Đặc điểm mang thai ở những trường hợp sau điều trị thai bám sẹo mổ lấy thai

Đặt vấn đề: Tỷ lệ bảo tồn tử cung trong điều trị thai bám sẹo mổ lấy thai (TBSMLT) khá cao nên tương lai

sản khoa sau điều trị TBSMLT đang ngày càng được chú ý.

Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm mang thai và kết cục thai kỳ ở bệnh nhân sau điều trị TBSMLT bảo tồn tử cung.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Báo cáo loạt ca hồi cứu ở những phụ nữ điều trị TBSMLT bảo

tồn tử cung bệnh viện Hùng Vương và bệnh viện Từ Dũ năm 2015 - 2017. Hồ sơ thoả tiêu chuẩn chọn mẫu

được liên lạc qua điện thoại, ghi nhận tình hình mang thai và thông tin thai kỳ này.

Kết quả: Trong 204 trường hợp nghiên cứu, có 40 trường hợp mang thai. 22 trường hợp thai kỳ có con sinh

sống (55%), tất cả các trẻ sinh ra đều khoẻ mạnh, không ghi nhận biến chứng nào trong thai kỳ. 12 trường hợp

TBSMLT tái phát (30%), không có trường hợp nào xảy ra biến chứng. Tất cả đều được điều trị thành công bảo

tồn tử cung, 2 trường hợp phá thai nội khoa (5%), 2 trường hợp thai ngoài tử cung (5%), 2 trường hợp sẩy thai

sớm (5%).

Kết luận: Khả năng mang thai lại và kết cục thai kỳ sau điều trị TBSMLT là khả quan. Nguy cơ tái phát

TBSMLT còn cao, đáng lo ngại.

pdf 9 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm mang thai ở những trường hợp sau điều trị thai bám sẹo mổ lấy thai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm mang thai ở những trường hợp sau điều trị thai bám sẹo mổ lấy thai

Đặc điểm mang thai ở những trường hợp sau điều trị thai bám sẹo mổ lấy thai
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 9
ĐẶC ĐIỂM MANG THAI Ở NHỮNG TRƯỜNG HỢP SAU ĐIỀU TRỊ 
THAI BÁM SẸO MỔ LẤY THAI 
Nguyễn Thị Thanh Thảo1, Nguyễn Hồng Hoa1, Văn Phụng Thống2, Hoàng Thị Diễm Tuyết3 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Tỷ lệ bảo tồn tử cung trong điều trị thai bám sẹo mổ lấy thai (TBSMLT) khá cao nên tương lai 
sản khoa sau điều trị TBSMLT đang ngày càng được chú ý. 
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm mang thai và kết cục thai kỳ ở bệnh nhân sau điều trị TBSMLT bảo tồn tử cung. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Báo cáo loạt ca hồi cứu ở những phụ nữ điều trị TBSMLT bảo 
tồn tử cung bệnh viện Hùng Vương và bệnh viện Từ Dũ năm 2015 - 2017. Hồ sơ thoả tiêu chuẩn chọn mẫu 
được liên lạc qua điện thoại, ghi nhận tình hình mang thai và thông tin thai kỳ này. 
Kết quả: Trong 204 trường hợp nghiên cứu, có 40 trường hợp mang thai. 22 trường hợp thai kỳ có con sinh 
sống (55%), tất cả các trẻ sinh ra đều khoẻ mạnh, không ghi nhận biến chứng nào trong thai kỳ. 12 trường hợp 
TBSMLT tái phát (30%), không có trường hợp nào xảy ra biến chứng. Tất cả đều được điều trị thành công bảo 
tồn tử cung, 2 trường hợp phá thai nội khoa (5%), 2 trường hợp thai ngoài tử cung (5%), 2 trường hợp sẩy thai 
sớm (5%). 
Kết luận: Khả năng mang thai lại và kết cục thai kỳ sau điều trị TBSMLT là khả quan. Nguy cơ tái phát 
TBSMLT còn cao, đáng lo ngại. 
Từ khoá: thai bám sẹo mổ lấy thai, đặc điểm mang thai, kết cục thai kỳ 
ABSTRACT 
PREGNANCY COURSE AFTER TREATMENT OF CAESAREAN SCAR ECTOPIC PREGNANCY 
Nguyen Thi Thanh Thao, Nguyen Hong Hoa, Van Phung Thong, Hoang Thi Diem Tuyet 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 1 - 2021: 09 - 17 
Background: The rate of uterus is successfully conserved following the treatment of scar pregnancy which is 
high so pregnancy outcome following Caesarean scar ectopics is getting more and more attention. 
Objectives: to assess pregnancy course and outcome after conservative treatment of cesarean scar pregnancy. 
Methods: Report a series of retrospective cases of women who received conservative treatment for their Caesarean 
scar pregnancies at Hung Vuong and Tu Du hospital between 2015 and 2017. A telephone follow-up was conducted 
after CSP treatment. The outcomes of these subsequent pregnancies and mode of delivery were all recorded. 
Results: In 204 case studies, there were 40 pregnancies. 22 cases of intrauterine pregnancy with childbirth 
(55%), all babies were born healthy, with no complications recorded in pregnancy. 12 women had recurrent scar 
ectopic (30%). There were 2 abortion cases, 2 cases of ectopic pregnancy, and 2 cases of early miscarriage. 
Conclusions: Our study shows that reproductive outcomes following treatment of caesarean scar ectopic 
pregnancies are favourable. The risk of recurrent Caesarean scar ectopic pregnancy is a concern. 
Keywords: caesarean scar ectopics, pregnancy course, pregnancy outcome 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tỷ lệ bảo tồn tử cung trong điều trị thai bám 
sẹo mổ lấy thai (TBSMLT) khá cao, cho thấy khả 
năng có thai lại sau điều trị TBSMLT là 1 điều 
đáng hy vọng. Trên thế giới, từ 2004 đến 2010, tỷ 
lệ điều trị TBSMLT bảo tồn tử cung dao động từ 
1Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược TP. HCM 2Bệnh viện Từ Dũ 3Bệnh viện Hùng Vương 
Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Thị Thanh Thảo ĐT: 0797737769 Email: [email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 10
89,5% đến 95%(1,2,3). Tại Việt Nam, tỉ lệ bảo tồn 
được tử cung sau điều trị TBSMLT bằng tiêm 
Methotrexate (MTX) hoặc hút nạo và chèn bóng 
Foley là 97,1% (2013)(4). Và tỉ lệ bảo tồn được tử 
cung sau điều trị TBSMLT bằng phương pháp 
đặt Foley và hút thai là 90,7% (2015)(5), con số này 
là 85,11% với phương pháp phẫu thuật cắt lọc 
sẹo mổ cũ lấy khối thai(6). 
Hiện nay, tương lai sản khoa sau điều trị 
TBSMLT đang ngày càng được chú ý, trên thế 
giới có vài nghiên cứu ghi nhận về vấn đề này, 
kết quả của những nghiên cứu này mở ra một hy 
vọng tương lai sản khoa tươi đẹp cho những 
người phụ nữ từng điều trị TBSMLT bảo tồn tử 
cung mà có mong muốn mang thai lại, với tỷ lệ 
mang thai trong tử cung lên đến 95%, tỷ lệ 
TBSMLT tái phát dao động chỉ từ 5% đến 15,6%, 
tỷ lệ thai kỳ có con sinh ra và khỏe mạnh dao 
động từ 60% đến 65%, và hầu như không có biến 
chứng xảy ra, chỉ có 1 trường hợp nhau cài răng 
lược dẫn đến chảy máu nhiều trong cuộc mổ(1,7,8). 
Gần đây nhất, năm 2018 Wei LK công bố kết quả 
nghiên cứu với 19 trường hợp có thai kỳ sinh 
sống sau điều trị TBSMLT mà không có bất cứ 
trường hợp nào bị nhau tiền đạo, nhau cài răng 
lược, hay vỡ tử cung trong lúc mang thai(9). 
Qua những nghiên cứu trên thế giới, ta 
thấy rằng việc mang thai lại sau điều trị 
TBSMLT bảo tồn tử cung khá là an toàn, rất ít 
biến chứng nặng nề, đây là điều đáng mong 
đợi. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có nhiều 
nghiên cứu quan tâm đến tương lai sản khoa 
sau điều trị TBSMLT. Vậy so với thế giới, dân 
số Việt Nam với dịch tễ khác và những 
phương pháp điều trị khác, liệu rằng có giống 
như vậy không? Và nếu như ta biết được tỷ lệ 
có thai lại sau điều trị TBSMLT, diễn tiến thai 
kỳ sau đó, tỷ lệ TBSMLT tái phát và những 
yếu tố liên quan, những biến chứng có thể xảy 
ra, có thể giúp ta tiên lượng kết cục thai kỳ lần 
sau để tư vấn cho những người phụ nữ mà có 
ý định mang thai sau khi điều trị TBSMLT. 
Mục tiêu 
Khảo sát đặc điểm các trường hợp mang thai 
sau điều trị TBSMLT bảo tồn tử cung. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Những phụ nữ được đã điều trị TBSMLT 
bảo tồn tử cung tại khoa Phụ ngoại – Ung bướu 
bệnh viện Hùng Vương và khoa Phụ bệnh viện 
Từ Dũ từ năm 2015 - 2017. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Các trường hợp được chẩn đoán với: 
+ Thời điểm chẩn đoán và điều trị từ 2015-2017. 
+ Thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán (*). 
+ Điều trị bảo tồn tử cung. 
+ Hồ sơ mang thai lại ở 1 trong 2 bệnh viện 
(nếu có thai). 
(*) Tiêu chuẩn chẩn đoán dựa vào siêu âm: 
Buồng tử cung rỗng, không có tiếp xúc túi thai. 
Thấy rõ ống CTC rỗng, không tiếp xúc túi thai. 
Sự mất liên tục ở thành trước tử cung thấy trên 
hình ảnh cắt dọc tử cung khi hướng tia siêu âm 
đi qua túi ối. Hiện diện túi thai có hoặc không có 
cực thai và tim thai (tùy theo tuổi thai) ở phần 
trước của eo tử cung. Không có hoặc thiếu tổ 
chức cơ tử cung giữa bàng quang và túi thai. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Những trường hợp hồ sơ đầy đủ nhưng 
không liên lạc được đối tượng nghiên cứu. 
Những trường hợp mang thai lại nhưng 
không có hồ sơ về thai kỳ này ở 2 bệnh viện Từ 
Dũ và Hùng Vương. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu báo cáo hàng loạt ca hồi cứu. 
Phương pháp chọn mẫu 
Chọn toàn bộ mẫu thoả tiêu chuẩn chọn mẫu 
Biến số kết cục chính 
Có thai: là tình trạng người phụ nữ có mang 
thai lại, được xác định dựa trên siêu âm và xét 
nghiệm beta hCG, với bất kỳ tuổi thai. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 11
Diễn tiến thai kỳ: thai trong tử cung, 
TBSMLT tái phát, sẩy thai, thai ngoài tử cung 
khác với phương pháp điều trị và biến chứng 
đi kèm. 
Cách tiến hành và thu thập số liệu 
Qua sổ lưu trữ từ năm 2015 đến 2017, tại 
khoa Phụ ngoại – Ung bướu bệnh viện Hùng 
Vương, khoa Phụ bệnh viện Từ Dũ chúng tôi sẽ 
chọn ra những hồ sơ với chẩn đoán là , với mã 
ICD là O00.8. Từ những thông tin trên, chúng tôi 
sẽ tìm bệnh án của bệnh nhân tại phòng lưu trữ 
hồ sơ bệnh viện Hùng Vương và bệnh viện Từ 
Dũ. Lọc lại bệnh án đủ thông tin thỏa tiêu chuẩn 
nhận vào.Thông qua những hồ sơ đã chọn, 
chúng tôi ghi nhận vào bảng thu thập số liệu tên, 
số nhập viện cũng như ngày nhập viện và xuất 
viện, thông tin cá nhân và số điện thoại của bệnh 
nhân. Liên lạc với bệnh nhân, xin phỏng vấn 
tham gia nghiên cứu, với các trường hợp đồng ý 
tham gia nghiên cứu, hỏi thêm các thông tin cần 
thiết theo bảng thu thập số liệu, nếu bệnh nhân 
có mang thai lại sau đó, chúng tôi sẽ hỏi thêm về 
tình hình mang thai lại, bệnh viện điều trị, hỏi 
xin thông tin thai kỳ này. Sau đó sẽ tìm kiếm hồ 
sơ các trường hợp có thai lại. Những trường hợp 
mang thai lại nhưng không điều trị tại 2 bệnh 
viện nghiên cứu, chúng tôi không đưa vào mẫu. 
Riêng tại bệnh viện Hùng Vương, với phần 
mềm quản lý bệnh nhân nhập viện, với mỗi 
bệnh nhân sẽ có 1 mã riêng, và mã này được sử 
dụng xuyên suốt cho những lần nhập viện sau, 
vậy nên với những hồ sơ điều trị bảo tồn tử 
cung, chúng tôi có thể theo dõi diễn tiến sau đó 
và cả thai kỳ lần sau (nếu mang thai lại) 1 cách 
liên tục và chính xác bằng 1 mã số duy nhất với 1 
bệnh nhân. 
Riêng với những trường hợp mang thai lại 
điều trị tại bệnh viện Từ Dũ, chúng tôi hỏi xin 
bệnh nhân số nhập viện và mã hồ sơ trên giấy 
xuất viện, từ đó tìm lại hồ sơ mang thai lần này. 
Quản lý và phân tích số liệu 
Số liệu được thu thập bằng cách sử dụng 
bảng thu thập số liệu, lấy thông tin trực tiếp từ 
hồ sơ bệnh án và phỏng vấn người tham gia 
nghiên cứu. 
Số liệu thu thập được sau khi được kiểm tra 
lại sẽ nhập vào máy tính mỗi tuần bằng phần 
mềm epidata. 
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS. 
Phân tích mô tả các yếu tố đặc điểm của lần 
điều trị TBSMLT trước và thai kỳ sau điều trị 
TBSMLT. 
Y đức 
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội 
đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại 
học Y Dược TP.HCM, số 332/ĐHYD-HĐĐĐ, 
ngày 01/10/2018. 
KẾT QUẢ 
Trong khoảng thời gian nghiên cứu, chúng 
tôi thu thập được 653 hồ sơ TBSMLT, có 232 hồ 
sơ TBSMLT điều trị bảo tồn tử cung thoả tiêu 
chuẩn chẩn đoán và điều trị, sau khi liên hệ qua 
điện thoại ghi nhận được 204 trường hợp. Trong 
204 trường hợp tiến hành nghiên cứu, có 4 
trường hợp có thai nhưng không có hồ sơ ở cả 2 
bệnh viện, nên chúng tôi đưa vào phân tích 200 
trường hợp, kết quả thu được như Hình 1. 
Có 44 trường hợp mang thai lại, trong đó có 
40 trường hợp có hồ sơ điều trị ở bệnh viện 
Hùng Vương và bệnh viện Từ Dũ, chiếm tỷ lệ 
19,61%. 
Trong 4 trường hợp mang thai lại không có 
hồ sơ, chúng tôi không đưa vào phân tích, tuy 
nhiên có hỏi thêm thông tin với 3 trường hợp 
đều mang thai đủ tháng và có con sinh sống, 1 
trường hợp phá thai nội khoa (PTNK) sau đó. 
Trong 40 trường hợp mang thai lại, có 34 
trường hợp là thai kỳ mong muốn, chiếm 85%, 
và 6 trường hợp là có thai ngoài kế hoạch chiếm 
15%. Trong đó, có 22 trường hợp mang thai 
trong tử cung có con sinh sống, chiếm 55%. Các 
trường hợp bị TBSMLT tái phát chiếm 30%. Có 2 
trường hợp chấm dứt thai kỳ với PTNK, 2 
trường hợp bị thai ngoài tử cung, và 2 trường 
hợp sẩy thai sớm trong 3 tháng đầu, mỗi trường 
hợp chiếm tỷ lệ 5% (Bảng 1). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 12
Hình 1: Kết quả nghiên cứu 
Bảng 1: Diễn tiến thai kỳ 
Đặc điểm Tần số (n=40) Tỷ lệ (%) 
Thai kỳ mong muốn 
Có 34 85 
Không 6 15 
Diễn tiến 
Thai kỳ có con sinh sống 22 55 
PTNK 2 5 
Thai ngoài tử cung 2 5 
TBSMLT tái phát 12 30 
Sẩy thai sớm 2 5 
Trong 22 trường hợp thai kỳ có con sinh ra 
và sống, 1 trường hợp sanh thường thai 37 tuần, 
1 bé trai, apgar 7/8, cân nặng 3200 g, 95,45% là 
được chấm dứt bằng phương pháp mổ lấy thai. 
Trong các trường hợp mổ lấy thai, 95,24% là mổ 
chủ động, chỉ có 1 trường hợp phải mổ cấp cứu 
vì thai suy lúc thai 39 tuần, được 1 bé trai, apgar 
7/8, cân nặng 3500 g, máu mất 300 ml. Có 1 
trường hợp có nhau bám mép, được mổ lấy thai 
chủ động lúc thai 37 tuần 2 ngày, được 01 bé trai, 
apgar 9/10, cân nặng 3200 g, máu mất 300 ml 
(Bảng 2). Không có bất kỳ trường hợp nào có xảy 
ra biến chứng ở mẹ. 
Bảng 2: Đặc điểm chấm dứt thai kỳ có con sinh sống 
Đặc điểm Tần số (n=22) Tỷ lệ (%) 
Phương pháp chấm dứt thai kỳ 
Mổ lấy thai 21 95,45 
Sanh thường 1 4,55 
Tình trạng mổ 
Chủ động 20 95,24 
Cấp cứu 1 4,76 
Nhau tiền đạo, nhau cài răng lược 
Có 1 4,55 
Không 21 95,45 
Trong 22 thai kỳ có con sinh ra và sống, đa 
số các trường hợp mang thai đều đủ tháng với 
95,45% các thai kỳ lớn hơn 37 tuần, tuổi thai 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 13
trung bình lúc chấm dứt thai kỳ là 38,2 0,9 
tuần. Chỉ có 1 trường hợp chấm dứt thai kỳ lúc 
thai 36,4 tuần, được mổ lấy thai vì vết mổ cũ, 
thiểu ối, chuyển dạ. Kết quả được 01 bé trai, 
apgar 7/8, cân nặng 2300 g. Tất cả các trẻ sinh ra 
trong thai kỳ đều khoẻ mạnh và không cần phải 
gửi dưỡng nhi (Bảng 2). 
Đặc điểm TBSMLT tái phát 
Phương pháp điều trị TBSMLT lần trước có 
tỷ lệ ngang nhau là 50% giữa hút thai và điều trị 
MTX, không có phẫu thuật. 
Trong 12 trường hợp thai kỳ TBSMLT tái 
phát, có 11 trường hợp lúc phát hiện có tuổi thai 
≤8 tuần, chiếm đa số với 91,67%. Phát hiện trễ lúc 
tuổi thai >8 tuần chỉ có 1 trường hợp (mã nghiên 
cứu TUN014), trường hợp này đã phải phẫu 
thuật cấp cứu vì bệnh nhân vào viện với tình 
trạng xuất huyết âm đạo lượng nhiều, may mắn 
là đã bảo tồn được tử cung với máu mất trong 
lúc phẫu thuật là 300 ml (Bảng 3). 
Bảng 3: Đặc điểm thai bám sẹo mổ lấy thai tái phát (n=12) 
Mã NC Tuổi 
TBSMLT lần đầu Thời gian 
ngừa thai 
(tháng) 
TBSMLT tái phát 
PARA 
Số lần 
MLT 
Tuổi thai PPĐT 
Khoảng cách đến 
lần này (tháng) 
Tuổi thai PPĐT thành công 
TRH057 33 1011 1 6 Hút 12 14 5 MTX-hút 
TRT024 40 2002 1 5 Hút 6 8 6 MTX-hút 
PHH012 39 2012 2 6 Hút 14 16 6 Hút-MTX 
TUN014 27 1001 1 6 Hút 6 10 9 PT 
MIM066 29 1102 2 8,3 Hút 10 10 5 Foley+hút 
MIT082 39 2002 2 8 Hút 33 33 6,5 Foley+hút 
DAT023 40 0121 1 6,4 MTX 20 23 6,2 Foley+hút 
TRV025 36 2012 2 5 MTX 36 44 5 Foley+hút 
HIL185 37 3023 2 5 MTX 0 14 6,4 Foley+hút 
NGN019 36 1001 1 5 MTX 24 35 6 MTX 
THL010 44 1202 2 5 MTX 0 6 5 MTX 
HUN029 41 2002 2 5 MTX 0 3 6 MTX 
Phương pháp điều trị TBSMLT tái phát 
thành công bằng foley kết hợp hút thai có 5 
trường hợp, 1 trường hợp sau đó mang thai 
trong tử cung và chấm dứt thai kỳ bằng PTNK, 
đây là trường hợp đặc biệt khi lần trước bệnh 
nhân ngừa thai bằng thuốc viên nội tiết, quên 
thuốc dẫn đến TBSMLT tái phát, sau điều trị 
TBSMLT tái phát không đi tái khám và theo dõi 
hCG sau xuất viện, dẫn đến việc sau đó mang 
thai lại trong tử cung ngoài ý muốn và PTNK, 
sau đó mới được ngừa thai bằng dụng cụ tử 
cung (mã nghiên cứu MIM066). 
Có 3 trường hợp điều trị thành công với 
MTX trong lần đầu, và 3 trường hợp phải điều 
trị lần 2 sau lần đầu thất bại, trong đó 1 trường 
hợp ban đầu điều trị bằng foley kết hợp hút thai 
nhưng theo dõi sau đó có hCG tăng nên đã 
được điều trị bổ sung với MTX toàn thân (mã 
nghiên cứu PHH012) và 2 trường hợp được điều 
trị ban đầu bằng MTX tiêm tại chỗ, sau theo dõi 
hCG tăng nên được điều trị lần 2 bằng hút lòng 
tử cung sau đó (mã nghiên cứu TRT024 và mã 
nghiên cứu TRH057) và 1 trường hợp được phẫu 
thuật bảo tồn tử cung (mã nghiên cứu TUN014). 
Trong cả 12 trường hợp điều trị TBSMLT tái 
phát, không có trường hợp nào ghi nhận xảy ra 
biến chứng. Tất cả đều được điều trị thành công 
bảo tồn t ... , chiếm 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 14
85%, và 6 trường hợp là có thai ngoài kế hoạch 
chiếm 15%. Trong đó, có 22 trường hợp mang 
thai trong tử cung có con sinh sống, chiếm 55%. 
Các trường hợp bị TBSMLT tái phát chiếm 30%. 
Có 2 trường hợp chấm dứt thai kỳ với PTNK, 2 
trường hợp bị thai ngoài tử cung, và 2 trường 
hợp sẩy thai sớm trong 3 tháng đầu, mỗi trường 
hợp chiếm tỷ lệ 5%. 
Tỷ lệ TBSMLT tái phát của chúng tôi cao hơn 
rất nhiều so với các nghiên cứu trên thế giới, 
nghiên cứu của Ben NJ (2007) với tỷ lệ tái phát 
chỉ 5%(1), Qiao W (2015) có 15,6% TBSMLT tái 
phát(8), Lufen G (2016), chỉ có 1 trường hợp tái 
phát với tỷ lệ 11,1%(7), Wei LK (2018), tỷ lệ tái 
phát là 14,3%(9). Mặc dù kết quả của chúng tôi 
không nhất thiết phải đại diện cho tỷ lệ tái phát 
thực sự, những dữ liệu này vẫn có thể cung cấp 
một số thông tin quan trọng về TBSMLT tái 
phát. Với số ca tái phát khá nhiều như vậy thật 
sự là 1 vấn đề đáng quan tâm, vậy có những yếu 
tố nào có thể ảnh hưởng đến việc mang thai lại 
sẽ bị TBSMLT tái phát? Liệu có tránh hoặc cải 
thiện được những nguy cơ đó? Để trả lời những 
câu hỏi này chúng ta cần có thêm những nghiên 
cứu với cỡ mẫu lớn hơn, phương pháp nghiên 
cứu có mức độ chứng cứ mạnh hơn. Tuy nhiên, 
cũng có thể do đa số bệnh nhân được chẩn đoán 
TBSMLT đều sẽ được chuyển đến 2 bệnh viện 
Phụ Sản lớn nhất khu vực phía Nam là Từ Dũ và 
Hùng Vương nên có thể tỷ lệ này cao hơn hẳn 
do tất cả các trường hợp TBSMLT đều sẽ tập 
trung về đây. 
Trong số những thai kỳ có con sinh sống, tỷ 
lệ của chúng tôi là 55%, cao hơn so với Wei LK 
(2018), với tỷ lệ 45,24%(9), tuy nhiên lại thấp hơn 
tỷ lệ của Ben NJ (2007) với 65%(1), Qiao W (2015) 
với 60%(8), Lufen G (2016) với 62,5%(7), điều này 
cũng có thể giải thích khi mà những trường hợp 
mang thai trong tử cung khác có thể được theo 
dõi và điều trị ở những bệnh viện khác, không 
nhất thiết phải quay lại bệnh viện Hùng Vương 
hoặc Từ Dũ nếu điều kiện và khoảng cách quá 
xa. Tuy nhiên sự chênh lệch của nghiên cứu của 
chúng tôi so với những nghiên cứu khác trên thế 
giới cũng không cao lắm, và tỷ lệ chiếm hơn 
50%, đó cũng là 1 điều đáng khích lệ nếu người 
phụ nữ thật sự muốn mang thai 1 lần nữa. 
Trong nghiên cứu, có 2 trường hợp chấm dứt 
thai kỳ với PTNK, chiếm tỷ lệ 5%, thấp hơn rất 
nhiều so với nghiên cứu Qiao Wang và cộng sự 
(2015) với 81,25% các trường hợp không muốn 
mang thai dù đã được loại trừ TBSMLT dựa vào 
siêu âm trước đó(8), thai kỳ không mong muốn 
trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 6 trường 
hợp, chiếm 15%. Nên tỷ lệ PTNK chiếm tỷ lệ rất 
thấp. Có 2 trường hợp phát hiện thai ngoài tử 
cung ở vòi trứng, với 1 trường hợp được điều trị 
MTX để bảo tồn vòi trứng và 1 trường hợp phẫu 
thuật cắt vòi trứng kèm triệt sản. 
Có 2 trường hợp sẩy thai trong 3 tháng đầu 
thai kỳ, chỉ chiếm 5% các trường hợp, thấp hơn 
so với nghiên cứu của Ben NJ (2007) với tỷ lệ sẩy 
thai là 35%(1) . Theo Lufen G (2016), có 2 trường 
hợp sẩy thai được báo cáo, chiếm 33,3%(7). Còn 
với Qiao W (2015), không có sẩy thai nào được 
báo cáo(8). Tỷ lệ sẩy thai trong ba tháng đầu thai 
kỳ thấp là một điều đáng mừng, cho thấy nếu 
thai kỳ có thai trong tử cung thì khả năng thai kỳ 
phát triển đến thai đủ tháng khá cao. 
Trong 22 trường hợp thai kỳ có con sinh ra 
và sống, 1 trường hợp sinh thường thai 37 tuần, 
1 bé trai, apgar 7/8, cân nặng 3200g 95,45% là 
được chấm dứt bằng phương pháp mổ lấy thai. 
Trong các trường hợp mổ lấy thai, 95,24% là mổ 
chủ động, chỉ có 1 trường hợp phải mổ cấp cứu 
vì thai suy lúc thai 39 tuần, được 1 bé trai, apgar 
7/8, cân nặng 3500 g, máu mất 300 ml. Khuyến 
cáo của bệnh viện đối với những trường hợp 
thai kỳ sau điều trị TBSMLT là nên được mổ lấy 
thai chủ động khi thai đủ tháng. Tỷ lệ được mổ 
lấy thai là 95,45% là hoàn toàn phù hợp. Có 1 
trường hợp có nhau bám mép, được mổ lấy thai 
chủ động lúc thai 37 tuần 2 ngày, được 01 bé trai, 
apgar 9/10, cân nặng 3200 g, máu mất 300 ml. Tất 
cả các trường hợp đều không có bất kỳ biến 
chứng nào xảy ra như băng huyết sau sanh hay 
vỡ tử cung. Mặc dù số liệu của chúng tôi không 
thể đại diện hết cho toàn bộ dân số mang thai lại 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 15
sau điều trị TBSMLT, nhưng đây cũng là 1 động 
lực để những người phụ nữ có thể yên tâm khi 
có mong muốn mang thai lại. 
Trong 22 thai kỳ có con sinh ra và sống, đa 
số các trường hợp mang thai đều đủ tháng với 
95,45% các thai kỳ lớn hơn 37 tuần, tuổi thai 
trung bình lúc chấm dứt thai kỳ là 38,2 0,9 
tuần. Chỉ có 1 trường hợp chấm dứt thai kỳ lúc 
thai 36,4 tuần, được mổ lấy thai vì vết mổ cũ, 
thiểu ối, chuyển dạ. Kết quả được 01 bé trai, 
apgar 7/8, cân nặng 2300 g, máu mất trong lúc 
phẫu thuật là 300 ml. So sánh với các nghiên cứu 
trước, dữ liệu này phù hợp với hầu hết các 
nghiên cứu hiện nay, Lufen G (2016), Qiao W 
(2015), Wei LK (2018), với tất cả các trường hợp 
đều mang thai đủ tháng sau 37 tuần(7,8,9). Cân 
nặng lớn nhất ở trẻ sinh ra là 4900 gram, nhẹ 
nhất là 2300 gram, cân nặng trung bình là 
3240,91 486,88 gram. Tất cả các trẻ sinh ra trong 
thai kỳ đều khoẻ mạnh và không cần phải gửi 
dưỡng nhi. 
Đặc điểm TBSMLT tái phát 
Một số tác giả cho rằng càng mổ lấy thai 
nhiều lần thì nguy cơ bị TBSMLT càng cao hơn 
vì tăng diện tích bề mặt sẹo(2,10), nhưng một số 
các tác giả khác không nhận thấy mối liên hệ 
này(11,12). Qua nghiên cứu của chúng tôi, có thể 
thấy có mối liên quan giữa số lần mổ lấy thai, 
TBSMLT tái phát xảy ra ở những trường hợp mổ 
lấy thai 2 lần nhiều hơn, với tiền căn mổ lấy thai 
2 lần chiếm 58,33% cao hơn so với tiền căn mổ 
lấy thai 1 lần chiếm 41,47%. Michener và cộng sự 
nhận thấy có đến 89% TBSMLT có tiền căn mổ 
lấy thai thực hiện khi chưa có chuyển dạ xảy 
ra(13). Mổ lấy thai khi đoạn dưới chưa thành lập 
dẫn đến lành sẹo kém có thể là yếu tố nguy cơ 
của TBSMLT. Phương pháp điều trị TBSMLT lần 
trước có tỷ lệ ngang nhau là 50% giữa hút thai và 
điều trị MTX, không có trường hợp nào được 
phẫu thuật cắt lọc khối thai và sửa sẹo. Đây cũng 
là 1 vấn đề đặt ra, có phải chăng những trường 
hợp điều trị bảo tồn tử cung bằng hút thai hoặc 
huỷ thai bằng MTX, vốn chỉ có mục đích lấy đi 
khối thai bám tại sẹo mổ lấy thai (SMLT) mà 
không hề can thiệp gì vào vết mổ cũ, nơi đã có 
bất thường dẫn đến TBSMLT lần trước là yếu tố 
nguy cơ của TBSMLT tái phát, trong nghiên cứu 
của Ben Nagi và cộng sự (2007), đưa ra một 
thông tin rằng những trường hợp được điều trị 
bằng phẫu thuật cắt lọc khối thai và sửa sẹo 
hiếm có nguy cơ bị TBSMLT tái phát hơn(1). Vì 
yếu tố bất lợi của lần TBSMLT trước vẫn còn tồn 
tại mà không có bất kỳ can thiệp nào khác, nên 
tỷ lệ TBSMLT tái phát của chúng tôi cao hơn so 
với nghiên cứu của Ben NJ. Cần có những 
nghiên cứu với chứng cứ mạnh hơn để tìm hiểu 
về mối liên quan giữa các phương pháp điều trị 
TBSMLT và nguy cơ TBSMLT tái phát. 
Theo khảo sát, có những trường hợp thậm 
chí không ngừa thai dẫn đến khoảng cách từ 
lần TBSMLT trước đến lần tái phát này dưới 12 
tháng chiếm 41,67%, ngắn nhất là 3 tháng 
Trong đó có đến 3 trường hợp không ngừa 
thai dẫn đến thai kỳ tiếp theo có quá sớm sau 
điều trị TBSMLT. Trong khi khuyến cáo ngừa 
thai ít nhất cũng nên là 12 tháng, qua đó chúng 
ta thấy được có 1 thiếu sót trong việc tư vấn 
phương pháp ngừa thai, thời gian ngừa thai 
cho phụ nữ ở những thai kỳ lần trước nguy cơ 
cao và việc thực hành ngừa thai. Nghiên cứu 
tuy không nêu được mối liên quan giữa 
khoảng cách 2 lần có TBSMLT, tuy nhiên cho 
thấy ở đa phần những trường hợp TBSMLT tái 
phát đều có khoảng cách giữa 2 lần ngắn hơn 
thời gian ngừa thai khuyến cáo. Cần có nghiên 
cứu lớn hơn, chứng cứ mạnh hơn xem có sự 
liên quan giữa khoảng cách 2 lần TBSMLT hay 
không? Đây là yếu tố có thể thay đổi được vì 
tỷ lệ tái phát ở nghiên cứu chúng tôi khá cao, 
đây cũng là vấn đề được quan tâm. 
Trong 12 trường hợp thai kỳ TBSMLT tái 
phát, có 11 trường hợp lúc phát hiện có tuổi thai 
≤8 tuần, chiếm đa số với 91,67%. Phát hiện trễ lúc 
tuổi thai >8 tuần chỉ có 1 trường hợp, trường hợp 
này đã phải phẫu thuật cấp cứu vì bệnh nhân 
vào viện với tình trạng xuất huyết âm đạo lượng 
nhiều, may mắn là đã bảo tồn được tử cung với 
máu mất trong lúc phẫu thuật là 300g. Tỷ lệ này 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 16
tương đồng với nghiên cứu của Qiao W (2015) 
có 4 trường hợp phát hiện trước 8 tuần chiếm 
80%, 1 trường họp phát hiện sau 8 tuần với tỷ lệ 
20%(8), qua đó cho thấy TBSMLT được chẩn đoán 
rất sớm. Điều này góp phần cho việc điều trị 
TBSMLT tái phát thành công cao và ít xảy ra 
biến chứng. Mặt khác nếu không được chẩn 
đoán sớm có thể đưa thai phụ vào tình trạng 
nguy hiểm, đòi hỏi phải can thiệp cấp cứu. Vì 
thế đối với những người phụ nữ có mong muốn 
mang thai lại, nên được tư vấn theo dõi và phát 
hiện sớm tình trạng mang thai, để có thể chẩn 
đoán sớm TBSMLT tái phát và can thiệp kịp 
thời, tránh xảy ra những biến chứng nguy hiểm. 
Phương pháp điều trị TBSMLT tái phát 
thành công bằng Foley kết hợp hút thai có 5 
trường hợp, 1 trường hợp sau đó mang thai 
trong tử cung và chấm dứt thai kỳ bằng PTNK, 
đây là trường hợp đặc biệt khi lần trước bệnh 
nhân ngừa thai bằng thuốc viên nội tiết, quên 
thuốc dẫn đến TBSMLT tái phát, sau điều trị 
TBSMLT tái phát không đi tái khám và theo dõi 
ßhCG sau xuất viện, dẫn đến việc sau đó mang 
thai lại trong tử cung ngoài ý muốn và PTNK, 
sau đó mới được ngừa thai bằng dụng cụ tử 
cung, cho thấy tư vấn cho bệnh nhân ngừa thai 
sau điều trị và theo dõi sau đó rất quan trọng, để 
hạn chế việc mang thai không mong muốn, do 
đó cần đẩy mạnh công tác ngừa thai cho những 
bệnh nhân có nguy cơ cao khi mang thai. Trong 
cả 12 trường hợp điều trị TBSMLT tái phát, 
không có trường hợp nào ghi nhận xảy ra biến 
chứng. Tất cả đều được điều trị thành công bảo 
tồn tử cung. 
Mặc dù có 3 trường hợp thất bại với điều trị 
ban đầu phải thực hiện điều trị lần 2, nhưng kết 
quả vẫn bảo tồn được tử cung, cho thấy nếu như 
có TBSMLT tái phát vẫn có tỷ lệ bảo tồn tử cung 
cao, nếu được chẩn đoán sớm. Thêm một hy 
vọng cho những người phụ nữ bị TBSMLT tái 
phát sau đó vẫn mong muốn mang thai lại. 
Hạn chế của đề tài 
Đề tài chỉ là hồi cứu, nên có thể bỏ sót rất 
nhiều trường hợp không quản lý được tình trạng 
mang thai, những trường hợp có mong muốn 
mang thai nhưng chưa mang thai hoặc vẫn đang 
trong thời gian ngừa thai. 
Do đề tài là báo cáo hàng loạt ca nên chứng 
cứ chưa mạnh. Cỡ mẫu không đủ lớn và không 
nêu được các yếu tố liên quan đến việc mang 
thai lại và TBSMLT tái phát. 
Điểm mới và ứng dụng của đề tài 
Với tỷ lệ mang thai trong tử cung khá cao 
với diễn tiến thai kỳ bình thường, con sinh ra 
khoẻ mạnh và không có bất cứ biến chứng nào 
xảy ra, mang đến niềm hy vọng rằng những phụ 
nữ đã từng bị TBSMLT được điều trị bảo tồn tử 
cung, có mong muốn mang thai lại thì là một 
điều hoàn toàn khả thi, với tỷ lệ thai kỳ thành 
công lớn hơn 50%. Mặc dù tỷ lệ thai bám SMLT 
tái phát cũng khá cao, tuy nhiên những trường 
hợp tái phát này đều được điều trị thành công 
mà không có bất kỳ biến chứng nào. 
Đề tài cũng góp phần mở đường cho những 
nghiên cứu sau này, với những phương pháp 
nghiên cứu mạnh hơn, cỡ mẫu lớn hơn về việc 
mang thai lại sau điều trị TBSMLT, góp phần 
vào những đề tài quan tâm về quản lý sau đó, về 
tương lai sản khoa của những trường hợp thai 
kỳ với biến chứng nguy hiểm đã được điều trị 
bảo tồn tử cung trước đó. 
KẾT LUẬN 
Tỷ lệ mang thai lại sau khi điều trị TBSMLT 
bảo tồn tử cung là 20% (40/200). 
Diễn tiến thai kỳ: 
Thai kỳ có con sinh sống là 55% (22/40) với 
thai kỳ đủ tháng là 95.45% (21/22). Chấm dứt 
thai kỳ bằng phương pháp MLT chiếm 95.45% 
(21/22). Có 1 trường hợp nhau bám mép. Trẻ 
sinh ra khoẻ mạnh là 100%. Không có bất kỳ 
biến chứng nào xảy ra trong thai kỳ. 
TBSMLT tái phát là 30% (12/40). Các trường 
hợp TBSMLT tái phát đều có tiền căn điều trị 
TBSMLT lần trước không phẫu thuật. Tất cả 
trường hợp tái phát điều trị thành công và 
không có biến chứng xảy ra. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 17
2 TH chấm dứt thai kỳ với PTNK: 5%. 
2 TH thai ngoài tử cung: 5%. 
2 TH sẩy thai trong 3 tháng đầu thai kỳ: 5%. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ben NJ, Helmy S, Ofili-Yebovi D, et al (2007). Reproductive 
outcomes of women with a previous history of Caesarean scar 
ectopic pregnancies. Human Reproduction, 22:2012-2015. 
2. Seow KM, Hwang L, Tsai YL (2001). Ultrasound diagnosis of a 
pregnancy in a Cesarean section scar. Ultrasound Obstet Gynecol, 
18(5):547-551. 
3. Yang XY, Yu H, Li KM, et al (2010). Uterine artery embolisation 
combined with local methotrexate for treatment of caesarean 
scar pregnancy. BJOG, 117:990-996. 
4. Trương Diễm Phượng, Trần Thị Lợi (2013). Điều trị thai ở SMLT 
tuổi thai dưới 12 tuần tại bệnh viện Từ Dũ. Y học Thành phố Hồ 
Chí Minh, 17(1):47-54. 
5. Văn Phụng Thống (2015). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận 
lâm sàng và đánh giá hiệu quả điều trị thai dưới 8 tuần bám ở 
SMLT bằng phuong pháp đặt Foley phối hợp hút thai tại bệnh 
viện Từ Dũ năm 2015. Luận văn Chuyên khoa II, Đại học Y Dược 
Cần Thơ. 
6. Bùi Đỗ Hiếu (2015). Đánh giá kết quả điều trị thai ngoài tử cung 
dưới 11 tuần bám vết mổ cũ tại bệnh viện Từ Dũ năm 2014-
2015. Luận văn Chuyên khoa II, Đại học Y khoa Phạm Ngọc 
Thạch. 
7. Lufen G, Zhongwei H, Xian Z, et al (2016). Reproductive 
outcomes following cesarean scar pregnancy – a case series and 
review of the literature. European Journal of Obstetrics and 
Gynecology and Reproductive Biology, 200:102-107. 
8. Qiao W, Hong-Ling P, Lei H, et al (2015). Reproductive 
outcomes after previous cesarean scar pregnancy:Follow up of 
189 women. Taiwanese Journal of Obstetrics and Gynecology, 
54:551-553. 
9. Wei LK, Yu LM, Mu RM, et al (2018). Reproductive outcomes 
following women with previous cesarean scar pregnancy. 
Zhonghua Yi Xue Za Zhi, 98:2194-2197. 
10. Staton CK, Holtz SA, et al (2006). Levels and Trends in Cesarean 
Birth in the Developing World. Studies in Family Planning,37:41-
48. 
11. Chuang J, Kok-Min S, Chang WC, Tsai YL, Hwang JL (2003). 
Conservative treatment of ectopic pregnancy in a caesarean 
section scar. International Journal of Obstetrics and Gynaecology, 
110(9):869-870. 
12. Maymon R, Halperin R, et al (2004). Etopic pregnancies in a 
caesarean scar: review of the medical approach to an iatrogenic 
complication. Hum Report Update, 10:515-523. 
13. Michener C, Dickinson JE (2009). Caesarean scar ectopic 
pregnancy: A single centre case series. Autralian and New Zealand 
Journal of Ostetrics and Gynecology,49:451-455. 
Ngày nhận bài báo: 10/11/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 06/02/2021 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_mang_thai_o_nhung_truong_hop_sau_dieu_tri_thai_bam.pdf