Đặc điểm mô bệnh học và sự bộc lộ TFE3 của sarcôm mô mềm thể hốc: nhân 04 trường hợp tại Bệnh viện Việt Đức và hồi cứu y văn
Đặt vấn đề: Sarcôm mô mềm thể hốc là một sarcôm đặc biệt, hiếm gặp, chiếm 0,5-1% tất cả sarcôm
mô mềm. Hiện nay, TFE3 đã được tìm thấy là một dấu ấn hóa mô miễn dịch hữu ích để chẩn đoán loại
sarcôm này.
Mục tiêu: Nhận xét đặc điểm mô bệnh học và sự bộc lộ của TFE3.
Phương pháp: Hồi cứu 04 trường hợp sarcôm mô mềm thể hốc trong 3 năm, nhuộm hóa mô miễn dịch với
TFE3 và một số dấu ấn khác, đối chiếu với y văn.
Kết quả: Cả 04 bệnh nhân đều là nam giới, tuổi từ 2 đến 50 (trung bình 27 tuổi). Khối u phát triển chủ yếu
ở vị trí mô mềm sâu (75%), đầu-mặt-cổ (25%, hốc mắt). Về mặt mô bệnh học, các khối u gồm các tế bào dạng
biểu mô với cấu trúc thể hốc-nang, cả 04 trường hợp đều dương tính với TFE3 mức độ 2+ đến 3+, âm tính với
các dấu ấn cơ (Desmin, Myogenin, SMA). 01 trường hợp có di căn tới phổi và não.
Kết luận: TFE3 là một dấu ấn hóa mô miễn dịch hữu ích để chẩn đoán sarcôm mô mềm thể hốc. Nhận
thức về các khối u khác có bộc lộ với TFE3 là rất quan trọng. Sarcôm mô mềm thể hốc có tỷ lệ di căn cao.
Phẫu thuật cắt bỏ với các hình thức theo dõi là sự quản lý hiện tại
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm mô bệnh học và sự bộc lộ TFE3 của sarcôm mô mềm thể hốc: nhân 04 trường hợp tại Bệnh viện Việt Đức và hồi cứu y văn
GIAI PHÃU BỆNH TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 256 ĐẶC ĐIỂM MÔ BỆNH HỌC VÀ SỰ BỘC LỘ TFE3 CỦA SARCÔM MÔ MỀM THỂ HỐC: NHÂN 04 TRƯỜNG HỢP TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC VÀ HỒI CỨU Y VĔN HỒ ĐỨC THƯỞNG1, NGUYỄN THỊ KHUYÊN2 TÓM TẮT Đặt vấn đề: Sarcôm mô mềm thể hốc là một sarcôm đặc biệt, hiếm gặp, chiếm 0,5-1% tất cả sarcôm mô mềm. Hiện nay, TFE3 đã được tìm thấy là một dấu ấn hóa mô miễn dịch hữu ích để chẩn đoán loại sarcôm này. Mục tiêu: Nhận xét đặc điểm mô bệnh học và sự bộc lộ của TFE3. Phương pháp: Hồi cứu 04 trường hợp sarcôm mô mềm thể hốc trong 3 nĕm, nhuộm hóa mô miễn dịch với TFE3 và một số dấu ấn khác, đối chiếu với y vĕn. Kết quả: Cả 04 bệnh nhân đều là nam giới, tuổi từ 2 đến 50 (trung bình 27 tuổi). Khối u phát triển chủ yếu ở vị trí mô mềm sâu (75%), đầu-mặt-cổ (25%, hốc mắt). Về mặt mô bệnh học, các khối u gồm các tế bào dạng biểu mô với cấu trúc thể hốc-nang, cả 04 trường hợp đều dương tính với TFE3 mức độ 2+ đến 3+, âm tính với các dấu ấn cơ (Desmin, Myogenin, SMA). 01 trường hợp có di cĕn tới phổi và não. Kết luận: TFE3 là một dấu ấn hóa mô miễn dịch hữu ích để chẩn đoán sarcôm mô mềm thể hốc. Nhận thức về các khối u khác có bộc lộ với TFE3 là rất quan trọng. Sarcôm mô mềm thể hốc có tỷ lệ di cĕn cao. Phẫu thuật cắt bỏ với các hình thức theo dõi là sự quản lý hiện tại. Từ khóa: Sarcôm mô mềm thể hốc, TFE3, Alveolar soft part sarcoma. SUMMARY Background: Alveolar soft part sarcoma accounts for 0,5-1% of all soft tissue sarcomas. Currently, TFE3 has been found to be a useful immunohistochemical marker for diagnosing this sarcoma. Methods: We reviewed 04 cases of alveolar soft part sarcoma in Viet Duc Hospital. TFE3 immunohistochemical staining was performed on 04 alveolar soft part sarcomas and another markers. Results: 100% of patients were males. The ages ranged from 2 to 50 years (median 27 years). Tumors were located in the deep soft tissues of lower extremities (75%), head and neck (25%, orbit). Histopathologically, all tumors composed of epithelioid cells arranged in alveolar structuresand were positive for TFE3 (4/4, 100%), negative for Desmin, Myoglobin and Smooth muscle actin (4/4, 100%). 1 of 4 (25%) metastasised, to the lungs and brain. Conclusions: TFE3 is a useful immunohistochemical marker for diagnosis of an alveolar soft part sarcoma. Awareness of other tumours expressing TFE3 is vital. Alveolar soft part sarcoma has a high metastasis rate. Surgical excision with follow-up forms the present management. 1 Khoa Giải Phẫu bệnh - Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức 2 Trường Đại Học Y Hà Nội ĐẶT VẤN ĐỀ Sarcôm mô mềm thể hốc (Alveolar soft part sarcoma-ASPS) là một sarcôm đặc biệt, hiếm gặp, chiếm 0,5-1% sarcôm mô mềm (SMM) ở Mỹ. U gồm các tế bào dạng biểu mô, kích thước lớn, đều nhau, có bào tương rộng, dạng hạt, ưa toan, sắp xếp thành ổ đặc và/hoặc dạng hốc[1]. Về mặt di truyền học phân tử, u được đặc trưng bởi sự chuyển đoạn der (17) t (X,17) (p11.2, q25), dẫn đến sự hợp nhất gen TFE3 và ASPSCR1. Về mặt điều trị, thường kết hợp phẫu thuật cắt bỏ rộng rãi, kết hợp xạ trị và hóa trị. Về mặt tiên lượng, ASPS thường phát triển chậm và hiếm khi tái phát tại chỗ sau khi cắt bỏ; tuy nhiên, u lại có tỷ lệ di cĕn cao. Di cĕn có thể xuất hiện sớm, GIAI PHẪU BỆNH TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 257 đôi khi trước cả khi phát hiện ra khối nguyên phát, hoặc thậm chí hàng chục nĕm sau khi cắt khối nguyên phát ngay cả khi không có tái phát tại chỗ. Các yếu tố ảnh hưởng đến tiên lượng bao gồm: Tuổi bị bệnh, kích thước u và có di cĕn tại thời điểm chẩn đoán hay không. Các vị trí di cĕn hay gặp lần lượt là phổi, xương và não. Di cĕn hạch hiếm gặp[1],[2]. Hiện nay, TFE3 đã được tìm thấy là một dấu ấn hóa mô miễn dịch (HMMD) hữu ích để chẩn đoán loại sarcôm này[1],[2]. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu: Nhận xét đặc điểm mô bệnh học và sự bộc lộ dấu ấn miễn dịch TFE3 trên 04 trường hợp Sarcôm mô mềm thể hốc tại Bệnh viện Việt Đức. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu 04 ca bệnh ASPS được chẩn đoán tại bệnh viện Việt Đức trong thời gian ba nĕm từ 2016-2018, có đầy đủ thông tin lâm sàng - chẩn đoán hình ảnh trong bệnh án, có đầy đủ tiêu bản và khối nến. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu hồi cứu ca bệnh, đối chiếu y vĕn Các chỉ tiêu nghiên cứu: tuổi, giới, vị trí u, chẩn đoán hình ảnh, đặc điểm đại thể, đặc điểm vi thể, đặc điểm HMMD. Quy trình nghiên cứu Ghi nhận các thông tin về lâm sàng: tuổi, giới, vị trí u, chẩn đoán hình ảnh, kích thước, di cĕn. Nhuộm H.E thường quy để đánh giá: hình thái tế bào u, cấu trúc u, các đặc điểm hoại tử, nhân chia, xâm nhập mạch. Nhuộm HMMD với dấu ấn TFE3 ở tất cả 4 trường hợp. Nhuộm các dấu ấn khác để chẩn đoán phân biệt như: CK, CD56, ChrommograninA, S100, Synaptophysin, Myogenin, Desmin, RCC, PAX8, HMB45, MelanA, Heppar1, ERG, TTF1, Inhibin KẾT QUẢ Một số đặc điểm chung Bảng 1. Một số đặc điểm lâm sàng và đại thể Đặc điểm Trường hợp 1 Trường hợp 2 Trường hợp 3 Trường hợp 4 Tuổi 27 29 2 50 Giới Nam Nam Nam Nam Vị trí Đùi Mông Hốc mắt Cẳng chân Di cĕn Không Có(não, phổi) Không Không Loại Cắt u -Mổ u não Cắt u Sinh thiết bệnh phẩm toàn bộ rộng rãi -Sinh thiết khối u mông toàn bộ trước mổ và cắt cụt Kích thước u (cm) 8x6x6 10x8x8,3 2x1,8x1 9,5x6,5x6 Qua bảng trên cho thấy trên 04 bệnh nhân có độ tuổi trung bình là 27, trong đó 3 trường hợp ở người trưởng thành chiếm 75% và đều có kích thước u > 5cm, 1 trường hợp trẻ em chiếm 25% có kích thước u nhỏ < 5cm. 3/4 trường hợp u ở vị trí sâu của mô mềm (mông, đùi, cẳng chân) và 1 trường hợp trẻ em ở hốc mắt. Cả 04 trường hợp đều gặp ở giới nam chiếm 100%. 1/4 trường hợp có di cĕn não và phổi tại thời điểm mổ. Chẩn đoán hình ảnh: trên cộng hưởng từ (MRI) và cắt lớp vi tính thấy tổ chức u có tĕng sinh mạch máu và ngấm thuốc mạnh. 3 trường hợp ở người lớn có khối u ở mô mềm sâu và ranh giới không rõ với xung quanh, có các ổ chảy máu và hoại tử trong u, trường hợp 2 có khối u chính ở vùng mông và các ổ di cĕn não, phổi. A B Hình 1. Kết quả chẩn đoán hình ảnh. Trường hợp 2: Bệnh nhân Đoàn Vĕn V. (A). MRI sọ não: Khối di cĕn ở não ranh giới rõ; (B) MRI vùng mông thấy trong cơ mông lớn bên trái có khối choán chỗ kích thước 10x8x8,3cm, bờ không đều, ranh giới không rõ, tĕng sinh mạch. Bệnh nhân được mổ khối di cĕn não và sinh thiết khối u vùng mông. Hình ảnh 2. Đại thể. Trường hợp 4 (Bệnh nhân Trần Vĕn Th.): Khối u nằm sâu trong cơ cẳng chân với ranh giới không rõ, đặc, màu hồng xám-vàng nhạt, có các ổ chảy máu, hoại tử trung tâm. Bệnh nhân được sinh thiết trước mổ chẩn đoán là ASPS sau đó phẫu thuật cắt cụt chi. GIAI PHÃU BỆNH TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 258 Đặc điểm mô bệnh học Các trường hợp đều có tế bào u dạng biểu mô với bào tương rộng sáng màu hoặc ưa toan, nhân nằm ở giữa, hạt nhân khá rõ, hiếm nhân không điển hình và nhân chia. Chúng sắp xếp tạo cấu trúc hốc, nang (dạng phế nang) và có vùng cấu trúc đặc, xen kẽ với hệ thống mạch máu tĕng sinh. Nhuộm PAS đều thấy bào tương tế bào u dương tính dạng hạt, bắt màu đỏ.3/4 trường hợp có xâm nhập mạch máu (3 trường hợp ở người lớn).Trường hợp khối u ở hốc mắt có ranh giới khá rõ, nổi bật cấu trúc đặc, tuy nhiên vẫn có vùng cấu trúc dạng hốc- nang đặc trưng, không có xâm nhập mạch. Bảng 2. Phân độ mô học (Theo phân độ u mô mềm của Pháp)[3] Đặc điểm vi thể Trường hợp 1 Trường hợp 2 Trường hợp 3 Trường hợp 4 Biệt hóa tế bào 3 3 3 3 Hoại tử 1 (20%) 1 (30%) 0 (0%) 1 (10%) Số nhân chia/10 vi trường độ phóng đại lớn 1 (4) 1 (7) 1 (2) 1 (5) Tổng điểm 5 5 4 5 Độ mô học II II II II Các trường hợp đều có độ mô học II Hình 3. Trường hợp 2: Bệnh nhân Đoàn Vĕn V., VD17-45138 (khối di cĕn não): tế bào u dạng biểu mô, kích thước lớn, đều nhau, bào tương rộng, dạng hạt, ưa toan, sắp xếp cấu trúc dạng hốc (nang) (A) và/hoặc ổ đặc- lan tỏa (B), xen kẽ các mao mạch dạng xoang. PAS dương tính với bào tương của tế bào u (C). Mô u có vùng hoại tử (D). Đặc điểm bộc lộ hóa mô miễn dịch Cả 04 trường hợp đều được nhuộm HMMD với TFE3 và đều cho kết quả dương tính nhân ở mức độ 2+ đến 3+. Bảng 3. Mức độ bộc lộ TFE3 Mức độ bộc lộ TFE3 Âm tính 1 + 2+ 3+ Trường hợp1 x Trường hợp2 x Trường hợp3 x Trường hợp4 x Tổng 0 0 1/4 (25%) 3/4(75%) A B C D GIAI PHẪU BỆNH TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 259 Hình 4. Trường hợp 2: TFE3 (+) với nhân tế bào u ở cả khối di cĕn não (VD17-45138) và khối u nguyên phát vùng mông (VD18-00518). Các dấu ấn khác (CK, CD56, ChrommograninA, S100, Synaptophysin, Myogenin, Desmin, RCC, Pax-8, HMB45, MelanA, Hepa-1, ERG, TTF1, Inhibin, GFAP) dùng để chẩn đoán phân biệt đều âm tính. BÀN LUẬN Sarcôm mô mềm thể hốc là một sarcôm đặc biệt, hiếm gặp. U gồm các tế bào dạng biểu mô, kích thước lớn, đều nhau, có bào tương rộng, dạng hạt, ưa toan, sắp xếp thành các cấu trúc dạng hốc - nang và/hoặc ổ đặc. Nó được đặc trưng bởi sự hợp nhất gen ASPSCR1-TFE3[1]. Tần suất gặp chiếm 0.2-0.9% tổng sarcôm của mô mềm. Các đặc điểm chung ASPS có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, thường gặp nhất là 15-35 tuổi. U hiếm gặp trước 5 tuổi và sau 50 tuổi. Nữ trội hơn nam ở lứa tuổi dưới 30, với tỷ lệ là 2:1; tuy nhiên, sau 30 tuổi, nam gặp nhiều hơn nữ[1],[2]. Trong nghiên cứu của chúng tôi có một trường hợp ở trẻ em (2 tuổi) và toàn bộ là nam giới. Vị trí của u, ở người lớn, ASPS thường gặp nhất ở mô mềm vùng sâu của đùi hoặc mông. Ở trẻ nhỏ và trẻ sơ sinh, vùng đầu-cổ, đặc biệt lưỡi và ổ mắt là vị trí thường gặp nhất. Các vị trí ít gặp khác bao gồm: phổi, dạ dày, gan, vú, xương, thanh quản, tim, đường sinh dục nam và nữ (thường gặp ở cổ tử cung)[1],[4]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi là khá tương đồng, ba trường hợp ở người lớn đều gặp ở các vị trí sâu là mông, đùi và cẳng chân; một trường hợp ở trẻ nhỏ gặp ở vị trí hốc mắt (đầu - mặt-cổ), cũng được nhắc đến trong nhiều nghiên cứu. Đặc điểm lâm sàng, ASPS thường biểu hiện như một khối phát triển chậm, không đau. Di cĕn sớm là đặc trưng của khối u này và trong nhiều trường hợp di cĕn đến phổi và não đôi khi là biểu hiện ban đầu của bệnh. Chúng tôi gặp 1/4 trường hợp có di cĕn não và phổi ở thời điểm mổ. Tổn thương hốc mắt thường gây lồi mắt và sưng nề mí mắt (gặp ở trẻ em). Chảy máu âm đạo là biểu hiện thường gặp với khối u xuất phát ở đường sinh dục nữ. Tĕng sinh mạch máu với nổi trội các tĩnh mạch dẫn lưu có thể thấy rõ trên chụp mạch hoặc CT có tiêm thuốc cản quang và tĕng tín hiệu ở T1 và T2 trên cộng hưởng từ (MRI) rất gợi ý ASPS[1],[2],[4]. Về mặt giải phẫu bệnh Đại thể ASPS có xu hướng ranh giới không rõ, màu xám nhạt hoặc hơi vàng, diện cắt mềm, khá đồng nhất. Hoại tử và chảy máu hay gặp, đặc biệt trong khối u kích thước lớn. 3 trường hợp ở người lớn của chúng tôi đều có hoại tử và chảy máu trong u. Trường hợp ở trẻ em, do u ở vị trí hốc mắt, gây biểu hiện lồi mắt nên được phát hiện sớm khi khối u kích thước nhỏ (2cm), ranh giới khá rõ và không có hoại tử. Vi thể U đặc trưng bởi cấu trúc dạng ổ hoặc dạng nang nhất là khi quan sát ở vật kính có độ phóng đại thấp; nhưng đôi khi vắng mặt, đặc biệt ở trẻ em (thường có cấu trúc đặc). Cấu trúc dạng ổ có xu hướng đồng dạng, nhưng cũng có thể thấy hình thái và kích thước khác nhau. Các ổ tế bào được chia cắt bởi các vách mô liên kết mảnh, chứa các mạch máu dạng xoang được lót bởi tế bào nội mô dẹt. Vùng trung tâm các ổ tế bào u thường có hoại tử và mất kết dính tế bào dẫn đến dạng giả hốc và do vậy thuật ngữ dạng hốc được dùng để chỉ u. Trong một số trường hợp, nhất là ở trẻ em và trẻ sơ sinh u có thể phát triển tạo thành mảng đặc lan tỏa mà không tạo thành ổ rõ. Các tế bào u thường có kích thước đều nhau, hình tròn hoặc hình đa diện, ranh giới tế bào rõ, gợi lại dạng biểu mô. Nhân thường nằm ở trung tâm, hạt nhân rõ. Nhiều nhân và nhân không điển hình ít gặp. Bào tương tế bào rộng, ưa toan, chứa hạt mịn nhưng đôi khi sáng màu. Nhân chia hiếm gặp nhưng xâm nhập mạch thường quan sát thấy (3/4 trường hợp trong nghiên cứu của chúng tôi). Tế bào u thường có các thể vùi trong bào tương có dạng tinh thể hình gậy hoặc hình thoi khó quan sát khi nhuộm HE thông thường (rõ hơn khi nhuộm PAS). Thể vùi này gặp nhiều hay ít tùy từng trường hợp. Ngoài ra, u còn chứa nhiều glycogen và nhiều hạt kháng diastase, được cho là tiền tinh thể hình gậy[1]. Hóa mô miễn dịch Về mặt kiểu hình miễn dịch, đặc trưng nhất của ASPS là dương tính mạnh với TFE3 (dương tính nhân), CD147 và Desmin (50%, thường dương tính ổ), âm tính với CK, EMA, Myogenin, MyoD1, Synaptophyrin, HMB45, Vimentin. Tuy nhiên, TFE3 dương tính nổi trội với nhân cũng có thể thấy trong một số u tế bào hạt[1]. Tất cả 4 trường hợp trong GIAI PHÃU BỆNH TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 260 nghiên cứu của chúng tôi đều có TFE3 dương tính nhân với cường độ mạnh từ 2+ đến 3+. Các dấu ấn cho dòng cơ (Desmin, Myogenin, SMA) âm tính. Các dấu ấn khác được sử dụng để chẩn đoán phân biệt như CK, CD56, ChrommograninA, S100, Synaptophysin, RCC, Pax-8, HMB45, MelanA, Hepa-1, ERG, TTF1, Inhibin, GFAP cũng đều âm tính. Chẩn đoán phân biệt của sarcôm mô mềm thể hốc gồm u tế bào hạt, u phó hạch giao cảm, sarcôm cơ vân thể hốc, u hắc tố ác tính, sarcôm tế bào sáng mô mềm, di cĕn ung thư biểu mô[5],[6],[7]. Đối với người trưởng thành chẩn đoán phân biệt hàng đầu là di cĕn ung thư biểu mô tế bào thận typ chuyển đoạn Xp11.2[5], loại u này cũng bộc lộ TFE3, tuy nhiên các dấu ấn khác như CK, RCC, Pax-8 âm tính giúp chẩn đoán loại trừ. U tế bào hạt cũng có thể dương tính nhân với TFE3, tuy nhiên S100 âm tính giúp chẩn đoán phân biệt. Bảng 4. HMMD chẩn đoán phân biệt giữa ASPS với một số u HMB45/MelanA S100 TFE3 Desmin CK Myogenin PAX8 ChromoganinA Sarcôm mô mềm thể hốc - - + nhân + ổ (50%) - - - - U tế bào hạt + + -/+ - - - - - U hạch phó giao cảm - + - - - - - + RCC di cĕn - - -/+ - + - + - U hắc tố + + - - - - - - PEComa + +/- - + (40%) - - - - Sarcôm cơ vân thể hốc - - - + - + - - Về mặt di truyền học phân tử, u được đặc trưng bởi sự chuyển đoạn không cân bằng giữa nhiễm sắc thể X và nhiễm sắc thể 17 được mô tả lần đầu tiên bởi Ladanyi và cộng sự nĕm 2001[8]. Sự chuyển đoạn der (17) t (X,17) (p11.2, q25), dẫn đến sự hợp nhất gen TFE3 và ASPSCR1 được tìm thấy trong tất cả các nghiên cứu về ASPS. Về mặt điều trị và tiên lượng, thường kết hợp phẫu thuật cắt bỏ rộng rãi, kết hợp xạ trị, hóa trị. ASPS có độ ác tính cao, thường phát triển chậm và hiếm khi tái phát tại chỗ sau khi cắt bỏ; tuy nhiên u lại có tỷ lệ di cĕn cao. Các yếu tố ảnh hưởng đến tiên lượng bao gồm: tuổi bị bệnh, kích thước u và tình trạng di cĕn tại thời điểm chẩn đoán. Bệnh nhân dưới 10 tuổi, kích thước u <5cm và chưa có di cĕn tại thời điểm chẩn đoán thường có tiên lượng tốt. Trong nghiên cứu từ Trung tâm ung thư Memorial Sloan-Kettering, tỷ lệ sống trên 5 nĕm với bệnh nhân không có di cĕn tại thời điểm chẩn đoán là 60%, trên 10 nĕm là 38% và 15% trên 20 nĕm. Đặc điểm mô bệnh học không có ý nghĩa tiên lượng. Nguy cơ di cĕn cũng tĕng theo tuổi và kích thước khối u lớn cũng có tỷ lệ di cĕn nhiều hơn. Các vị trí di cĕn hay gặp lần lượt là phổi, xương và não. Di cĕn hạch hiếm gặp[1],[2]. KẾT LUẬN Chúng tôi gặp 04 trường hợp ASPS trong 3 nĕm nghiên cứu, có hình ảnh mô bệnh học là các tế bào dạng biểu mô với cấu trúc nang - hốc. Vị trí thường gặp nhất của u là các vùng sâu trong cơ (3/4 trường hợp) như đùi, mông hoặc cẳng chân. Một trường hợp ở trẻ em gặp ở vị trí hốc mắt. Đây là một khối u có độ ác tính cao, tiến triển chậm nhưng thường có xâm nhập mạch máu (3/4 trường hợp) và tỷ lệ di cĕn cao (di cĕn 1/4 trường hợp tại thời điểm nghiên cứu). Về mặt điều trị, thường kết hợp phẫu thuật cắt bỏ rộng rãi, kết hợp xạ trị, hóa trị và theo dõi sát bệnh nhân. TFE3 dương tính nhân đặc hiệu trong cả 4 trường hợp là một dấu ấn HMMD có giá trị chẩn đoán khối u hiếm gặp này. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Fletcher, C. D.M., J.A. Bridge et al (2013). WHO Classification of Tumours of Soft Tissue and Bone. 2. Miettinen M, Fetsch F, Andrew L et al (2014). Tumors of the Soft Tissues (AFIF-Atlas of Tumor Pathology), 4. 3. X. Lin, S. Davion, E. C. Bertsch et al (2016). Federation Nationale des Centers de Lutte GIAI PHẪU BỆNH TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 261 Contre le Cancer grading of soft tissue sarcomas on needle core biopsies using surrogate markers. Hum Pathol, 56, 147-54. 4. G. Giordano, T. D'Adda, E. Varotti et al (2016). Primary alveolar soft part sarcoma of uterine corpus: a case report with immunohistochemical, ultrastructural study and review of literature. World J Surg Oncol, 14(1), 24. 5. Omar I. Jaber and Patricia A. Kirby (2015). Alveolar Soft Part Sarcoma. Archives of Pathology & Laboratory Medicine, 139(11), 1459-1462. 6. A. L. Folpe and A. T. Deyrup (2006). Alveolar soft‐part sarcoma: a review and update. J Clin Pathol, 59(11), 1127-32. 7. Markku Miettinen (2017). Alveolar soft part sarcoma. Modern Soft Tissue Pathology: Tumors and Non-Neoplastic Conditions, Markku Miettinen, Cambridge University Press, Cambridge, 895-902. 8. Marc Ladanyi, Man Yee Lui, Cristina R. Antonescu et al (2001). The der (17) t (X;17) (p11;q25) of human alveolar soft part sarcoma fuses the TFE3 transcription factor gene to ASPL, a novel gene at 17q25. Oncogene, 20, 48.
File đính kèm:
dac_diem_mo_benh_hoc_va_su_boc_lo_tfe3_cua_sarcom_mo_mem_the.pdf

