2007) “Depression and Anxiety Disorders in Palliative Cancer Care “. Journal of Pain and Symptom Management, 33, (2), p. 118–129. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 120 THỂ LỆ BÀI ĐĂNG TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 Tạp chí Y dược thực hành 175 xuất bản 4 số thường kỳ/năm và các chuyên đề, đăng tải các công trình nghiên cứu, các bài tổng quan về Y-Dược học trong nước và Quốc tế, thông tin về nghiên cứu và đào tạo. I. Một số yêu cầu về bài đăng công trình nghiên cứu khoa học: 1. Bài gửi đăng công trình nghiên cứu khoa học chưa đăng ở bất kỳ tạp chí quốc gia nào. 2. Các thuật ngữ thống nhất theo từ điển Bách khoa Việt Nam. 3. Bài gửi đăng bắt buộc phải đánh máy bằng tiếng Việt, rõ ràng, lề trái 3 cm, lề phải 2 cm, lề trên 2 cm, lề dưới 2 cm. Một bài không dài quá 7 trang khổ A4, font Time New Roman cỡ 13. Các danh từ tiếng Việt Nam nếu dịch từ tiếng nước ngoài phải viết kèm theo tiếng nước ngoài. Các chữ viết tắt phải có chú thích các từ gốc của các chữ viết tắt. 4. Trình tự các mục trong bài viết: a. Đầu đề (tiếng Việt và tiếng Anh). b. Họ và tên tác giả: không ghi học hàm, học vị, chức danh. Có ghi chú nơi công tác của tác giả. c. Nội dung: - Tóm tắt tiếng Việt và tiếng Anh (tối đa 200 từ). - Đặt vấn đề, bao gồm cả phần mục tiêu nghiên cứu của đề tài. - Đối tượng và phương pháp nghiên cứu. - Kết quả. - Bàn luận. - Kết luận. Chỉ sử dụng những bảng biểu, ảnh cần thiết và phải ghi chú thích rõ yêu cầu in vào đoạn nào trong bài, mỗi bài không quá 5 hình. d. Tài liệu tham khảo (không qua 10 tài liệu): Tài liệu tiếng Việt ghi trước, sau đó tài liệu tiếng nước ngoài. Tài liệu tham khảo ghi theo thứ tự: họ tên tác giả, năm xuất bản, tên cuốn sách, bài báo, tạp chí, số trang và trang tham khảo. 5. Mỗi tác giả đứng tên đầu của bài báo chỉ được đăng tối đa một bài trong một số. Bài gửi đăng không trả lại bản thảo. Tác giả ghi số điện thoại và địa chỉ email vào cuối bài. II. Đối với các bài tổng quan, trao đổi học tập, thông tin, bài dịch, kiến thức thường thức: Đối với các bài tổng quan cần có đầy đủ các tài liệu tham khảo và nguồn số liệu đã được trích dẫn trong bài. Tác giả bài tổng quan ghi rõ chức danh, học hàm, học vị, chuyên ngành, cơ quan hoặc Hội chuyên khoa ở phần ghi chú cuối trang đầu tiên của bài viết. Bài tổng quan được đánh bằng tiếng Việt, dài không quá 7 trang khổ A4 (kể cả bảng biểu và tài liệu tham khảo). Các thông tin, bài dịch, kiến thức thường thức cần ghi rõ xuất xứ của nguồn tài liệu. Đối với bài dịch cần chụp toàn văn bản bài báo tiếng nước ngoài gửi kèm bài dịch. *Bài viết xin gửi về: Tòa soạn Tạp chí Y Dược thực hành 175, Bệnh viện Quân y 175 – Số 786 Nguyễn Kiệm, Phường 3, Quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh. Điện thoại: 069.641192 hoặc gửi qua email: [email protected]
File đính kèm:
dac_diem_roi_loan_tram_cam_chu_yeu_o_benh_nhan_ung_thu_dai_t.pdf

