Đặc điểm nhân cách và lo âu ở sinh viên năm thứ hai trường Đại học Y Hà Nội năm học 2016-2017

Lo âu là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến. Nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ lo âu và mối liên quan

giữa đặc điểm nhân cách với lo âu ở sinh viên năm thứ hai Trường Đại học Y Hà Nội năm học 2016-2017. Nghiên

cứu đã sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 531 sinh viên. Công cụ để đánh giá lo âu là thang Zung

và bảng trắc nghiệm nhân cách của Hans Eysenck để phân loại kiểu nhân cách ở sinh viên. Kết quả nghiên cứu

cho thấy tỷ lo âu ở sinh viên năm thứ hai hệ bác sĩ là 49,7%. Sinh viên có kiểu nhân cách ưu tư, nóng nảy thì nguy

cơ bị lo âu cao hơn sinh viên có kiểu nhân cách khác, lần lượt với OR = 2,14 và OR = 3,71. Vì vậy, sinh viên y khoa

nên được sàng lọc lo âu, kiểu nhân cách trong quá trình học tại trường để có những can thiệp thích hợp, kịp thời

pdf 8 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm nhân cách và lo âu ở sinh viên năm thứ hai trường Đại học Y Hà Nội năm học 2016-2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm nhân cách và lo âu ở sinh viên năm thứ hai trường Đại học Y Hà Nội năm học 2016-2017

Đặc điểm nhân cách và lo âu ở sinh viên năm thứ hai trường Đại học Y Hà Nội năm học 2016-2017
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020 97
ĐẶC ĐIỂM NHÂN CÁCH VÀ LO ÂU Ở SINH VIÊN NĂM THỨ HAI 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI NĂM HỌC 2016-2017
Trần Thơ Nhị , Lê Thị Ngọc Anh
Viện Đào tạo YHDP &YTCC - Trường Đại học Y Hà Nội
Lo âu là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến. Nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ lo âu và mối liên quan 
giữa đặc điểm nhân cách với lo âu ở sinh viên năm thứ hai Trường Đại học Y Hà Nội năm học 2016-2017. Nghiên 
cứu đã sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 531 sinh viên. Công cụ để đánh giá lo âu là thang Zung 
và bảng trắc nghiệm nhân cách của Hans Eysenck để phân loại kiểu nhân cách ở sinh viên. Kết quả nghiên cứu 
cho thấy tỷ lo âu ở sinh viên năm thứ hai hệ bác sĩ là 49,7%. Sinh viên có kiểu nhân cách ưu tư, nóng nảy thì nguy 
cơ bị lo âu cao hơn sinh viên có kiểu nhân cách khác, lần lượt với OR = 2,14 và OR = 3,71. Vì vậy, sinh viên y khoa 
nên được sàng lọc lo âu, kiểu nhân cách trong quá trình học tại trường để có những can thiệp thích hợp, kịp thời. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Lo âu, sinh viên y khoa, đặc điểm nhân cách
Lo âu là một trong những rối loạn tâm thần 
phổ biến, bệnh thường kết hợp với các rối loạn 
khác như trầm cảm, rối loạn nhân cách.¹ Trên 
thế giới, tỷ lệ mắc rối loạn lo âu trong quần thể 
dao động từ 0,9% đến 28,3% dân số.² Tại Việt 
Nam, theo một nghiên cứu của Bệnh Viện Tâm 
Thần Trung Ương 1 từ năm 2000 – 2002, nước 
ta có 2,7% dân số mắc rối loạn lo âu.³ Cứ 20 
người thì có một người bị bệnh và thường mắc 
bệnh ở lứa tuổi bắt đầu trưởng thành.⁴ Rối loạn 
lo âu kéo dài sẽ gây những ảnh hưởng nghiêm 
trọng đến tinh thần, sức khỏe cũng như chất 
lượng cuộc sống của mỗi cá nhân. Nó gây ảnh 
hưởng đến hệ tim mạch, rối loạn giấc ngủ, tăng 
mức độ nguy hiểm đối với các bệnh nhân mắc 
bệnh mãn tính như tiểu đường, tăng huyết áp. 
Ngoài ra, nó còn gây rối loạn lo âu ám ảnh sợ 
hay rối loạn tiêu hóa khi lo âu quá mức.⁵ Có 
nhiều yếu tố nguy cơ dẫn đến rối loạn lo âu 
như giới, người mắc phải các rối loạn tâm thần 
khác như trầm cảm, rối loạn ám ảnh hay những 
người nằm trong nhóm nhân cách “yếu”.⁶ Nhân 
cách là tổ hợp các thuộc tính tâm lý của các 
nhân tạo nên bản sắc tâm lý và giá trị xã hội của 
cá nhân đó.⁷ Những người có nhân cách thần 
kinh không ổn định và sống hướng nội được 
cho rằng có nguy cơ mắc rối loạn lo âu cao hơn 
những người bình thường, hoạt bát, vui vẻ.⁸
Hiện nay, trên thế giới đã có nhiều nghiên 
cứu về đặc điểm nhân cách và rối loạn lo âu 
trên nhiều đối tượng như người trưởng thành, 
sinh viên, nhóm người mắc bệnh dạ dày, người 
nghiện chất.9–11 Sinh viên là những chủ nhân 
tương lai, góp phần quan trọng trong việc xây 
dựng đất nước giàu mạnh, phát triển. Ở Việt 
Nam, vấn đề này đã được nghiên cứu trên sinh 
viên các trường Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí 
Minh,12 Đại học Lao động Xã hội.13
Sinh viên y khoa là những bác sĩ trẻ tương 
lai, sẽ thực hiện công tác chăm sóc sức khỏe 
cho nhân dân.Trường Đại học Y Hà Nội là một 
trong những trường đại học về y tế hàng đầu 
Tác giả liên hệ: Trần Thơ Nhị, Viện Đào tạo YHDP & 
YTCC - Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 01/02/2020
Ngày được chấp nhận: 28/03/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 202098
Việt Nam với bề dày lịch sử 115 năm, đào tạo 
ra những thế hệ bác sĩ chủ chốt của ngành y tế. 
Hằng năm, Nhà trường tuyển sinh các hệ đào 
tạo khác nhau, trong đó, hệ bác sĩ luôn chiếm 
tỷ lệ nhiều nhất.Vì vậy,việc quan tâm đến sức 
khỏe của sinh viên y là rất quan trọng, đặc biệt 
là sức khỏe tâm thần. Câu hỏi được đặt ra là: 
(1) Có bao nhiêu sinh viên hệ bác sĩ mắc rối 
loạn lo âu? (2) Đặc điểm nhân cách của sinh 
viên y khoa là gì và nó có liên quan với rối loạn 
lo âu không? Trả lời các câu hỏi trên giúp cung 
cấp bằng chứng cho Nhà trường trong việc 
định hướng xây dựng những hoạt động thiết 
thực nhằm nâng cao sức khỏe tâm thần cho 
sinh viên. Từ đó, cung cấp nguồn nhân lực y tế 
có chất lượng - chuyên môn tốt, đáp ứng được 
nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân. 
Chính vì những lí do trên, tôi tiến hành nghiên 
cứu đề tài “Đặc điểm nhân cách và lo âu ở sinh 
viên năm thứ hai Trường Đại học Y Hà Nội” với 
2 mục tiêu sau:
1. Xác định tỷ lệ lo âu ở sinh viên hệ bác sĩ 
năm thứ hai Trường Đại học Y Hà Nội năm học 
2016-2017 
2. Mô tả mối liên quan giữa đặc điểm nhân 
cách và lo âu của sinh viên hệ bác sĩ năm thứ 
hai Trường Đại học Y Hà Nội năm học 2016-
2017.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Nghiên cứu thực hiện trên sinh viên năm hai 
hệ bác sĩ Trường Đại học Y Hà Nội.
Tiêu chuẩn lựa chọn: (1) Sinh viên năm hai 
hệ bác sĩ Trường Đại học Y Hà Nội năm học 
2016-2017; (2) Sinh viên đồng ý, tự nguyện 
tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ: Sinh viên không hợp tác 
nghiên cứu.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang.
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 1/2017 đến 
tháng 1/2018
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được 
thực hiện tại Trường Đại học Y Hà Nội.
Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: Cỡ mẫu 
nghiên cứu: chọn toàn bộ sinh viên năm thứ hai 
hệ bác sĩ Trường Đại học Y Hà Nội năm học 
2016 – 2017 với tổng số sinh viên là 768 sinh 
viên. Tiếp cận được toàn bộ sinh viên, trong đó 
có 531 sinh viên tham gia điền phiếu và hoàn 
thành phiếu điều tra. Số sinh viên còn lại từ chối 
tham gia nghiên cứu sau khi đã được giới thiệu 
về mục đích và ý nghĩa của nghiên cứu.
Các biến số nghiên cứu
Các biến số và chỉ số về nhân khẩu xã hội 
học của sinh viên: Giới; dân tộc; tình trạng thu 
nhập hàng tháng; nơi sinh; kết quả học tập; có 
người yêu; BMI.
Các biến số cho mục tiêu 1: Tỷ lệ lo âu của 
sinh viên theo nơi sinh, theo ngành học và theo 
giới.
Biến số và chỉ số cho mục tiêu 2: 
- Lo âu theo kiểu nhân cách hướng nội; 
hướng ngoại
- Lo âu theo kiểu nhân cách thần kinh ổn 
định, không ổn định
- Lo âu theo kiểu nhân cách hướng nội/ngoại 
và kiểu nhân cách thần kinh ổn định/ không ổn 
định. 
Công cụ thu thập số liệu
Nghiên cứu sử dụng thang đo Zung để đánh 
giá lo âu của sinh viên14.., Thang đo gồm 20 
câu hỏi, mỗi câu có 4 lựa chọn từ 1-4. Tổng 
điểm là 80 điểm. Mức độ lo âu được đánh giá 
như sau:
- Không lo âu: ≤ 40 điểm
- Lo âu mức độ nhẹ: 41 - 50 điểm
- Lo âu mức độ vừa: 51 - 60 điểm
- Lo âu mức độ nặng: 61 - 70 điểm
- Lo âu mức độ rất nặng: 71 - 80 điểm
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020 99
Để đo nhân cách của sinh viên, chúng tôi sử 
dụng thang đo trắc nhiệm nhân cách của Hans 
Eysenck (EPI) với 57 câu hỏi. Có 4 kiểu nhân 
cách tổng hợp như sau: bình thản, ưu tư, hoạt 
bát, nóng nảy.15
Quy trình thu thập số liệu
Bộ câu hỏi được xây dựng dựa trên các biến 
số nghiên cứu. Sau khi đã hoàn thành, bộ câu 
hỏi được tập huấn và điều tra thử trên sinh viên 
để kiểm tra tính logic, phù hợp của bộ câu hỏi.
Sau đó, liên hệ phòng Đào tạo Đại học để 
xem lịch học của sinh viên. Trên cơ sở lịch học, 
chọn thời điểm phù hợp nhất với sinh viên để ít 
ảnh hưởng đến thời gian học tập của sinh viên.
Những sinh viên tham gia nghiên cứu sẽ 
được cung cấp một mã phiếu, giải thích đầy 
đủ mục đích, tính bảo mật của nghiên cứu, thời 
gian cần thiết để hoàn thành một phiếu điều tra, 
và trên cơ sở đó quyết định có tham gia nghiên 
cứu hay không.
Sinh viên đồng ý tham gia nghiên cứu được 
tổ chức điều tra theo lớp. 
Việc điền phiếu hoàn toàn trên cơ sở bảo 
mật, dưới sự giám sát của điều tra viên. Điều 
tra viên sẽ kiểm tra phiếu sau khi hoàn thành để 
đảm bảo không bỏ sót thông tin.
3. Xử lý số liệu
Số liệu được làm sạch trước khi nhập liệu; 
Số liệu được nhập vào máy tính bằng phần 
mềm EPIDATA 3.1.
Phần mềm Stata 12.0 được sử dụng trong 
phân tích số liệu. Nghiên cứu sử dụng phân 
tích đơn biến để xác định mối liên quan giữa 
đặc điểm nhân cách và rối loạn lo âu.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được sự đồng ý của Ban Giám 
hiệu, phòng Quản lý đào tạo đại học, Viện 
Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng, 
Bộ môn Y đức và Tâm lý học.
Sinh viên tham gia nghiên cứu hoàn toàn 
trên cơ sở tự nguyện sau khi đã được giải 
thích rõ về mục đích và ý nghĩa của nghiên 
cứu. 
Thông tin của đối tượng tham gia nghiên 
cứu hoàn toàn được bảo mật. Mỗi sinh viên 
có một mã số điều tra riêng và không thu thập 
danh tính. Những sinh viên có dấu hiệu trầm 
cảm, lo âu, stress được giới thiệu tới chuyên 
gia tâm lý, tâm thần.
Kết quả nghiên cứu được phản hồi cho 
sinh viên, Ban Giám hiệu và các Phòng, Ban 
liên quan.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên 
cứu
Các sinh viên tham gia vào nghiên cứu có 
độ tuổi từ 19 đến 26 tuổi. Sinh viên nữ tham 
gia vào nghiên cứu nhiều hơn sinh viên nam, 
chiếm tỷ lệ là 57,1%. Đa số sinh viên đa khoa 
tham gia vào nghiên cứu, chiếm tỷ lệ là 68,7%. 
Hầu hết sinh viên thuộc dân tộc Kinh và không 
theo tôn giáo nào, chiếm tỷ lệ lần lượt là 93,2% 
và 95,1%. Phần lớn sinh viên sống ở nông 
thôn, chiếm tỷ lệ là 75,9%. Sinh viên chủ yếu 
sống ở nhà trọ và sống cùng bạn bè, chiếm tỷ 
lệ lần lượt là 52,5% và 58,9%. Chỉ số BMI trung 
bình là 20,3.
2. Tỷ lệ lo âu ở sinh viên
Kết quả nghiên cứu cho thấy: có 28,1% sinh 
viên có rối loạn lo âu. Trong đó, có 27,2% sinh 
viên có rối loạn lo âu nhẹ, 0,9% sinh viên có rối 
loạn lo âu vừa (biểu đồ 1). sinh viên nam mắc 
rối loạn lo âu nhiều hơn sinh viên nữ, với tỷ lệ là 
29,4% (biểu đồ 2). 
Từ biểu đồ 3 cho thấy sinh viên theo học 
ngành bác sĩ y dự phòng có tỷ lệ mắc rối loạn 
lo âu nhiều nhất, là 35,3%. Sinh viên ngành bác 
sĩ răng hàm mặt có tỷ lệ mắc rối loạn lo âu thấp 
nhất là 17,5%.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020100
Biểu đồ 1. Tỷ lệ lo âu chung của sinh viên
Biểu đồ 2. Tỷ lệ rối loạn lo âu của sinh viên theo giới tính
Biểu đồ 3. Tỷ lệ rối loạn lo âu của sinh viên theo ngành đào tạo
3. Mối liên quan giữa đặc điểm nhân cách và lo âu ở sinh viên
Kết quả phân tích đơn biến cho thấy (Bảng 1): Những sinh viên có kiểu nhân cách hướng nội có 
nguy cơ mắc rối loạn lo âu gấp gần 2 lần so với những sinh viên có kiểu nhân cách hướng ngoại. Sự 
khác biệt này có ý nghĩa thống kê với mức tin cậy 95% (OR = 1,6; 95%CI = 1,1 - 2,4).
Những sinh viên có kiểu nhân cách thần kinh không ổn định có nguy cơ mắc rối loạn lo âu gấp 3,5 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020 101
lần so với những sinh viên có kiểu nhân cách thần kinh ổn định. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống 
kê với mức tin cậy 95% (OR = 3,5; 95%CI = 1,9 - 5,9).
Bảng 1. Mối liên quan giữa đặc điểm nhân cách và lo âu của sinh viên
Các kiểu nhân cách Không lo âu (n, %) Có lo âu (n, %) OR (95%CI) p
Kiểu nhân cách hướng nội – hướng ngoại
Hướng ngoại 160 (41,9) 46 (30,9) 1
0,020
Hướng nội 222 (58,1) 103 (69,1) 1,6 (1,1-2,4)
Kiểu nhân cách thần kinh ổn định – không ổn đinh
Ổn định 103 (26,9) 15 (10,1) 1
0,000
Không ổn định 279 (73,1) 134 (89,9) 3,5 (1,9-5,9)
Kiểu nhân cách kết hợp 
Nhân cách hăng hái 50 (13,1) 7 (4,7) 1
Nhân cách nóng nảy 110 (28,8) 39 (26,2) 2,5 (1,1-6,1) 0,037
Nhân cách bình thản 53 (13,9) 8 (5,4) 1,1 (0,3-3,1) 0,892
Nhân cách ưu tư 169 (44,2) 95 (63,7) 4,0 (1,7-9,2) 0,001
Sinh viên có kiểu nhân cách ưu tư mắc rối 
loạn lo âu nhiều nhất, chiếm tỷ lệ 63,7%. Sinh 
viên có kiểu nhân cách hăng hái có tỷ lệ mắc rối 
loạn lo âu thấp nhất, chiếm 4,7%.
Sinh viên có nhân cách nóng nảy có nguy 
cơ mắc rối loạn lo âu gấp gần 3 lần so với sinh 
viên có nhân cách hăng hái, sự khác biệt này 
có ý nghĩa thống kê với mức tin cậy 95% (OR = 
2,5; 95%CI = 1,1 - 6,1). Sinh viên có nhân cách 
ưu tư có nguy cơ mắc rối loạn lo âu gấp hơn 4 
lần so với sinh viên có nhân cách hăng hái, sự 
khác biệt này có ý nghĩa thống kê với mức tin 
cậy 95% (OR = 4,0; 95%CI = 1,7 - 9,2).
IV. BÀN LUẬN
Thứ nhất, tỷ lệ lo âu ở sinh viên là 28,1%. 
Tỷ lệ này nằm trong khoảng tỷ lệ rối loạn lo âu 
của một nghiên cứu tổng quan của Đại học 
Cambridge từ 0,9% đến 28,3%.² Kết quả này 
tương đồng với kết quả một nghiên cứu tại Ấn 
Độ cho thấy tỷ lệ sinh viên mắc rối loạn lo âu là 
khoảng 26%.16 Ở sinh viên 6 trường đại học Y 
khoa lớn ở Punjab lại chỉ ra tỷ lệ này là 83,9%.17 
Một nghiên cứu tổng quan trên sinh viên y ở 
Hoa Kỳ và Canada lại cho kết quả tỷ lệ rối loạn 
lo âu là khoảng 93%.18 Sở dĩ có sự khác nhau 
biệt này là do các nghiên cứu sử dụng thang 
đo rối loạn lo âu khác nhau, ngưỡng phân biệt 
lo âu khác nhau và tại địa điểm khác nhau. Ở 
Việt Nam, kết quả này thấp hơn so với nghiên 
cứu của Lê Minh Thuận trên sinh viên y dược 
Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2011, nghiên 
cứu đã chỉ ra tỷ lệ sinh viên có rối loạn lo âu ở 
mức độ nặng là 13%, rất nặng là 11%.19 Lý giải 
cho điều này có thể là do sinh viên được khảo 
sát trong nghiên cứu của Lê Minh Thuận bao 
gồm cả hệ cử nhân như: Y tế công cộng, Điều 
dưỡng và trong nghiên cứu này, Lê Minh Thuận 
sử dụng thang DASS để đánh giá mức độ lo âu 
của sinh viên nên ngưỡng phân biệt lo âu có sự 
khác biệt.
Thứ hai, sinh viên nam có tỷ lệ mắc lo âu 
cao hơn so với sinh viên nữ. Kết quả này cũng 
giống với kết quả của một số nghiên cứu trên 
thế giới.20,21 Một nghiên cứu tổng quan thực 
hiện trên sinh viên y tại Hoa Kỳ và Canada lại 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020102
cho kết quả rằng tỷ lệ lo âu giữa nam và nữ 
là như nhau.18 Mặt khác, ở một số nghiên cứu 
khác trên thế giới lại đưa ra kết luận rằng nữ 
giới mắc rối loạn lo âu cao hơn nam giới.22-23 
Sở dĩ có sự khác biệt như vậy có thể do sự 
tham gia không đồng đều của sinh viên nam và 
nữ trong các nghiên cứu, sự khác biệt về môi 
trường sống và nét văn hóa của mỗi quốc gia. 
Vì vậy, cần có thêm những nghiên cứu tiếp theo 
để tìm hiểu về vấn đề này.
Thứ ba, nghiên cứu cho kết quả là sinh viên 
y chủ yếu có kiểu nhân cách hướng nội và nhân 
cách thần kinh không ổn định. Kết quả này 
giống với kết quả của các nghiên cứu khác trên 
thế giới.11,24-26 Nghiên cứu của Filip Lieven cùng 
cộng sự sử dụng thang NEO-PIR để đo năm đặc 
điểm tính cách lớn cho thấy sinh viên y có tính 
hướng nội và tính nhạy cảm cao nhất.24 Nghiên 
cứu trên sinh viên y ở nước Anh cũng cho thấy 
kết quả sinh viên có kiểu nhân cách hướng nội 
nhiều hơn sinh viên có kiểu nhân cách hướng 
ngọai và sinh viên có kiểu nhân cách thần kinh 
không ổn định nhiều hơn sinh viên có kiểu nhân 
cách thần kinh ổn định.11 Thứ tư, kết quả nghiên 
cứu cho thấy nhân cách ưu tư và nhân cách 
nóng nảy có mối liên quan với lo âu. Những 
sinh viên có nhân cách ưu tư, nóng nảy có nguy 
cơ mắc rối loạn lo âu cao gấp hơn 3 đến 4 lần 
những sinh viên có nhân cách hăng hái, sự 
khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. 
Kết quả này hoàn toàn giống với những nghiên 
cứu khác trên thế giới đã chỉ ra rằng nhân cách 
hướng nội - nhân cách thần kinh không ổn định 
có mối liên quan đến rối loạn lo âu.8,27 Như theo 
nghiên cứu của Kotov R., Gamez W., Schmidt 
F. và cộng sự đã chỉ ra rằng yếu tố nhân cách 
thần kinh không ổn định có tác động mạnh mẽ 
nhất đến rối loạn lo âu và nhân cách hướng nội 
có liên quan đến rối loạn lo âu.10 Ở Việt Nam, 
nghiên cứu của tác giả Đỗ Thị An cũng đưa ra 
kết luận rằng mức độ rối loạn lo âu ở sinh viên 
có đặc điểm nhân cách như sống nội tâm, hay 
phiền muộn cao hơn sinh viên hiền lành, bình 
thản, nhanh nhẹn, hoạt bát hay nóng tính.15 Sở 
dĩ có sự giống nhau này là do các nghiên cứu 
trên có cùng đối tượng, cùng sử dụng thang 
đo rối loạn lo âu SAS và đặc điểm nhân cách 
của Eysenck. Thêm nữa, dựa vào đặc điểm 
của mỗi kiểu nhân cách, ta thấy những người 
có nhân cách ưu tư thường dễ bị tổn thương, 
nhanh nản chí, u sầu, bi quan, hay nghi ngờ và 
lo lắng. Những người có nhân cách nóng nảy 
có đặc điểm là dễ bị kích thích, hay nổi nóng, 
họ thường có ít sự kiên nhẫn. Dựa vào những 
đặc điểm nổi bật của mỗi loại nhân cách đó, 
ta có thể hiểu vì sao những người mang kiểu 
nhân cách này thường dễ mắc phải rối loạn lo 
âu hơn những người mang nhân cách hăng hái 
hoặc bình thản. 
Một số hạn chế trong nghiên cứu là: Lo âu là 
một chủ đề nhạy cảm với sinh viên, do đó các 
đối tượng có thể còn e ngại không bộc lộ tâm 
trạng của mình. Điều này có thể ảnh hưởng đến 
việc ước lượng tỷ lệ lo âu trong nghiên cứu.
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ rối loạn lo âu của sinh viên là khá phổ 
biến. Đặc điểm nhân cách của sinh viên có liên 
quan chặt chẽ với lo âu. Những sinh viên có 
kiểu nhân cách hướng nội có nguy cơ mắc rối 
loạn lo âu gấp gần 2 lần so với những sinh viên 
có kiểu nhân cách hướng ngoại. Những sinh 
viên có kiểu nhân cách thần kinh không ổn định 
có nguy cơ mắc rối loạn lo âu gấp 3,5 lần so với 
những sinh viên có kiểu nhân cách thần kinh 
ổn định. Sinh viên có nhân cách nóng nảy có 
nguy cơ mắc rối loạn lo âu gấp gần 3 lần so với 
sinh viên có nhân cách hăng hái. Sinh viên có 
nhân cách ưu tư có nguy cơ mắc rối loạn lo âu 
gấp hơn 4 lần so với sinh viên có nhân cách 
hăng hái. 
Hiện nay, những nghiên cứu về vấn đề này 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020 103
trên sinh viên y còn hạn chế. Vì vậy cần tiến 
hành thêm những nghiên cứu trên quy mô rộng 
hơn ở tất cả các trường ĐH Y trên cả nước 
nhằm phát hiện kịp thời những vấn đề sức khỏe 
tâm thần của sinh viên y để có thể cung cấp 
nguồn nhân lực y tế có chất lượng tốt để phục 
vụ đất nước 
LỜI CẢM ƠN
Nhóm nghiên cứu chúng tôi xin gửi lời 
cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu Nhà 
trường, Phòng Đào Quản lý đào tạo Đại học, 
Phòng Công tác học sinh sinh viên, Viện Đào 
tạo YHDP&YTCC, Bộ môn Y đức và Tâm lý học 
đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong quá 
trình nghiên cứu. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm 
ơn sâu sắc đến những sinh viên y khoa năm hai 
Trường Đại học Y Hà Nội đã cung cấp những 
thông tin quý báu để tôi hoàn thành nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách lược quốc gia y tế về tâm thần, 
Chứng rối loạn lo âu là gì ? Cơ quan Y tế Tâm 
thần Đa văn hóa Úc (Multicultural Mental Health 
Australia).
2. Baxter A.J., Scott K.M., Vos T, et al. Global 
prevalence of anxiety disorders: a systematic 
review and meta-regression. Psychol Med. 
2013; 43(05):897–910
3. Bệnh viện Tâm Thần Trung Ương 1. 
Nghiên cứu dịch tễ các rối loạn tâm thần tại cộng 
đồng ở Việt Nam. 
4. Bệnh viện Nhi Trung Ương. Rối loạn lo âu. 
au.html
5. Đặng Hoàng Hải. Rối loạn lo âu. Trường 
Đại học Y Phạm Ngọc Thạch.2010.
6. Phạm Hoàng Tài. Tâm lý học đại cương, 
Trường Đại học Đà Lạt. Khoa Công tác xã hội & 
Phát triển cộng đồng;2007.
7. Dương Thị Diệu Hoa. Giáo trình tâm lý học 
phát triển. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà 
Nội. 2013.
8. Bienvenu O.J., Stein M.B. Personality and 
anxiety disorders: a review. J Personal Disord. 
2003;17(2: Special issue):139–151.
9. Andrews G. Anxiety, personality and 
anxiety disorders. Int Rev Psychiatry. 1991; 
3(2): 293–302.
10. Kotov R., Gamez W., Schmidt F, et 
al. Linking “big” personality traits to anxiety, 
depressive, and substance use disorders: A 
meta-analysis. Psychol Bull. 2010; 136(5): 768–
821.
11. Ashton C.H, Kamali F. Personality, 
lifestyles, alcohol and drug consumption in a 
sample of British medical students. Med Educ. 
1995; 29(3); 187–192.
12. Cuijpers P., van Straten A., Donker M. 
Personality traits of patients with mood and 
anxiety disorders. Psychiatry Res. 2005; 133 (2-
3): 229–237.
13. Straten A., Cuijpers P., Zuuren F.J, et al. 
Personality traits and health-related quality of 
life in patients with mood and anxiety disorders. 
Qual Life Res. 2007; 16(1): 1-8.
14. Zung W. A rating instrument for anxiety 
disorders. Psychosomatics. 1971; 12(6): 371–
379.
15. Eysenck H.J. The Measurement of 
Personality. SAGE Publications.1946.
16. Prakash Mehta, Komal Thekdi, Milan 
Rokad. Exploratory Study to Access Anxiety, 
Depression and Stress among Medical Students, 
Freshly Starting Their Medical Education in a 
Medical College. 2013.
17. Masood A., Rashid S., Musarrat R, et al. 
Nonclinical Depression and Anxiety as Predictor 
of Academic Stress in Medical Students. Int J 
Med Res Health Sci. 2016; 5(5): 391–397.
18. Dyrbye L.N., Thomas M.R., Shanafelt 
T.D. Systematic review of depression, anxiety, 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 129 (5) - 2020104
and other indicators of psychological distress 
among US and Canadian medical students. 
Acad Med. 2006; 81(4): 354–373.
19. Lê Minh Thuận. Một số rối nhiễu tâm lý ở 
sinh viên trường Đại học Y Dược Thành Phố Hồ 
Chí Minh. 2011.
20. Banoo. Association of Body Mass Index 
and Gender with Anxiety Score in Students of 
Medical Science. 2015.
21. Rohini H.N., Kudachi P., Goudar S.. 
Association of overnutritional status with anxiety 
in medical students. Natl J Physiol Pharm 
Pharmacol. 2012; 2(2): 123–127.
22. Bitsika V., Sharpley C.F., Melhem 
T.C. Gender differences in factor scores of 
anxiety and depression among Australian 
university students: Implications for counselling 
interventions. Can J Couns Psychother Online. 
2010; 44(1): 51.
23. Abrar A., Kazim M., Hanif M,et al. 
Prevalence of anxiety and depression among 
medical students of shifa college of medicine. 
Pak J Neurol Sci PJNS. 2014; 9(3): 12–15.
24. Lievens F., Coetsier P., De Fruyt F, et 
al. Medical students’ personality characteristics 
and academic performance: A five-factor model 
perspective. Med Educ. 2002; 36(11): 1050–
1056.
25. Haikang Shen, Andrew L.Comrey. 
Predicting Medical Students’ Academic 
Performance by Their Cognitive Abilities and 
Personality Characteristics. 1997.
26. Bernad S.Linn, Robert Zeppa. Stress 
in Junior Medical Students: Relationship to 
Personality and Performance.1984.
27. Brandes M, Bienvenu O.J. Personality 
and anxiety disorders. Curr Psychiatry Rep. 
2006; 8(4):263–269.
Summary
PERSONALITY CHARACTERISTICS AND ANXIETY AMONG 
SECOND-YEAR STUDENTS AT HANOI MEDICAL UNIVERSITY 
2016 - 2017
Anxiety is one of the common mental disorders. The study aimed to determine the prevalence of 
anxiety and the relationship between personality traits and anxiety among second-year students at 
Hanoi Medical University 2016 - 2017. The study used a cross-sectional study design on 531 medical 
students. Tools for collecting data include Zung Scale and Eysenck Personality Questionnaire (EPQ). 
The study results showed that the anxiety rate was 49.7% and there was significant relationship 
between extrovert, introvert and anxiety, with OR = 2.14 and OR = 3.71, respectively. Therefore, medical 
students should be screened for anxiety and personality for appropriate and timely interventions.
Key words: Anxiety, medical students, personality traits

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_nhan_cach_va_lo_au_o_sinh_vien_nam_thu_hai_truong_d.pdf