Đặc điểm lâm sàng và tình trạng kháng thể kháng Glutamic Acid Decarboxylase ở bệnh nhân đái tháo đường không thừa cân, béo phì

Mục tiêu: Đánh giá một số đặc điểm lâm

sàng và tình trạng kháng thể kháng GAD ở

bệnh nhân ĐTĐ không thừa cân, béo phì.

Phương pháp và đối tượng nghiên cứu:

Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 284 bệnh

nhân ĐTĐ không thừa cân, béo phì tại BVTW

Huế tháng 08/2017 đến tháng 8/2019. Tất cả

bệnh nhân được tiến hành định lượng kháng

thể kháng GAD. Khi nồng độ kháng thể

kháng Glutamic Acid Decarbovylase (GAD)

≥ 5IU/mL được xem là dương tính. Nhóm

bệnh nhân nghiên cứu được tiến hành lấy các

thông số về tuổi, giới tính, cân nặng, chiều

cao. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0.

Kết quả: Tuổi trung bình ở nhóm có kháng

thể kháng GAD dương tính thấp hơn nhóm

âm tính: 60,27±16,57 (tuổi) so với

66,86±14,32 (tuổi), p<0,05. ở="" nhóm="">

nhân ĐTĐ có kháng thể kháng GAD dương

tính: nữ giới chiếm 40,91%; nam giới chiếm

59,09%. Trong nhóm <40 tuổi,="" tỷ="" lệ="">

nhân có kháng thể kháng GAD dương tính là

cao nhất (16,67%), tiếp theo là nhóm 40- 59

tuổi (11,11%); 60- 74 tuổi (7,44%) và ≥ 75

tuổi (4,4%). Kết luận: Bệnh nhân ĐTĐ

không thừa cân, béo phì có tình trạng kháng

thể kháng GAD dương tính giảm dần theo tuổi.

pdf 6 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm lâm sàng và tình trạng kháng thể kháng Glutamic Acid Decarboxylase ở bệnh nhân đái tháo đường không thừa cân, béo phì", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm lâm sàng và tình trạng kháng thể kháng Glutamic Acid Decarboxylase ở bệnh nhân đái tháo đường không thừa cân, béo phì

Đặc điểm lâm sàng và tình trạng kháng thể kháng Glutamic Acid Decarboxylase ở bệnh nhân đái tháo đường không thừa cân, béo phì
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
38 
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ TÌNH TRẠNG 
KHÁNG THỂ KHÁNG GLUTAMIC ACID DECARBOXYLASE 
Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG KHÔNG THỪA CÂN, BÉO PHÌ 
Trần Thừa Nguyên 
Bệnh viện Trung ương Huế 
ABSTRACT 
Clinical characteristics and glutamic 
acid decarboxylase (GAD) antibody 
levels in non- overweight/ obesediabetic 
patients 
Objective: To evaluate some of clinical 
characteristics and glutamic acid 
decarboxylase (GAD) antibody levels in non- 
overweight/obese patients with diabetes. 
Method: A cross-sectional study on 284 non 
overweight/obesediabetic patients at Hue 
Central Hospital from August, 2017 to 
August, 2019. All patients were measured 
autoantibodies glutamic acid decarboxylase 
(anti-GAD). GAD antibody- positive was 
determined when autoantibodies to GAD 
concentration was higher than 5 IU/mL. 
Clinical data (age, sex, weight, hight) were 
obtained. Data were analysed by SPSS 
version 16.0. Results: In non 
overweight/obese diabetic patients with GAD 
antibody- positive, the average age was 60.27 
± 16.57 year, lower than in GAD antibody- 
negative patients group (66.86 ±14.32 year), 
p<0.05. In diabetic patient group with GAD- 
antibody positive , women accounted for 
40.91% and men accounted for 59.09%. The 
percentage of GAD-antibody positive in 
patients aged 35 years and older were 
distributed as follows: aged 40 and younger: 
16.67%; ages 40 to 59: 11.11%; ages 60 to 
74: 7.44%; and aged 75 and older: 4.4%; 
Conclusion: In non overweight/obese 
diabetic patients, GAD-antibody positive 
condition is descending with age 
Key words: autoantibodies glutamic acid 
decarboxylase (anti-GAD), diabetic patient, 
non- overweight/ obese, age at the time 
of diabetes diagnosis 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá một số đặc điểm lâm 
sàng và tình trạng kháng thể kháng GAD ở 
bệnh nhân ĐTĐ không thừa cân, béo phì. 
Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 284 bệnh 
nhân ĐTĐ không thừa cân, béo phì tại BVTW 
Huế tháng 08/2017 đến tháng 8/2019. Tất cả 
bệnh nhân được tiến hành định lượng kháng 
thể kháng GAD. Khi nồng độ kháng thể 
kháng Glutamic Acid Decarbovylase (GAD) 
≥ 5IU/mL được xem là dương tính. Nhóm 
bệnh nhân nghiên cứu được tiến hành lấy các 
thông số về tuổi, giới tính, cân nặng, chiều 
cao. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0. 
Kết quả: Tuổi trung bình ở nhóm có kháng 
thể kháng GAD dương tính thấp hơn nhóm 
âm tính: 60,27±16,57 (tuổi) so với 
66,86±14,32 (tuổi), p<0,05. Ở nhóm bệnh 
nhân ĐTĐ có kháng thể kháng GAD dương 
tính: nữ giới chiếm 40,91%; nam giới chiếm 
59,09%. Trong nhóm <40 tuổi, tỷ lệ bệnh 
nhân có kháng thể kháng GAD dương tính là 
cao nhất (16,67%), tiếp theo là nhóm 40- 59 
tuổi (11,11%); 60- 74 tuổi (7,44%) và ≥ 75 
tuổi (4,4%). Kết luận: Bệnh nhân ĐTĐ 
không thừa cân, béo phì có tình trạng kháng 
thể kháng GAD dương tính giảm dần theo 
tuổi. 
Từ khóa: Kháng thể kháng Glutamic Acid 
Decarbovylase (GAD), đái tháo đường, không 
thừa cân- béo phì. 
“Đây là kết quả của đề tài KHCN cấp 
tỉnh được ngân sách nhà nước tỉnh Thừa 
Thiên Huế đầu tư”. Chúng tôi xin trân 
trọng cảm ơn sự hỗ trợ này! 
Chịu trách nhiệm chính: Trần Thừa 
Nguyên 
Ngày nhận bài: 10/11/2019 
Ngày phản biện khoa học: 20/12/2019 
Ngày duyệt bài: 31/12/2019 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
39 
2 2 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nhiều dữ liệu nghiên cứu về dịch tễ học 
cho thấy đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân 
ĐTĐ ở châu Á, châu Phi và Ấn Độ khác với 
phương Tây: nhiều bệnh nhân ĐTĐ týp 2 tại 
các vùng nhiệt đới là không béo phì. Tại Ấn 
Độ 80% bệnh nhân ĐTĐ týp 2 là không béo, 
mặc khác ở phương Tây 60- 80% bệnh nhân 
ĐTĐ týp 2 là béo phì[2]. 
Nhiều bệnh nhân đái tháo đường týp 2 lúc 
đầu đáp ứng tốt với điều trị thuốc viên như 
nhóm Sulfonylureas, Metformin, phối hợp 
với chế độ ăn kiêng, tập thể dục nhưng về sau 
dần dần chuyển sang phụ thuộc insulin một 
phần cho đến hoàn toàn. Theo UKPDS, 
nghiên cứu đái tháo đường týp 2 sau 6 năm 
theo dõi điều trị có 30% bệnh nhân dùng 
Sulfonylureas và 22% bệnh nhân dùng 
Metformin chuyển sang cần insulin liên quan 
sự suy nhanh chóng chức năng tế bào β tuyến 
tụy do giảm khối lượng tế bào β, nhiễm độc 
glucose, nhiễm độc lipid, lắng đọng amyloid 
trong tuyến tụy hay có cơ chế bệnh sinh qua 
trung gian miễn dịch với sự hiện diện của 
kháng thể kháng đảo tụy (ICA) và kháng thể 
kháng GAD (Glutamic acid decarboxylase) 
[3], [4]. 
Kháng thể kháng glutamic acid 
decarboxylase (GAD) là chỉ điểm phá hủy tế 
bào beta qua cơ chế miễn dịch trong trong cơ 
chế bệnh sinh của đái tháo đường týp 1, là dự 
báo mạnh mẽ cho đái tháo đường týp 1. 
Kháng thể kháng GAD hoàn toàn tồn tại sau 
10-15 năm bị bệnh đái tháo đường tự miễn. 
Tuy nhiên một tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường 
týp 2 lại xuất hiện kháng thể kháng GAD và 
nhiều bệnh nhân đái tháo đường týp 2 lại 
không thể điều trị bằng thuốc hạ đường huyết 
uống mà phải chuyển sang dùng insulin [11]. 
Mục tiêu: Đánh giá một số đặc điểm lâm 
sàng và tình trạng kháng thể kháng GAD ở 
bệnh nhân ĐTĐ không thừa cân, béo phì. 
2. PHƯƠNG PHÁP VÀ ĐỐI TƯỢNG 
NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Những bệnh 
nhân đái tháo đường tuổi trên 35, không thừa 
cân béo phì (BMI < 23 vào thời điểm được 
chọn vào nghiên cứu) tại khoa Nội Tổng hợp 
- Lão khoa và khoa Nội Nội tiết - Thần kinh - 
Hô hấp, Bệnh viện Trung ương Huế, từ tháng 
08/2017 đến tháng 08/2019. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh: Bệnh nhân đủ các 
điều kiện sau: 
- Đái tháo đường được chẩn đoán theo tiêu 
chuẩn của Hội Nội tiết và Đái tháo đường 
Việt Nam (2016) [5]. 
- BMI < 23 (thể trọng không thừa cân, béo 
phì) 
- Tuổi phát hiện bệnh ≥ 35 tuổi. 
Tiêu chuẩn loại trừ: 
Không đưa vào nghiên cứu những bệnh 
nhân ĐTĐ có kèm theo: 
- Tuổi khởi phát bệnh < 35 tuổi. 
- BMI ≥ 23. 
- Có tiền sử bị ĐTĐ thai kỳ 
2.2. Phương pháp nghiên cứu: Đây là 
phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, với 
cách chọn mẫu thuận tiện. 
- Tất cả bệnh nhân đều được tiến hành lấy 
các thông số về tuổi, giới tính, cân nặng, 
chiều cao, tuổi phát hiện bệnh. 
- Định lượng kháng thể kháng GAD bằng 
máy phân tích ELISA tại khoa Sinh Hóa, 
Bệnh viện Trung ương Huế. 
Bảng 2.1. Giá trị tham khảo kháng thể kháng GAD*: 
Giá trị kháng thể kháng GAD ( IU/mL ) Kết quả 
<5,0 Âm tính 
≥5,0 Dương tính 
* Mỗi phòng thí nghiệm nên thiết lập một giá trị tham khảo riêng. 
- Tính chỉ số BMI: 
BMI = 
 Cân năng (kg) 
(Chiều cao) (m ) 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
40 
Bảng 2.2. Phân loại BMI theo chỉ số cơ thể (BMI) của WHO 2000, 
áp dụng cho Châu Á [5] 
Xếp loại BMI 
Gầy < 18,5 
Bình thường 18,5- 22,9 
Thừa cân 23- 24,9 
Béo phì độ 1 25-29,9 
Béo phì độ 2 ≥ 30 
- Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0 và Medcalc. 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Bảng 3.1. Mối liên quan giữa tình trạng kháng thể kháng GAD ở bệnh nhân ĐTĐ 
không thừa cân béo phì với giới tính 
Tiêu chí 
Tình trạng kháng thể kháng GAD 
p Âm tính 
(n=262) 
Dương tính 
(n=22) 
Giới tính 
Nữ 
(n=158) 
n 149 9 
<0,05 
% 56,87 40,91 
Nam 
(n=126) 
n 113 3 
% 43,13 59,09 
Nhận xét: Ở nhóm bệnh nhân kháng thể kháng GAD dương tính, tỷ lệ bệnh nhân nam giới 
cao hơn so với ở nữ giới (59,09% so với 40,91%). Phân bố tình trạng kháng thể kháng GAD theo 
giới tính khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). 
Bảng 3.2. Mối liên quan giữa tình trạng kháng thể kháng GAD ở bệnh nhân ĐTĐ 
không thừa cân béo phì với nhóm tuổi 
Tiêu chí 
Tình trạng kháng thể kháng GAD 
p Âm tính 
(n=262) 
Dương tính 
(n=22) 
Nhóm tuổi 
<40 tuổi 
(n=18) 
n 15 3 
>0,05 
% 83,33 16,67 
40- 59 tuổi 
(n=54) 
n 48 6 
% 88,89 11,11 
60- 74 tuổi 
(n=121) 
n 112 9 
% 92,56 7,44 
≥ 75 tuổi 
(n=91) 
n 87 4 
% 95,6 4,4 
Nhận xét: Trong nhóm <40 tuổi, tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể kháng GAD dương tính là cao 
nhất (16,67%), tiếp theo là nhóm 40- 59 tuổi; 60- 74 tuổi. Phân bố tình trạng kháng thể kháng 
GAD theo nhóm tuổi khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
41 
Bảng 3.3. So sánh về tuổi giữa hai nhóm bệnh nhân ĐTĐ có kháng thể kháng GAD 
dương tính và âm tính 
Tiêu chí 
Tình trạng kháng thể kháng GAD 
p Âm tính 
(n=262) 
Dương tính 
(n=22) 
Tuổi (năm) 66,86±14,32 60,27±16,57 <0,05 
Nhận xét: Tuổi trung bình ở nhóm bệnh nhân có kháng thể kháng GAD dương tính cao hơn 
so với nhóm âm tính: 66,86±14,32 (tuổi) so với 60,27±16,57 (tuổi), sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (p<0,05). 
4. BÀN LUẬN 
4.1. Đánh giá đặc điểm về giới tính với 
tình trạng kháng thể kháng GAD ở bệnh 
nhân ĐTĐ không thừa cân béo phì 
Theo kết quả Bảng 3.1, ở nhóm bệnh nhân 
ĐTĐ có kháng thể kháng GAD dương tính 
của chúng tôi thì nữ giới chiếm tỷ lệ 40,91%. 
Trong khi đó, nhóm kháng thể kháng GAD 
âm tính thì nữ giới chiếm 56,87%. Kết quả 
này có sự khác biệt với nghiên cứu của một số 
tác giả ở Việt Nam và trên thế giới: 
- Theo Nguyễn Thị Thu Mai [9]: có sự 
khác biệt giới tính rõ rệt trong hai nhóm có 
kháng thể kháng GAD dương tính và âm tính. 
Nhóm có kháng thể kháng GAD dương tính 
thì nữ chiếm tỷ lệ cao 83,33%. Trong khi đó 
nhóm có kháng thể kháng GAD âm tính thì tỷ 
lệ nam/ nữ gần ngang nhau, nữ chiếm 51,6 %. 
- Nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Anh [1]: 
Nhóm có kháng thể kháng GAD dương tính 
thì nam giới chiếm tỷ lệ 52,38%, nữ- 47,62%; 
Nhóm có kháng thể kháng GAD âm tính, các 
tỷ lệ này lần lượt là 45,45% đối với nam và 
54,55% đối với nữ. 
- Nghiên cứu của Trần Quang Khánh [7]: 
Nhóm có kháng thể kháng GAD dương tính 
thì nam giới chiếm tỷ lệ 40%, nữ- 60%; 
Nhóm có kháng thể kháng GAD âm tính, các 
tỷ lệ này lần lượt là 32,6% đối với nam và 
67,4% đối với nữ. 
- Nghiên cứu của Römkens và cộng sự, 
nghiên cứu trên 224 bệnh nhân đái tháo 
đường týp 2 ở bệnh viện Jeroen Bosch - Hà 
Lan. Trong 26 bệnh nhân có kháng thể kháng 
GAD dương tính thì tỷ lệ nam chiếm tới 73% 
và nữ chiếm 27%. Như vậy, tuy tỷ lệ mắc 
bệnh ĐTĐ là tương đương giữa nam và nữ 
nhưng người nam lại dễ xuất hiện các kháng 
thể tự miễn như kháng thể kháng GAD-65 
hơn so với người nữ. Điều này có thể do cơ 
địa của nam và nữ khác nhau cũng như lối 
sống, thói quen sinh hoạt của nam khác so với 
nữ, nam có những yếu tố làm dễ sinh tự 
kháng thể miễn dịch của bệnh ĐTĐ. Do đó 
bệnh nhân nam mắc ĐTĐ sẽ có nguy cơ tiến 
triển thành phụ thuộc insulin cao hơn so với 
bệnh nhân nữ[10]. 
Tuy nhiên phần lớn các nghiên cứu khác ở 
châu Á và các nơi khác thì không có sự khác 
biệt giới tính [8]. Theo các tác giả này tỷ lệ 
nam nữ trong hai nhóm có kháng thể kháng 
GAD dương tính và âm tính khác biệt không 
có ý nghĩa thống kê. 
Lý do có thể do mẫu nghiên cứu của 
chúng tôi tỷ lệ nữ nhiều hơn nam. Tỷ lệ 
nữ/nam trong mẫu của chúng tôi là 1/1,3. Như 
vậy, do số lượng cỡ mẫu bị hạn chế dẫn đến 
kết quả chưa có mối liên quan giữa nồng độ 
kháng thể kháng GAD-65 với giới tính nhưng 
dựa vào thống kê mô tả, chúng ta đã có thể 
thấy có sự chênh lệch giới tính với tỷ lệ xuất 
hiện kháng thể kháng GAD 
4.2. Đánh giá đặc điểm về tuổi với tình 
trạng kháng thể kháng GAD ở bệnh nhân 
ĐTĐ không thừa cân béo phì 
Theo kết quả bảng 3.3, tuổi trung bình 
trong nhóm bệnh nhân ĐTĐ không thừa cân, 
béo phì có kháng thể kháng GAD dương tính 
của chúng tôi là 60,27 ± 16,57, trong khi ở 
nhóm kháng thể kháng GAD âm tính là 66,86 
± 14,32. 
So sánh với một số tác giả, tuổi trung bình 
ở nhóm bệnh nhân có kháng thể kháng GAD 
dương tính của chúng tôi tương đương với tác 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
42 
giả Nguyễn Thị Thu Mai [9] là 59,57 ± 13,45; 
nhưng cao hơn kết quả của Britten AC và 
cộng sự [2] là 55 (46- 73); của Kim C.S và 
cộng sự [8] là 42,1 ± 9,5; của Trần Quang 
Khánh [7] là 55,8 ± 12,9. Ngược lại, tuổi 
trung bình ở nhóm bệnh nhân có kháng thể 
kháng GAD âm tính của chúng tôi cao hơn 
các tác giả Nguyễn Thị Thu Mai [9] là 55,34 
± 13,66; của Britten AC và cộng sự [2] là 55 
(31- 89); của Kim C.S và cộng sự [8] là 47,7 
± 9,6; của Trần Quang Khánh [7] 55,4 ± 11,4. 
Kết quả trên cho thấy tuổi trung bình của 
những bệnh nhân ĐTĐ có kháng thể kháng 
GAD dương tính là tương đối cao. 
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Anh 
[1] ghi nhận được: cả 2 trường hợp dưới 45 
tuổi dương tính với kháng thể kháng GAD-65 
(chiếm 100%), tiếp theo là độ tuổi trên 60 
(56,52%) và cuối cùng là độ tuổi từ 45- 60 
(33,33%). Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra 
rằng có mối liên quan giữa kháng thể kháng 
GAD-65 dương tính với các độ tuổi (p<0,05). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.2), 
tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể kháng GAD 
dương tính cao nhất là nhóm < 40 tuổi 
(16,67%), cũng tương tự nhận xét của tác giả 
Nguyễn Tuấn Anh [1], tuy nhiên giá trị tỷ lệ ở 
các nhóm tuổi thì thấp hơn nhiều. 
Bên cạnh đó, chúng tôi ghi nhận 13 bệnh 
nhân cao tuổi dương tính với kháng thể kháng 
GAD (13/22= 59,09%), đây chính là những 
bệnh nhân ĐTĐ thể LADA. Vì là một nghiên 
cứu mô tả cắt ngang có theo dõi trong thời 
gian ngắn nên chúng tôi cũng không thể biết 
được chính xác là sau bao nhiêu năm kể từ 
khi mắc bệnh ĐTĐ bệnh nhân đã xuất hiện 
kháng thể tự miễn GAD trong máu. Theo 
nghiên cứu của nhiều tác giả bệnh nhân ĐTĐ 
týp 2 có sự hiện diện của kháng thể tự miễn 
thì trong vòng 5-7 năm sau sẽ chuyển sang 
thể ĐTĐ tự miễn, phụ thuộc insulin. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương 
đồng với kết quả nghiên cứu của tác giả 
Kawasaki (2014) trên một nhóm 41 bệnh 
nhân khởi phát ĐTĐ dưới 45 tuổi tại Bệnh 
viện Harbor, Nagasaki, Nhật Bản cho thấy có 
tỷ lệ kháng thể kháng GAD dương tính là 
83%. Cũng trong nghiên cứu này, 61 bệnh 
nhân lớn tuổi khởi phát bệnh ĐTĐ týp 1 có 
80% bệnh nhân dương tính với kháng thể 
kháng GAD[6]. 
Như vậy, không chỉ những bệnh nhân 
ĐTĐ nhỏ tuổi mới có nguy cơ cao phụ thuộc 
insulin mà chính là sự hiện diện của các tự 
kháng thể miễn dịch trong máu bệnh nhân 
ĐTĐ cũng là một yếu tố nguy cơ đáng kể. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm đối 
tượng nghiên cứu có độ tuổi trung bình là 
66,35 ± 14,58. Mặc dù số lượng bệnh nhân có 
độ tuổi dưới 45 rất thấp song cũng đã phản 
ánh được nguy cơ cao mắc bệnh ĐTĐ tự miễn 
ở người trẻ. 
5. KẾT LUẬN 
Tiến hành nghiên cứu trên 284 bệnh nhân 
ĐTĐ không thừa cân, béo phì, chúng tôi có 
một số nhận xét: 
- Tuổi trung bình ở nhóm có kháng thể 
kháng GAD dương tính thấp hơn nhóm âm 
tính: 60,27±16,57 (tuổi) so với 66,86±14,32 
(tuổi), p<0,05. 
- Ở nhóm bệnh nhân ĐTĐ có kháng thể 
kháng GAD dương tính: nữ giới chiếm 
40,91%; nam giới chiếm 59,09%. Trong 
nhóm <40 tuổi, tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể 
kháng GAD dương tính là cao nhất (16,67%), 
tiếp theo là nhóm 40- 59 tuổi (11,11%); 60- 
74 tuổi (7,44%) và ≥ 75 tuổi (4,4%). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Tuấn Anh (2015), Nghiên cứu 
nồng độ tự kháng thể kháng Glutamic 
Acid Decarboxylase (GAD-65) và kháng 
insulin (IAA) trên bệnh nhân đái tháo 
đường thể trạng gầy, Luận văn Thạc sĩ Y 
học, Trường Đại học Y Dược Huế. 
2. Britten AC, Jones K, Törn C, Hillman M, 
Ekholm B, Kumar S, Barnett AH, Kelly 
MA (2007), "Latent autoimmune diabetes 
in adults in a South Asian population of 
the UK", Diabetes Care, 30(12), pp. 
3088-90. 
3. Davis T.M.E., Zimmet P., et al. (2000), 
“Islet autoantibodies in clinically 
diagnosed type 2 diabetes: prevalence and 
relationship with metabolic control 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 37 - Năm 2019 
43 
(UKPDS 70)”, Diabetologia, 48(4), 
pp.695- 702. 
4. Fourlanos S., C. Perry, M.S. Stein, J. 
Stankovich, L.C. Harrison, P.G. Colman 
(2006), “Clinical screening tool identifies 
autoimmune diabetes in adults", Diabetes 
Care, 29, pp.970–975. 
5. Hội Nội tiết & Đái tháo đường Việt Nam 
(2016), Khuyến cáo về bệnh nội tiết và 
chuyển hóa, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. 
6. Kawasaki Eiji (2014), “Type 1 Diabetes 
and Autoimmunity”, Clin Pediatr 
Endocrinol, 23(4), pp. 99-105. 
7. Trần Quang Khánh (2010), Tỷ lệ kháng 
thể kháng Glutamic Acid Decarboxylase 
và kháng tiểu đảo tụy trên bệnh nhân đái 
tháo đường týp 2, Luận án Tiến sĩ Y học, 
Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ 
Chí Minh 
8. Kim C.S., et al (2006), "Clinical and 
biochemical characteristics of nonobese 
type 2 diabetic patients with glutamic 
acid decarboxylase antibody in Korea", 
Metabolism Clinical and Experimental, 
55, pp.1107– 1112], 
9. Nguyễn Thị Thu Mai (2010), Nghiên cứu 
một số đặc điểm lâm sàng, kháng thể 
kháng GAD và điều trị ở bệnh nhân đái 
tháo đường có BMI < 23, Luận văn Thạc 
sĩ Y học, Trường Đại học Y Dược Huế. 
10. Römkens TE, Kusters GC, Netea MG, 
Netten PM (2006), “Prevalence and 
clinical characteristics of insulin-treated, 
anti-GAD-positive, type 2 diabetic 
subjects in an outpatient clinical 
department of a Dutch teaching hospital”, 
Neth J Med, 64(4), pp.114-8 
11. Turner C., Stratton I., et al. (1997), 
“Autoantibodies to islet-cell cytoplasm 
and glutamic acid decarboxylase for 
prediction of insulin requirement in type 
2 diabetes. UK Prospective Diabetes 
Study Group (UKPDS 25)”, Lancet, 
350(9087), pp. 1288- 1293. 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_lam_sang_va_tinh_trang_khang_the_khang_glutamic_aci.pdf