Đặc điểm nhân cách và trầm cảm ở sinh viên năm thứ hai hệ bác sĩ của trường Đại học Y Hà Nội, năm học 2016-2017
Trầm cảm là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến trên toàn thế giới. Mục tiêu nghiên cứu là xác
định tỷ lệ trầm cảm và mô tả mối liên quan giữa đặc điểm nhân cách và trầm cảm ở sinh viên năm thứ hai hệ
bác sỹ của Trường Đại học Y Hà Nội. Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 492 sinh
viên. Nghiên cứu sử dụng thang đo RADS để đánh giá trầm cảm và bảng trắc nghiệm nhân cách của Hans
Eysenck để phân loại kiểu nhân cách của sinh viên. Kết quả cho thấy tỷ lệ trầm cảm của sinh viên là
28,46%. Có mối liên quan giữa sinh viên có kiểu khí chất ưu tư, nóng nảy và trầm cảm, với OR lần lượt là
(OR = 8,23; 95% CI: 2,39-28,29) và (OR = 5,55; 95% CI: 1,49 - 20,61). Từ kết quả trên cho thấy việc phát
hiện và điều trị trầm cảm sớm cho sinh viên nên được thảo luận và mở rộng hướng nghiên cứu trong tương
lai về mối quan hệ giữa nhân cách và trầm cảm.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm nhân cách và trầm cảm ở sinh viên năm thứ hai hệ bác sĩ của trường Đại học Y Hà Nội, năm học 2016-2017
158 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC ĐẶC ĐIỂM NHÂN CÁCH VÀ TRẦM CẢM Ở SINH VIÊN NĂM THỨ HAI HỆ BÁC SĨ CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI, NĂM HỌC 2016 - 2017 Trần Thơ Nhị, Hà Thị Hạnh, Trịnh Thu Trang, Trịnh Thị Hồng Biên, Nguyễn Thị Thúy Hạnh Trường Đại học Y Hà Nội Trầm cảm là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến trên toàn thế giới. Mục tiêu nghiên cứu là xác định tỷ lệ trầm cảm và mô tả mối liên quan giữa đặc điểm nhân cách và trầm cảm ở sinh viên năm thứ hai hệ bác sỹ của Trường Đại học Y Hà Nội. Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 492 sinh viên. Nghiên cứu sử dụng thang đo RADS để đánh giá trầm cảm và bảng trắc nghiệm nhân cách của Hans Eysenck để phân loại kiểu nhân cách của sinh viên. Kết quả cho thấy tỷ lệ trầm cảm của sinh viên là 28,46%. Có mối liên quan giữa sinh viên có kiểu khí chất ưu tư, nóng nảy và trầm cảm, với OR lần lượt là (OR = 8,23; 95% CI: 2,39-28,29) và (OR = 5,55; 95% CI: 1,49 - 20,61). Từ kết quả trên cho thấy việc phát hiện và điều trị trầm cảm sớm cho sinh viên nên được thảo luận và mở rộng hướng nghiên cứu trong tương lai về mối quan hệ giữa nhân cách và trầm cảm. Từ khóa: Nhân cách, trầm cảm, sinh viên y khoa Địa chỉ liên hệ: Trần Thơ Nhị, Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội Email: tranthonhi@hmu.edu.vn Ngày nhận: 11/6/2018 Ngày được chấp thuận: 15/8/2018 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Trầm cảm là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến và đang ngày càng tăng lên đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, trầm cảm cướp đi mỗi năm trung bình 850.000 mạng người, dự báo đến năm 2030 thì trầm cảm sẽ xếp hàng thứ nhất về gánh nặng bệnh tật [1]. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, tỷ lệ trầm cảm chung toàn cầu năm 2015 được ước tính là 4,4%, ở Việt Nam là 4% dân số cả nước. Trầm cảm xảy ra ở mọi lứa tuổi và ở mọi quốc gia, và tỷ lệ trầm cảm ở thanh thiếu niên dao động từ 4 - 6% [2]. Thanh thiếu niên đóng một vai trò quan trọng trong xã hội, là lực lượng lao động tương lai của đất nước trong đó có lực lượng sinh viên. Theo nghiên cứu của Ahmed K. Ibrahim và cộng sự năm 2012 thì tỷ lệ trầm cảm trong sinh viên nói chung dao động từ 10 - 85%, trong đó tỷ lệ trung bình là 30,6% [3]. Một nghiên cứu năm 2013 của Trần Quỳnh Anh tiến hành trên 8 Trường Đại học Y Dược ở Việt Nam cho thấy 43,2% sinh viên có triệu chứng trầm cảm nhẹ [4]. Nếu bệnh trầm cảm không được quan tâm phát hiện và điều trị kịp thời sẽ để lại nhiều khuyết tật và là gánh nặng nặng nề cho xã hội [1]. Trường Đại học Y Hà Nội là trường y đầu ngành và lâu đời nhất của khu vực phía Bắc, đảm nhiệm việc tuyển chọn và đào tạo đội ngũ cán bộ y tế chủ yếu cho xã hội. Có nhiều yếu tố liên quan đến trầm cảm như giới tính, di truyền, mối quan hệ với cha mẹ, kết quả học tập, nhân cách [4 - 8]. Trên thế giới có nhiều nghiên cứu chỉ ra mối liên quan giữa giữa đặc điểm nhân cách với trầm cảm ở sinh viên y khoa [9 - 12]. Ở Việt Nam những nghiên cứu về kiểu nhân cách và trầm cảm trên sinh viên TCNCYH 113 (4) - 2018 159 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC y khoa thì chưa có nghiên cứu nào được công bố. Chính vì những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài với mục tiêu xác định tỷ lệ trầm cảm và mô tả mối liên quan giữa đặc điểm nhân cách và trầm cảm ở sinh viên năm thứ hai hệ bác sỹ của Trường Đại học Y Hà Nội. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Sinh viên năm thứ hai hệ bác sỹ (Bác sỹ đa khoa, Bác sỹ y học cổ truyền, Bác sỹ y học dự phòng) Trường Đại học Y Hà Nội năm học 2016 – 2017. Năm học 2016 - 2017 có khoảng gần 800 sinh viên năm thứ hai hệ bác sỹ trong đó gần 500 sinh viên hệ bác sỹ Đa khoa, khoảng 100 sinh viên Bác sỹ Răng hàm mặt, còn lại là bác sỹ Y học cổ truyền và Bác sỹ Y học dự phòng (khoảng 140 sinh viên) được đào tạo 6 năm tại trường. Tiêu chuẩn lựa chọn: (1) Sinh viên Y đang học năm thứ hai hệ bác sỹ tại trường Đại học Y Hà Nội năm học 2016 – 2017 có độ tuổi ≤ 20 tuổi; (2) Sinh viên đồng ý tham gia vào nghiên cứu. 2. Phương pháp Địa điểm và thời gian nghiên cứu Địa điểm: Nghiên cứu được tiến hành tại Trường đại học Y Hà Nội. Thời gian: Từ tháng 11/2016 đến tháng 5/2017. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu Cỡ mẫu được tính theo công thức ước tính cỡ mẫu theo một tỷ lệ trong quần thể. Công thức: Trong đó: α là ý nghĩa thống kê ở mức α = 0,05 và giá trị Z tương ứng là 1,96. ε là giá trị tương đối, được chọn là một tỷ lệ nào đó so với tỷ lệ bệnh p, chọn ε = 0,065. P là tỷ lệ sinh viên có nguy cơ trầm cảm ở sinh viên y năm thứ hai (p = 0,513) theo nghiên cứu trên sinh viên năm thứ hai ở Trường Đại học Y Hà Nội. Theo công thức trên ta tính được cỡ mẫu là 440 người. Lấy thêm 10% sai số ta được cỡ mẫu nghiên cứu là 484 đối tượng. Thực tế thu được 492 đối tượng. Các biến số nghiên cứu bao gồm: Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu: Giới, dân tộc, tôn giáo, nơi ở hiện tại, sống cùng ai; tỷ lệ trầm cảm nhẹ/vừa/ nặng ở sinh viên; tỷ lệ sinh viên có kiểu nhân cách hướng nội/ hướng ngoại/ổn định/không ổn định. Công cụ thu thập thông tin Nghiên cứu sử bộ câu hỏi có sẵn, được xây dựng dựa trên thang điểm đánh giá trầm cảm ở thanh thiếu niên RADS và bảng kiểm kê nhân cách của Hans Eysenck. Dưới đây là mô tả chi tiết về hai thang này. Thang Đánh giá trầm cảm thanh thiếu niên (RADS). RADS là thang tự đánh giá nhằm xác định các thanh thiếu niên có các triệu chứng trầm cảm do William M. Reynolds xây dựng năm 1986. Thang RADS đã được Việt hóa bởi các bác sỹ tại Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia và đưa vào sử dụng tại viện từ năm 1995. RADS là thang tự đánh giá ngắn gọn gồm 30 n = Z2(1- α/2) (p.(1 - p) (p.ε)2 160 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC đề mục để đánh giá mức độ hiện thời của các triệu chứng học trầm cảm ở thanh thiếu niên theo bốn thành phần cơ bản của trầm cảm: loạn khí sắc, cảm xúc tiêu cực/mất hứng thú, tự đánh giá tiêu cực và phàn nàn về cơ thể. RADS được sử dụng ở cả trong trường học và các cơ sở lâm sàng, nó phù hợp cho thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 10 đến 20. Hoàn thành trắc nghiệm RADS thường mất từ 5 đến 10 phút. Các mức điểm ở RADS chỉ báo mức độ của các triệu chứng trầm cảm ở thanh thiếu niên trên lâm sàng (bình thường, nhẹ, vừa và nặng). Tính điểm RADS bằng cách cộng điểm mức độ của các câu. Riêng các câu 1, 5, 10, 12, 23, 25, 29 tính điểm ngược lại.Mức (0) chuyển mức (3) và ngược lại; mức (1) chuyển mức (2) và ngược lại. Cộng tổng điểm của tất cả các câu sau khi điều chỉnh [31]. ≤ 30 điểm: Không bị trầm cảm 31 - 40 điểm: Trầm cảm nhẹ 41 - 50 điểm: Trầm cảm vừa ≥ 51 điểm: Trầm cảm nặng Thang đo nhân cách của Hans Eysenck (EPI). Trắc nghiệm nhân cách của Hans Eysenck bao gồm 57 câu hỏi và trả lời. “Có” hoặc “Không” cho mỗi câu hỏi. Trả lời theo ý tưởng đầu tiên xuất hiện trong đầu, trả lời trung thực. Cách thức tiến hành như sau: Đánh dấu (+) nếu trả lời “Có”, đánh dấu (-) nếu trả lời “Không” vào vị trí tương ứng của câu trả lời trong phiếu trắc nghiệm. Cách tính điểm như sau: Mục A. Cho mỗi câu 1 điểm: Nếu những câu hỏi sau đây trả lời là “Có”: 1, 3, 8, 10, 13, 17, 22, 25, 27, 39, 44, 46, 49, 53, 56. Mục B. Cho mỗi câu 1 điểm: Nếu các câu hỏi sau đây trả lời là “Có”: 2, 4, 7, 9, 11, 14, 16, 19, 21, 23, 26, 28, 31, 33, 35, 38, 40, 43, 45, 47, 50, 52, 55, 57. Mục C. Cho mỗi câu 1 điểm: Nếu những câu trả lời sau đây là “Có”: 6, 24, 36. Kết luận: Mục A: < 12: Hướng nội = 12: Trung tính > 12: Hướng ngoại. Mục B: 12: Không ổn định. Mục C: Kiểm tra độ tin cậy: không vượt quá 4 [35]. Tích hợp các kiểu nhân cách theo Hans Eysenck ta có 4 khí chất như sau: Hướng nội + Ổn định → Khí chất Bình thản Hướng nội + Không ổn định → Khí chất Ưu tư Hướng ngoại + Ổn định → Khí chất Hoạt bát. Hướng ngoại + Không ổn định → Khí chất Nóng nảy. 3. Xử lý số liệu Số liệu được làm sạch trước khi nhập liệu. Nhập số liệu bằng phần mềm EPIDATA và phân tích số liệu bằng phần mềm STATA12. 4. Đạo đức trong nghiên cứu Nghiên cứu đã được sự chấp thuận của Ban Giám hiệu, Phòng Quản lý Đào tạo Đại học của Trường. Sinh viên tham gia nghiên cứu là hoàn toàn tự nguyện sau khi đã được nghe giải thích rõ về mục đích, mục tiêu của nghiên cứu. Nghiên cứu tuân thủ nguyên tắc bảo mật thông tin của đối tượng tham gia nghiên cứu. Thông tin thu thập trung thực khách quan và chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu. TCNCYH 113 (4) - 2018 161 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC III. KẾT QUẢ 1. Đặc điểm của đối tượng nghiêm cứu Nghiên cứu tiếp cận được 492 sinh viên của Trường. Trong đó nữ chiếm đa số (56,50%), sinh viên học ngành Bác sỹ Đa khoa chiếm tỷ lệ cao nhất (69,51%). Tỷ lệ sinh viên sinh ra ở nông thôn chiếm đa số (75,2%), ở thành thị ít hơn 23,78%. Hơn một nửa số sinh viên trong nghiên cứu có học lực khá (58,13%), học lực giỏi là 16,87%. Sinh viên có học lực trung bình chiếm tỷ lệ rất ít (3,05%). Mức thu nhập trung bình 1 tháng của sinh viên từ 2 - 3 triệu đồng (41,46%). Hơn một nửa số đối tượng trong nghiên cứu ở nhà trọ ngoài (52,24%), ở ký túc xá là 26,83%; ở nhà cùng bố mẹ/anh chị em và ở nhà người quen, họ hàng rất ít (lần lượt là 14,23% và 6,71%). Tỷ lệ sinh viên sống cùng bạn bè chiếm cao nhất (58,54%). 2. Đặc điểm nhân cách của đối tượng nghiên cứu Dựa theo đặc điểm nhân cách theo quan điểm hướng nội - hướng ngoại, thần kinh ổn định - không ổn định của Hans Eysenck chúng tôi đã thu được kết quả sau: tỷ lệ sinh viên có kiểu nhân cách hướng nội cao nhất (61,99%), kiểu nhân cách thần kinh không ổn định là 68,90%. Đặc điểm nhân cách phân loại theo khí chất của đối tượng nghiên cứu được tích hợp từ 4 yếu tố: hướng nội - hướng ngoại, thần kinh ổn định - không ổn định thu được 4 kiểu khí chất: Hoạt bát, Bình thản, Nóng nảy và Ưu tư như kết quả thể hiện ở biểu đồ 1. Biểu đồ 1. Đặc điểm nhân cách phân loại theo khí chất của sinh viên Từ biểu đồ 1 cho thấy trong 492 đối tượng nghiên cứu thì sinh viên có kiểu khí chất Ưu tư chiếm tỷ lệ cao nhất (56,30%), tiếp theo là tỷ lệ sinh viên có kiểu khí chất Nóng nảy thấp hơn (21,54%). Trong khi đó số sinh viên có kiểu khí chất Bình thản chiếm tỷ lệ khá thấp (14,43%) và đặc biệt sinh viên có kiểu khí chất Hoạt bát lại có tỷ lệ thấp nhất (7,72%). 162 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Tỷ lệ trầm cảm ở sinh viên năm hai hệ bác sỹ Trường Đại học Y Hà Nội Biểu đồ 2. Tỷ lệ trầm cảm của đối tượng nghiên cứu Biểu đồ 2 cho thấy tỷ lệ trầm cảm chung của sinh viên năm hai hệ bác sỹ Trường Đại học Y Hà Nội là 28,46%; trong đó bao gồm tỷ lệ sinh viên bị trầm cảm nhẹ là 20,12%, trầm cảm vừa và nặng lần lượt là 4,88% và 3,46%. Tỷ lệ sinh viên không bị trầm cảm là 71,54%. 4. Mối liên quan giữa trầm cảm và các yếu tố khác Mối liên quan giữa trầm cảm và một số yếu tố Bảng 1. Mối liên quan giữa trầm cảm và một số yếu tố * Mô hình hồi quy đa biến hiệu chỉnh với các yếu tố giới, đã từng lo âu/trầm cảm, hài lòng với kết quả học tập, khó khăn về tài chính, học lực, ngoại hình, nợ nần, bất đồng quan điểm với bố mẹ. Đặc điểm Trầm cảm n (%) Không trầm cảm n (%) Phân tích đơn biến Phân tích đa biến* OR (95% CI) OR (95% CI) Kiểu khí chất Hoạt bát Ưu tư Bình thản Nóng nảy 3 (5,17) 103 (40,71) 12 (12,63) 22 (25,58) 55 (94,83) 150 (59,29) 83 (87,37) 64 (74,42) 1 12,59 (3,83 - 41,33) 2,65 (0,72 - 9,83) 6,30 (1,79 - 22,19) 1 8,21 (2,39 - 28,29) 2,91 (0,75 - 11,29) 5,55 (1,49 - 20,61) Kiểu nhân cách Hướng ngoại Hướng nội (TT)* 25 (17,36) 115 (33,05) 119 (82,64) 233 (66,95) 1 2,35 (1,45 - 3,82) - Kiểu nhân cách thần kinh Ổn định (TT)* Không ổn định 15 (9,80) 125 (36,87) 138 (90,20) 214 (61,13) 1 5,37 (3,02 - 9,57) - TCNCYH 113 (4) - 2018 163 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Kết quả từ bảng 1 cho thấy các kiểu khí chất có mối liên quan với trầm cảm, sau khi hiệu chỉnh với các yếu tố khác (ngoại hình, khả năng thích nghi môi trường, tự đánh giá chất lượng giấc ngủ, xung đột với cha mẹ, học lực, hoản nợ, tự đánh giá tài chính, hài lòng với kết quả thi, từng bị rối loạn lo âu/trầm cảm và giới) thì yếu tố khí chất vẫn có mối liên quan với trầm cảm và mối liên quan này có ý nghĩa thống kê. Cụ thể sinh viên có khí chất Ưu tư có nguy cơ bị trầm cảm cao gấp hơn 8 lần so với sinh viên có kiểu khí chất Hoạt bát (OR = 8,23; 95% CI: 2,39 - 28,29). Sinh viên có khí chất Nóng nảy có nguy cơ bị trầm cảm cao gấp gần 6 lần so với sinh viên có kiểu khí chất Hoạt bát (OR = 5,55; 95% CI: 1,49 - 20,61). IV. BÀN LUẬN Tỷ lệ trầm cảm chung của sinh viên y năm hai hệ bác sỹ là 28,46%; trong đó bao gồm tỷ lệ sinh viên bị trầm cảm nhẹ là 20,12% tỷ lệ sinh viên trầm cảm vừa và nặng lần lượt là 4,88% và 3,46%. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với tỷ lệ trầm cảm của sinh viên ở 8 trường đại học Y dược Việt Nam trong nghiên cứu của Trần Quỳnh Anh là 43,2%, ở nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Liên trên sinh viên năm thứ hai Y Hà Nội là 47,6%. Một nghiên cứu trên sinh viên Đại học Thương Mại thì tỷ lệ sinh viên có nguy cơ trầm cảm là 49,5%. Sự khác biệt này có thể là do cỡ mẫu của các nghiên cứu chúng tôi chưa đủ đại diện hoặc đối tượng nghiên cứu của các nghiên cứu này không đồng nhất [13 - 15]. So sánh với một số nghiên cứu trên trên thế giới thì tỷ lệ trầm cảm trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn ở sinh viên Parkistan là 39,6%, nhưng cao hơn tỷ lệ trầm cảm của sinh viên Y khoa Hoa Kỳ và Canada là 15%, ở Australia là 13,8%. Sự khác biệt này có thể là do áp lực giáo dục y khoa hay do điều kiện kinh tế đất nước ở các nước khác nhau, chương trình đào tạo y khoa ở các nước khác nhau (Canada, Hoa Kỳ, Australia) có tỷ lệ trầm cảm trên sinh viên Y khoa nói chung thấp hơn nhiều so với các nước đang phát triển (Parkistan, Việt Nam). Trong nghiên cứu này tỷ lệ trầm cảm trong nhóm sinh viên có kiểu nhân cách hướng nội (33,05%) cao hơn so với nhóm sinh có kiểu nhân cách hướng ngoại (17,36%), sinh viên có nhân cách hướng nội có nguy cơ trầm cảm cao gấp hơn 2 lần so với kiểu nhân cách hướng ngoại, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Cũng theo một nghiên cứu khác trên sinh viên ở Iran cho thấy những học sinh có kiểu nhân cách hướng nội thì có mối tương quan thuận với trầm cảm [16]. Trong nghiên cứu này tỷ lệ trầm cảm trong nhóm sinh viên có kiểu nhân cách không ổn định cao hơn so với nhóm sinh có kiểu nhân cách ổn định, sinh viên có nhân cách không ổn định có nguy cơ trầm cảm cao gấp hơn 5 lần so với kiểu nhân cách ổn định, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Duggan Conor rằng kiểu nhân cách thần kinh không ổn định tăng lên thì sẽ tăng nguy cở trầm cảm [17]. Khi kết hợp hai cặp yếu tố thần kinh và hướng ngoại - hướng nội ta được 4 kiểu khí chất theo quan điểm của Hans Eysenck. Sinh viên có khí chất Ưu tư có nguy cơ bị trầm cảm cao gấp hơn 8 lần so với sinh viên có kiểu khí chất Hoạt bát và mối liên quan này có ý nghĩa thống kê. Kết quả này tương đồng với các nghiên cứu của Jorm, Gershuny và Sher thì sinh viên có khí chất Ưu tư hoặc nóng nảy thì nguy cơ trầm cảm sẽ tăng [15; 16]. 164 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Hạn chế nghiên cứu: Đây là chủ đề nhạy cảm. V. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Tỷ lệ trầm cảm của sinh viên năm thứ hai tương đối cao là 28,46%, trong đó trầm cảm nhẹ là 20,12%, vừa là 4,88% và nặng là 3,46%. Đa số sinh viên năm thứ hai Y khoa có kiểu nhân cách hướng nội và kiểu khí chất Ưu tư chiếm cao nhất lần lượt là 61,99% và 56,30%. Những sinh viên có kiểu khí chất Ưu tư, Nóng nảy thì nguy cơ bị trầm cảm cao gấp từ 6 đến hơn 8 lần so với sinh viên có kiểu khí chất Hoạt bát và Bình thản. Để nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên y cả về tri thức lẫn tinh thần, nhà trường cần có các biện pháp hỗ trợ tâm lý cho sinh viên thông qua phòng tham vấn tâm lý, kịp thời phát hiện và điều trị sớm cho những sinh viên có vấn đề về rối loạn tâm thần. Lời cám ơn Chúng tôi xin chân thành cảm ơn tới Ban Giám hiệu, Phòng Quản lý đào tạo Đại học, Bộ môn Y đức và Tâm lý, Viện đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng và các Phòng, Ban liên quan của Trường Đại học Y Hà Nội tạo điều kiện để chúng tôi hoàn thành thu thập số liệu. Chúng tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới toàn thể sinh viên năm thứ hai của Trường năm học 2016 - 2017 đã cung cấp thông tin để chúng tôi hoàn thành nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tổ chức Y tế Thế giới (1992). Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 (PLBQT - 10F) về các rối loạn tâm thần và hành vi, Viện sức khỏe tâm thần - Bệnh viện tâm thần Trung ương, 91 - 97. 2. World Health Organization (2017). De- pression and other common mental disorders: global health estimates. 3. Ahmed K Ibrahim, Shona J Kelly, Clive E Adams et al (2013). A systematic review of studies of depression prevalence in university students. Journal of psychiatric re- search, 47(3), 391 - 400. 4. Anh Tran Quynh, Michael P Dunne and Hoat Luu Ngoc (2013). Well-being, de- pression and suicidal ideation among medical students throughout Vietnam. Vietnam Journal of medicine & Pharmacy, 6(3), 23 - 30. 5. Nguyễn Thị Bích Liên (2012). Nguy cơ trầm cảm ở một số khối sinh viên đa khoa trường đại học Y Hà Nội năm học 2011 - 2012 và một số yếu tố liên quan. 6. F. Brenneisen Mayer, I. Souza Santos, P. S. Silveira et al (2016). Factors associated to depression and anxiety in medical students: a multicenter study. BMC Med Educ, 16(1), 282. 7. H. Hadzikapetanovic, T. Babic and E. Bjelosevic (2017). Depression and intimate relationships of adolescents from divorced families. Med Glas (Zenica), 14(1), 132 - 138. 8. Quynh Anh Tran (2015). Factors asso- ciated with mental health of medical students in Vietnam: A national study, Queensland Uni- versity of Technology. 9. Vicki Bitsika, Christopher F Sharpley and Therese C Melhem (2010). Gender dif- ferences in factor scores of anxiety and de- pression among Australian university students: Implications for counselling interventions. Ca- nadian Journal of Counselling and Psycho- therapy (Online), 44(1), 51. TCNCYH 113 (4) - 2018 165 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 10. Josephine A Beatson and Sathya Rao (2013). Depression and borderline per- sonality disorder. Med J Aust, 199(6l), S24- S27. 11. R Michael Bagby, Lena C Quilty and Andrew C Ryder (2008). Personality and de- pression. The Canadian Journal of Psychiatry, 53(1), 14 - 25. 12. Daniel N Klein, Roman Kotov and Sara J Bufferd (2011). Personality and de- pression: explanatory models and review of the evidence. Annual review of clinical psy- chology, 7, 269 - 295. 13. Nguyễn Thị Hường (2014). Thực trang hành vi sức khỏe và nguy cơ trầm cảm của sinh viên năm hai Đại học Thương Mại. Tạp chí Y học thực hành, 914(số 4), 101 - 105. 14. Nguyễn Thị Thăm, Phan Lê Thu Hằng, Nguyễn Hoàng Việt Đức và cộng sự (2015). Nguy cơ trầm cảm và một số yếu tố liên quan ở một số khối sinh viên đa khoa trường Đại học Y Dược Hải Phòng. Tạp chí Y học Dự phòng, Tập XXV(11 (171)), 65 - 57. 15. F. Rab, R. Mamdou and S. Nasir (2008). Rates of depression and anxiety among female medical students in Pakistan. East Mediterr Health J, 14(1), 126 - 133. 16. Haleh Saboori (2016). Relationship between personality and depression among High School Students in Tehran-Iran interna- tional. Journal of Humannities and Cultural Studies ISSN 2356-5926 (1 (1)), 556 - 565. 17. Conor Duggan, Pak Sham, Alan Lee et al (1995). Neuroticism: a vulnerability marker for depression evidence from a family study. Journal of Affective Disorders, 35(3), 139 - 143. Summary PERSONALITY AND DEPRESSION AMONG SECOND - YEAR MEDICAL STUDENTS AT HANOI MEDICAL UNIVERSITY IN THE ACADEMIC YEAR 2016 - 2017 Depression is one of the most common mental disorders all over the world. The objective of the study was to determine the prevalence of depression and to describe the relationship between personality traits and depression in second-year medical students of Hanoi Medical University. The study used a cross sectional study design on 492 medical students. The instruments for data collection comprised of the Eysenck Personality Questionnaire (EPQ) and the Reynolds Adoles- cent Depression Scale (RADS). The results of study showed that the prevalance of depression was 28.46% and there is a significant relationship between extroversion and introversion with de- pression, with OR = 8.23; 95% CI: 2.39 - 28.29 and OR = 5.55; 95% CI: 1.49 - 20.61, respectively. Implications for prevention and prediction of treatment response are discussed, as well as specific considerations to guide future research on the relationship between personality and depression. Keywords: Personality, Depression, Medical students
File đính kèm:
- dac_diem_nhan_cach_va_tram_cam_o_sinh_vien_nam_thu_hai_he_ba.pdf