Đặc điểm lâm sàng và điện thần kinh cơ ở bệnh nhân mắc hội chứng Guillain-Barré ở hai Bệnh viện Quân đội miền Bắc Việt Nam

Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và điện thần kinh cơ của bệnh nhân (BN) mắc hội

chứng Guillain-Barré. Đối tượng và phương pháp: Mô tả cắt ngang đặc điểm lâm sàng và kết

quả điện thần kinh cơ ở BN được chẩn đoán mắc hội chứng Guillain-Barré tại Khoa Nội Thần

kinh của hai bệnh viện quân đội ở miền Bắc Việt Nam. Kết quả: Thể hủy myelin cấp tính chiếm

tỷ lệ cao nhất (75,3%). Nhiễm trùng đường hô hấp là yếu tố tiền nhiễm phổ biến nhất (34,4%) ở

BN thể hủy myelin. 51,6% BN thể hủy myelin bắt đầu bằng triệu chứng cảm giác, trong khi đó

hầu hết BN thể hủy sợi trục bắt đầu bằng triệu chứng vận động (66,6%). Hầu hết BN mắc hội

chứng Guillain-Barré có triệu chứng đau tại thời điểm nhập viện. Ở cả hai thể của hội chứng

Guillain-Barré, phổ biến nhất là liệt một hoặc nhiều hơn các dây thần kinh vận nhãn (III, IV, VI),

trong đó liệt dây thần kinh số VII chỉ chiếm 7,8 - 13,3%. Điểm Hughes tại thời điểm nhập viện

của thể hủy myelin (3,39 ± 0,85) thấp hơn đáng kể so với thể hủy sợi trục (3,93 ± 0,59). Trong

số các biến thể khác, tại thời điểm nhập viện, 16,5% BN có kết quả xét nghiệm dịch não tủy (DNT)

bình thường. Bất thường trên điện thần kinh cơ phổ biến nhất là phản xạ H (91,8%) và các bất

thường về chỉ số dẫn truyền cảm giác, vận động. Kết luận: Hội chứng Guillain-Barré gặp ở hầu

hết các lứa tuổi. Triệu chứng lâm sàng rất đa dạng và phong phú, triệu chứng và xét nghiệm

tùy thuộc vào các biến thể. Thể hủy sợi trục ảnh hưởng đến chức năng nhiều hơn thể hủy

myelin. Hầu hết BN đều có bất thường về các chỉ số dẫn truyền thần kinh, phổ biến nhất là

phản xạ H (91,8%).

pdf 9 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm lâm sàng và điện thần kinh cơ ở bệnh nhân mắc hội chứng Guillain-Barré ở hai Bệnh viện Quân đội miền Bắc Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm lâm sàng và điện thần kinh cơ ở bệnh nhân mắc hội chứng Guillain-Barré ở hai Bệnh viện Quân đội miền Bắc Việt Nam

Đặc điểm lâm sàng và điện thần kinh cơ ở bệnh nhân mắc hội chứng Guillain-Barré ở hai Bệnh viện Quân đội miền Bắc Việt Nam
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 33 
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ ĐIỆN THẦN KINH CƠ Ở BỆNH NHÂN 
MẮC HỘI CHỨNG GUILLAIN-BARRÉ Ở HAI BỆNH VIỆN 
QUÂN ĐỘI MIỀN BẮC VIỆT NAM 
 Phan Việt Nga1, Nguyễn Minh Đức2 
 Nguyễn Mạnh Tuyên1, Lê Trung Đức1 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và điện thần kinh cơ của bệnh nhân (BN) mắc hội 
chứng Guillain-Barré. Đối tượng và phương pháp: Mô tả cắt ngang đặc điểm lâm sàng và kết 
quả điện thần kinh cơ ở BN được chẩn đoán mắc hội chứng Guillain-Barré tại Khoa Nội Thần 
kinh của hai bệnh viện quân đội ở miền Bắc Việt Nam. Kết quả: Thể hủy myelin cấp tính chiếm 
tỷ lệ cao nhất (75,3%). Nhiễm trùng đường hô hấp là yếu tố tiền nhiễm phổ biến nhất (34,4%) ở 
BN thể hủy myelin. 51,6% BN thể hủy myelin bắt đầu bằng triệu chứng cảm giác, trong khi đó 
hầu hết BN thể hủy sợi trục bắt đầu bằng triệu chứng vận động (66,6%). Hầu hết BN mắc hội 
chứng Guillain-Barré có triệu chứng đau tại thời điểm nhập viện. Ở cả hai thể của hội chứng 
Guillain-Barré, phổ biến nhất là liệt một hoặc nhiều hơn các dây thần kinh vận nhãn (III, IV, VI), 
trong đó liệt dây thần kinh số VII chỉ chiếm 7,8 - 13,3%. Điểm Hughes tại thời điểm nhập viện 
của thể hủy myelin (3,39 ± 0,85) thấp hơn đáng kể so với thể hủy sợi trục (3,93 ± 0,59). Trong 
số các biến thể khác, tại thời điểm nhập viện, 16,5% BN có kết quả xét nghiệm dịch não tủy (DNT) 
bình thường. Bất thường trên điện thần kinh cơ phổ biến nhất là phản xạ H (91,8%) và các bất 
thường về chỉ số dẫn truyền cảm giác, vận động. Kết luận: Hội chứng Guillain-Barré gặp ở hầu 
hết các lứa tuổi. Triệu chứng lâm sàng rất đa dạng và phong phú, triệu chứng và xét nghiệm 
tùy thuộc vào các biến thể. Thể hủy sợi trục ảnh hưởng đến chức năng nhiều hơn thể hủy 
myelin. Hầu hết BN đều có bất thường về các chỉ số dẫn truyền thần kinh, phổ biến nhất là 
phản xạ H (91,8%). 
* Từ khóa: Hội chứng Guillain-Barré; Điện thần kinh cơ. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hội chứng Guillain-Barré là bệnh lý 
hiếm gặp, trong đó hệ thống miễn dịch 
của cơ thể tấn công các dây và rễ thần 
kinh gây ra các triệu chứng lâm sàng. 
Gần đây, hội chứng Guillain-Barré không 
còn được xem như một rối loạn đơn độc 
và không còn đồng nghĩa với bệnh đa rễ 
dây thần kinh mất myelin do viêm cấp tính 
mà chúng được mở rộng như một hội chứng 
đa thể với các biểu hiện lâm sàng giống 
và khác nhau liên quan với các biểu hiện 
điện sinh lý và giải phẫu bệnh. Chính sự 
xuất hiện ngày càng đa dạng các biến thể 
của hội chứng Guillain-Barré, cùng với tính 
chất phức tạp của các triệu chứng khiến 
chúng không đồng nhất và có sự đan xen 
chồng lấn giữa các biến thể với nhau 
càng làm cho việc chẩn đoán trở nên 
khó khăn hơn. Ngoài ra, sự khác nhau về 
1. Bệnh viện Quân y 103 
2. Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 
Người phản hồi (Corresponding author): Phan Việt Nga ([email protected]) 
Ngày nhận bài: 07/02/2020; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 18/02/2020 
 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2020 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 34 
phân bố địa lý của các biến thể của hội 
chứng Guillain-Barré cũng đã được ghi 
nhận, báo cáo trong một số nghiên cứu 
[1]. Chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu 
mô tả trên một nhóm BN mắc hội chứng 
Guillain-Barré lớn hơn tại Khoa Thần kinh 
của hai bệnh viện quân đội ở miền Bắc 
Việt Nam để xác định rõ hơn các đặc 
điểm lâm sàng và cận lâm sàng của 
những BN này. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu 
85 BN mắc hội chứng Guillain-Barré 
được chẩn đoán và điều trị ở Khoa Nội 
Thần kinh, Bệnh viện TWQĐ 108 và Khoa 
Nội Thần kinh, Bệnh viện Quân y 103 từ 
2009 - 2019. BN mắc hội chứng Guillain-
Barré được chẩn đoán dựa trên tiêu 
chuẩn của Asbury A.K. và CS (1990) [2]. 
Tiêu chuẩn loại trừ: Liệt chu kỳ, viêm 
tủy, nhược cơ, bệnh porphyrin cấp tính, 
bán cấp tính (> 4 tuần) hoặc các trường 
hợp bị liệt kéo dài. 
BN được phân loại thành các biến thể 
khác nhau gồm: Thể hủy myelin cấp tính, 
thể hủy sợi trục cấp tính, Miller-Fisher và 
biến thể khác tùy thuộc vào đặc điểm 
tương ứng của điện thần kinh cơ. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
Tất cả trường hợp được thực hiện 
chẩn đoán điện bởi các bác sỹ thần kinh 
với các tiêu chuẩn chẩn đoán của thể hủy 
myelin và thể hủy sợi trục. Nghiên cứu 
dẫn truyền thần kinh được thực hiện ít 
nhất trên 3 dây thần kinh vận động và 
3 dây thần kinh cảm giác. Chẩn đoán điện 
được thực hiện lại ít nhất một lần đối với 
các trường hợp khó phân loại các biến 
thể lâm sàng hoặc ở giai đoạn đầu của 
bệnh khi các tiêu chuẩn chẩn đoán không 
đầy đủ. 
Dữ liệu thu thập gồm: Tuổi, giới, yếu tố 
tiền nhiễm, thời gian khởi phát, triệu chứng 
khởi phát, triệu chứng vận động, triệu chứng 
cảm giác, liệt dây thần kinh sọ não, điểm 
sức cơ, điểm Hughes và đặc điểm biến 
đổi DNT, chẩn đoán điện. Các chỉ số dẫn 
truyền được đánh giá một cách nhất quán 
để xác định những biến đổi thường gặp 
nhất của các chỉ số dẫn truyền thần kinh 
khi nhập viện. 
Đánh giá yếu cơ dựa vào điểm sức cơ 
(từ 0 - 5). 
Đánh giá mức độ tàn tật dựa trên 
thang điểm tàn tật Hughes [3]. 
* Xử lý số liệu: Bằng thuật toán thống 
kê, sử dụng thử nghiệm t để so sánh trung 
bình các biến định lượng, kết quả có ý nghĩa 
khi p < 0,05 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu trên 85 BN, thể hủy myelin 
cấp tính chiếm 75,3%, thể hủy sợi trục 17,6% 
(p < 0,05). Ngoài ra, có 6 BN với các biến thể 
khác không phổ biến (5 BN thể Miller-Fisher, 
1 BN thể đơn thuần cảm giác, vì BN ở các 
biến thể này không phổ biến nên chúng tôi 
chỉ tập trung phân tích hai nhóm chính: Nhóm 
hủy myelin cấp và nhóm hủy sợi trục. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 35 
Bảng 1: Đặc điểm chung của BN mắc hội chứng Guillain-Barré. 
Đặc điểm chung Thể hủy myelin n (%) Thể hủy sợi trục n (%) p 
n (%) 64 (75,3) 15 (17,6) < 0,05 
Giới tính 
Nam 42 (65,6) 12 (80,0) 
Nữ 22 (34,4) 3 (20,0) 
> 0,05 
Tuổi 
≤ 30 10 (15,6) 1 (6,7) 
31 - 40 10 (15,6) 5 (33,3) 
41 - 50 9 (14,1) 1 (6,7) 
51 - 60 16 (25,0) 2 (13,3) 
≥ 61 19 (29,7) 6 (40,0) 
> 0,05 
Tuổi trung bình 49,33 ± 15,77 50,73 ± 15,66 > 0,05 
Khu vực 
Nông thôn 31 (48,4) 8 (53,3) 
Thành thị 33 (51,6) 7 (46,7) 
> 0,05 
Điều trị 
Gamma globulin 23 (35,9%) 2 (13,3%) 
Thay huyết tương 41 (64,1%) 13 (86,7%) 
> 0,05 
Có 54 BN nam, chiếm 68,3% (p > 0,05). Nhóm tuổi gặp nhiều nhất ≥ 61 tuổi (31,6%). 
Tỷ lệ BN sống ở nông thôn và thành thị không có sự khác biệt (p > 0,05). 
Biểu đồ 1: Thời gian mắc bệnh theo các tháng trong năm. 
Hội chứng Guillain-Barré xuất hiện ở hầu hết các tháng trong năm, cao nhất là 
tháng 4 (17,6%). 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 36 
Bảng 2: Đặc điểm lâm sàng BN mắc hội chứng Guillain-Barré. 
Thể hủy myelin 
(n = 64) 
Thể hủy sợi trục 
(n = 15) 
p 
Yếu tố tiền nhiễm (n, %) 
Cúm 7 (10,9) 3 (20,0) 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa 4 (6,3) 3 (20,0) 
Nhiễm khuẩn hô hấp 22 (34,4) 2 (13,3) 
> 0,05 
Thời gian khởi phát (n, %) 
≤ 7 ngày 51 (79,7) 12 (80,0) 
> 7 ngày 13 (20,3) 3 (20,0) 
> 0,05 
Triệu chứng khởi phát (n, %) 
Vận động 18 (28,1) 10 (66,6) 
Cảm giác 33 (51,6) 4 (26,7) 
Liệt dây thần kinh sọ não 7 (10,9) 0 
Đau 6 (9,4) 1 (6,7) 
> 0,05 
Yếu cơ (n, %) 
Đối xứng 63 (98,4) 15 (100) 
Không đối xứng 1 (1,6) 0 > 0,05 
Điểm sức cơ 38,17 ± 10,65 32,93 ± 12,56 > 0,05 
Rối loạn cảm giác (n, %) 
Có 64 (100) 11 (73,3) < 0,05 
Liệt dây thần kinh sọ não (n, %) 
Dây III, IV, VI 27 (42,2) 6 (40,0) 
Dây VII 5 (7,8) 2 (13,3) > 0,05 
Dây IX-X 2 (3,1) 0 
Khác 2 (3,1) 0 
Đau (n, %) 42 (65,6) 9 (60,0) > 0,05 
Điểm đau trung bình 3,39 ± 2,71 3,07 ± 2,76 > 0,05 
Rối loạn thần kinh thực vật (n, %) 47 (73,4) 12 (80,0) > 0,05 
Suy hô hấp (n, %) 3 (4,6) 2 (13,3) > 0,05 
Điểm Hughes lúc nhập viện 3,39 ± 0,85 3,93 ± 0,59 < 0,05 
Ở BN thể hủy myelin cấp, nhiễm khuẩn hô hấp là yếu tố tiền nhiễm thường gặp 
nhất (34,4%). Ở thể hủy sợi trục, nhiễm khuẩn tiêu hóa chiếm 20,0%. Phần lớn BN có 
thời gian khởi phát bệnh 7 ngày (79,7%). Hội chứng Guillain-Barré khởi đầu bằng triệu 
chứng cảm giác thường gặp ở BN thể hủy myelin cấp (51,6%). Trong khi đó, triệu chứng 
vận động thường gặp ở thể hủy sợi trục (66,6%). Ở thể hủy myelin cấp, đau và liệt dây 
thần kinh sọ não là triệu chứng khởi phát thường gặp hơn. Ở nhóm có triệu chứng 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 37 
yếu cơ, tính chất đối xứng gặp ở hầu hết BN Guillain-Barré, chúng tôi chỉ ghi nhận 
1,6% BN yếu cơ không đối xứng, với điểm sức cơ trung bình ở BN thể hủy myelin cấp 
là 38,17 ± 10,65, nhóm hủy sợi trục là 32,93 ± 12,56. Trong các trường hợp liệt 
dây thần kinh sọ não, ở cả hai nhóm, liệt dây thần kinh vận nhãn thường gặp nhất 
(42,2% ở thể hủy myelin cấp, 40,0% ở thể hủy sợi trục), tiếp theo là liệt dây VII 
(7,8% và 13,3%). Triệu chứng đau ở thể hủy myelin (65,6%) cao hơn so với thể hủy 
sợi trục (60,0%). Điểm đau trung bình ở thể hủy myelin và thể hủy sợi trục tương ứng 
3,39 ± 2,71 và 3,07 ± 2,76 (p > 0,05). Rối loạn thần kinh thực vật ở thể hủy myelin là 
73,4%, ở thể hủy sợi trục là 80,0%. Tỷ lệ suy hô hấp ở thể hủy sợi trục (13,3%) cao 
hơn so với thể hủy myelin (4,6%) (p > 0,05). Điểm Hughes trung bình ở thể hủy sợi 
trục cao hơn so với thể hủy myelin, tương ứng 3,93 ± 0,59 và 3,39 ± 0,85 (p < 0,05). 
Bảng 3: Đặc điểm biến đổi DNT và điện thần kinh cơ ở BN Guillain-Barré. 
Đặc điểm n % 
DNT 
Phân ly 71 83,5 
Bình thường 14 16,5 
Điện thần kinh cơ 
Thời gian tiềm vận động 
Bình thường 27 31,8 
Bất thường 58 68,2 
Biên độ vận động 
Bình thường 19 22,4 
Bất thường 66 77,6 
Tốc độ dẫn truyền vận động 
Bình thường 31 36,5 
Bất thường 54 63,5 
Thời gian tiềm sóng F 
Bình thường 23 27,1 
Bất thường 62 72,9 
Thời gian tiềm cảm giác 
Bình thường 27 31,8 
Bất thường 58 68,2 
Biên độ cảm giác 
Bình thường 14 16,5 
Bất thường 71 83,5 
Tốc độ dẫn truyền cảm giác 
Bình thường 17 20,0 
Bất thường 68 80,0 
Phản xạ H 
Bình thường 7 8,2 
Bất thường 78 91,8 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 38 
83,5% BN có tăng protein trong DNT 
trong khi tế bào bình thường (phân ly 
protein - tế bào), 16,5% BN có kết quả 
DNT bình thường tại thời điểm nhập viện. 
Về điện thần kinh cơ, tại thời điểm nhập 
viện, bất thường gặp nhiều nhất ở BN 
Guillain-Barré là phản xạ H (91,8%), 
bất thường biên độ và tốc độ dẫn truyền 
cảm giác cũng gặp > 80%, tiếp theo là 
bất thường biên độ vận động và thời gian 
tiềm sóng F (tương ứng 77,6% và 72,9%). 
Bất thường ít gặp nhất là tốc độ dẫn 
truyền vận động (63,5%). 
BÀN LUẬN 
Bệnh nhân trong nghiên cứu của 
chúng tôi chủ yếu ở thể hủy myelin 
(75,3%), BN thể hủy sợi trục (bao gồm 
thể hủy sợi trục vận động cấp tính và thể 
hủy sợi trục vận động - cảm giác cấp tính) 
chiếm 17,6%. Hội chứng Miller-Fisher chỉ 
chiếm 5% các trường hợp Guillain-Barré 
với tam chứng cổ điển là liệt dây thần 
kinh vận nhãn, thất điều và mất phản xạ 
gân xương. Bệnh khởi phát cấp tính và 
được biết đến với tên khác là hội chứng 
Fisher. Trong một thống kê khác, chúng 
tôi gặp 5,9% trường hợp Guillain-Barré là 
hội chứng Miller-Fisher. Sự khác biệt về 
cơ chế bệnh sinh trong mỗi quần thể và 
sự phơi nhiễm với các yếu tố tiền nhiễm 
khác nhau có thể liên quan đến sự khác 
biệt trong các biến thể của hội chứng 
Guillain-Barré. 
Nghiên cứu đặc điểm phổ biến của hội 
chứng Guillain-Barré, kết quả cho thấy 
bệnh gặp ở hầu hết các độ tuổi, trẻ nhất 
là 16 tuổi, cao nhất 75 tuổi. Nhóm tuổi 
> 61 chiếm tỷ lệ cao nhất (29,7%) với thể 
hủy myelin và 40,0% với thể hủy sợi trục, 
tuổi trung bình tương ứng 49,33 ± 15,77 
và 50,73 ± 15,66. Tương tự, nghiên cứu 
của Chroni E (2004) gặp tuổi trung bình 
47,6 ± 23,0 [6]. Các nghiên cứu khác 
cũng cho thấy bệnh gặp ở hầu hết các 
lứa tuổi, với tuổi trung bình 52,2, cao nhất 
ở nhóm tuổi 50 và 69. Như vậy, mặc dù 
có sự khác biệt, nhưng tất cả các nghiên 
cứu đều cho thấy tuổi mắc bệnh của BN 
Guillain-Barré tập trung chủ yếu ở độ 
tuổi 40 và 50. 
Về nơi cư trú, nghiên cứu của 
Dourado M.E. [7] cho kết quả khác, có thể 
do sự khác biệt về nơi cư trú cũng như 
phương pháp phân loại đối tượng theo 
khu vực cư trú. Nghiên cứu của chúng 
tôi, tỷ lệ BN Guillain-Barré ở nông thôn và 
thành thị tương đương nhau. Địa điểm cư 
trú có thể liên quan đến yếu tố tiền nhiễm. 
Ở những khu vực đông dân cư, điều kiện 
sống và vệ sinh kém có thể dễ dẫn đến 
các bệnh truyền nhiễm qua đường tiêu 
hóa và đường hô hấp, trong khi đây là 
những yếu tố tiền nhiễm thường gặp trước 
khi khởi phát hội chứng Guillain-Barré. 
Chroni E. (2004) [6] lưu ý đến những 
trường hợp Guillain-Barré mới mắc trong 
các tháng của năm, tỷ lệ cao nhất ở BN 
nam là tháng 6, nữ là tháng 4. Nguy cơ 
mắc hội chứng Guillain-Barré cao nhất 
đối với những người trẻ tuổi (< 40 tuổi) 
là tháng 4, người cao tuổi là tháng 5. 
Biểu đồ 1 cho thấy kết quả tương tự, cho 
thấy tỷ lệ mắc Guillain-Barré quanh năm, 
cao nhất là tháng 4 (17,6%), thấp nhất là 
tháng 10 và tháng 11 (3,5%). 
Đặc điểm lâm sàng của hội chứng 
Guillain-Barré (bảng 2). Các nghiên cứu 
trước đây cho rằng khoảng 2/3 BN có 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 39 
yếu tố tiền nhiễm trong vòng 1 - 3 tuần 
(11 ngày) trước khi khởi phát triệu chứng 
yếu cơ. Trong nghiên cứu này, yếu tố tiền 
nhiễm thường gặp nhất ở nhóm hủy 
myelin là nhiễm khuẩn hô hấp (34,4%), 
trong khi ở nhóm hủy sợi trục không thấy 
yếu tố tiền nhiễm nào nổi trội (dao động 
từ 13,3 - 20,0%). Nghiên cứu của Sipila 
J.O. (2015) [8]: Nhiễm khuẩn hô hấp và 
tiêu hóa trước khởi phát bệnh là hai yếu 
tố tiền nhiễm thường gặp nhất. Tác giả 
cũng lưu ý, có thể có sự kết hợp các yếu 
tố tiền nhiễm trên cùng một BN. 
Nghiên cứu về triệu chứng khởi phát 
cho thấy, đối với thể hủy myelin, rối loạn 
cảm giác là triệu chứng khởi phát thường 
gặp nhất (51,6%), trong khi đó, triệu 
chứng vận động thường gặp ở thể hủy 
sợi trục (66,6%). So sánh đặc điểm triệu 
chứng khởi phát bệnh với các nghiên cứu 
trong nước và quốc tế, nghiên cứu của 
chúng tôi có khác biệt về tỷ lệ các triệu 
chứng khởi phát. Tuy nhiên, các tác giả 
đều cho rằng triệu chứng cảm giác là 
triệu chứng khởi phát thường gặp nhất, 
tiếp theo là triệu chứng vận động, đau và 
liệt dây thần kinh sọ não. 
Yếu cơ là triệu chứng phổ biến khi 
nhập viện, thường là yếu cơ gốc chi nặng 
hơn ngọn chi và đối xứng hai bên. 
Dourado (2012) [7] cũng gặp phần lớn BN 
có yếu cơ gốc chi, đặc biệt ở BN thể hủy 
myelin (p < 0,01). Với thể sợi trục vận 
động cấp tính, yếu cơ ngọn chi nổi trội 
hơn (p < 0,01). Ở BN thể sợi trục vận 
động - cảm giác cấp tính, yếu cơ gốc chi 
và ngọn chi tương đương nhau (p = 0,04). 
Về tính chất yếu cơ, ở cả nhóm hủy 
myelin và nhóm hủy sợi trục, hầu hết các 
trường hợp yếu cơ là đối xứng hai bên, 
với việc sử dụng thang điểm khảo sát trên 
6 nhóm cơ (chi trên, chi dưới hai bên). 
Nghiên cứu của Chen W.H.: Điểm sức cơ 
trung bình tại thời điểm nhập viện là 
36,1 ± 15,2 [9]. Trong nghiên cứu này, 
điểm sức cơ ở thể hủy myelin cao hơn so 
với thể hủy sợi trục (p > 0,05). 
Mặc dù yếu cơ là triệu chứng nổi bật 
của hội chứng Guillain-Barré, nhưng bất 
thường cảm giác lại là triệu chứng xuất 
hiện đầu tiên. Một số nghiên cứu cho thấy 
khoảng 50 - 70% BN có bất thường cảm 
giác với các dạng rối loạn cảm giác khác 
nhau. Tại thời điểm nhập viện, rối loạn cảm 
giác gặp ở 100% BN thể hủy myelin và 
73,3% BN thể hủy sợi trục. Như vậy, kết quả 
của chúng tôi có tỷ lệ cao hơn các nghiên 
cứu trước đây. Điều này có thể được giải 
thích do rối loạn cảm giác là triệu chứng 
chủ quan. Việc đánh giá các triệu chứng 
cảm giác phụ thuộc rất nhiều vào khả 
năng phối hợp của BN và sẽ khó khăn 
hơn đối với BN bị suy hô hấp. Do đó, 
những kết quả này có thể không phản 
ánh chính xác rối loạn của BN. 
Đau trong giai đoạn cấp tính của hội 
chứng Guillain-Barré đã được nhiều tác 
giả đề cập đến với tần suất xuất hiện 
khác nhau. Đau thường dễ bị bỏ qua, 
thậm chí cản trở chẩn đoán sớm hội 
chứng Guillain-Barré. Nghiên cứu của 
chúng tôi cho thấy đau là triệu chứng khá 
phổ biến, chiếm 65,6% ở nhóm hủy myelin 
và 60,0% ở nhóm sợi trục (p > 0,05). 
Điểm VAS tại thời điểm nhập viện, đánh 
giá triệu chứng đau cho thấy điểm đau 
trung bình của thể hủy myelin cao hơn 
thể hủy sợi trục. Tuy nhiên, sự khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 40 
Trong nhiều nghiên cứu trước đây, 
liệt dây thần kinh sọ não khá phổ biến, 
nhất là liệt dây thần kinh số VII (44,7%), 
tiếp theo là liệt dây thần kinh vận nhãn III, 
IV, VI (26,3%), dây thần kinh IX, X (21,1%). 
Tuy nhiên, chúng tôi thấy tỷ lệ BN bị liệt 
một hoặc nhiều dây thần kinh vận nhãn 
cao hơn tỷ lệ liệt dây thần kinh số VII, 
tương ứng 42,2% và 7,8% với thể hủy 
myelin, 40,0% và 13,3% với thể hủy sợi 
trục. Rối loạn thần kinh thực vật cũng 
thường gặp với > 70% trường hợp. 5 BN 
bị suy hô hấp (3 ở thể hủy myelin và 2 ở 
thể hủy sợi trục) ở cả hai nhóm. Trong số 
BN không được phân loại ở hai nhóm 
trên, chúng tôi gặp 1 BN bị rối loạn ý thức 
liên quan đến hội chứng rối loạn bài tiết 
ADH, không BN nào có triệu chứng loạn 
thần và sốt khi khởi phát. 
Để hiểu về những thay đổi trên DNT 
và điện thần kinh cơ của BN Guillain-
Barré tại thời điểm nhập viện, chúng tôi 
tiến hành đánh giá trên tất cả 85 BN, 
không phân biệt biến thể. Kết quả: 83,5% 
BN có tăng protein trong DNT, còn tế bào 
bình thường. Nghiên cứu của Akbayram 
(2011) [10] cho thấy việc phát hiện mức 
độ protein tương tự nhau trong DNT ở cả 
hai nhóm hủy sợi trục và hủy myelin là 
một phát hiện đáng chú ý. Nồng độ protein 
tăng cao trong DNT có thể liên quan đến 
tình trạng viêm của rễ thần kinh. Những 
kết quả này khẳng định viêm rễ thần kinh 
có thể quan sát thấy ở cả thể hủy myelin 
và thể hủy sợi trục. Tương tự, những thay 
đổi trên điện thần kinh cơ được ghi nhận 
với những bất thường nổi bật như: Bất 
thường phản xạ H, biên độ và tốc độ dẫn 
truyền cảm giác, tiếp theo là bất thường 
thời gian tiềm sóng F, bất thường tốc độ 
dẫn truyền vận động ít phổ biến hơn. 
Nghiên cứu dấu hiệu trên điện thần kinh 
cơ ở giai đoạn sớm của hội chứng 
Guillain-Barré, Baraba R. (2011) [11] 
cũng gặp mất phản xạ H ở hầu hết BN 
(90,7% BN thể hủy myelin) và cũng là bất 
thường phổ biến nhất được tìm thấy. 
Thêm vào đó, giảm tần số, kéo dài thời 
gian tiềm sóng F gặp ở 24/39 BN (61,5%). 
Theo Markoula S. (2007) [12], 60% các 
dây thần kinh được khảo sát có bất 
thường thời gian tiềm ngoại vi, 72% bất 
thường thời gian tiềm sóng F và 25% có 
nghẽn dẫn truyền thần kinh. 
KẾT LUẬN 
Hội chứng Guillain-Barré gặp ở tất cả 
các nhóm tuổi, nam giới dễ mắc bệnh 
hơn nữ, bệnh có thể xảy ra quanh năm 
với đỉnh khởi phát là tháng 4 (17,6%). 
Yếu tố tiền nhiễm gặp ở 54,4% BN. Hầu 
hết BN có yếu cơ đối xứng hai bên. Liệt 
dây thần kinh vận nhãn và rối loạn thần 
kinh thực vật là triệu chứng thường gặp ở 
cả hai nhóm. Phân ly protein - tế bào 
trong DNT gặp ở hầu hết BN tại thời điểm 
nhập viện (83,5%). Điện thần kinh cơ có 
bất thường phản xạ H chiếm tỷ lệ cao 
(91,8%), biên độ vận động và cảm giác, 
thời gian tiềm sóng F, tốc độ dẫn truyền 
vận động và thời gian tiềm cảm giác gặp 
ở > 60 - 80% BN tại thời điểm nhập viện. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hughes R.A., Cornblath D.R. Guillain-
Barré sydrome. Lancet. 2005, 366 (9497), 
pp.1652-1666. 
2. Asbury A.K., Cornblath D.R. Assessment 
of current diagnostic criteria for Guillain-Barré 
syndrome. Ann Neurol. 1990, 27, pp.21-24. 
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2020 - chuyªn ®Ò thÇn kinh häc 
 41 
3. Hughes R.A., Swan A.V., van Doorn 
P.A. Intravenous immunoglobulin for Guillain-
Barré syndrome. Cochrane Database Syst 
Rev. 2010, CD002063. 
4. Khean Jin G.O.H., Wai Keong N.G., 
Manonmani Vaithialigam et al. A clinical and 
electrophysiologiacal study of Guillain-Barré 
syndrome in Malaysia. Neurol J Southeast 
Asia. 1999, 4, pp.67-72. 
5. The Italian Guillain-Barre Study Group. 
The prognosis and main prognostic indicators 
of Guillain-Barre syndrome: A multicentre 
prospective study of 297 patients. Brain. 
1996, 119, pp.2053-2061. 
6. Chroni E., Papapetropoulos S., 
Gioldasis G. et al. Guillain-Barre syndrome 
in Greece: Seasonality and other clinico-
epidemiological features. Eur J Neurol. 2004, 
11 (6), pp.383-388. 
7. Dourado M.E., Felix R.H., da Silva W.K. 
et al. Clinical characteristics of Guillain-Barre 
syndrome in a tropical country: A Brazilian 
experience. Acta Neurol Scand. 2012, 125 (1), 
pp.47-53. 
8. Sipila J.O., Soilu-Hanninen M. The incidence 
and triggers of adult-onset Guillain-Barre 
syndrome in southwestern Finland 2004 - 
2013. Eur J Neurol. 2015, 22 (2), pp.292-298. 
9. Chen W.H., Yeh J.H., Chiu H.C. 
Experience of double filtration plasmapheresis 
in the treatment of Guillain-Barre syndrome. 
J Clin Apher. 1999, 14 (3), pp.126-129. 
10. Akbayram S., Doğan M., Akgün C. et al. 
Clinical features and prognosis with Guillain-
Barré syndrome. Ann Indian Acad Neurol. 
2011, 14 (2), pp.98-102. 
11. Baraba R., Sruk A., Sragalj L. et al. 
Electrophysiological findings in early Guillain-
Barre syndrome. Acta Clin Croat. 2011, 50 (2), 
pp.201-207. 
12. Markoula S., Giannopoulos S., Sarmas 
I. et al. Guillain-Barre syndrome in northwest 
Greece. Acta Neurol Scand. 2007, 115 (3), 
pp.167-173.

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_lam_sang_va_dien_than_kinh_co_o_benh_nhan_mac_hoi_c.pdf