Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của những bệnh nhân nam vô sinh không có tinh trùng
Không có tinh trùng trong tinh dịch gặp ở 1% nam giới nói chung và xấp xỉ 10 – 15% bệnh nhân vô sinh nam.
Tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội, trong số 3.386 nam giới vô sinh đến khám, tỉ lệ không có tinh trùng chiếm 15%.
Nghiên cứu mô tả hồi cứu tiến hành trên 405 nam giới vô sinh không có tinh trùng cho thấy tiền sử viêm tinh hoàn
do quai bị chiếm 18,3%; tỉ lệ bất sản ống dẫn tinh trên lâm sàng là 18,8%; tỉ lệ suy giảm testosterone là 37,8%;
giảm thể tích tinh hoàn trên siêu âm chiếm 68,4%; tỉ lệ bất thường di truyền chiếm 23,6% (17,6% bất thường
nhiễm sắc thể và 9,8% có đột biến mất đoạn nhỏ trên nhiễm sắc thể Y). Nghiên cứu cũng cho thấy có sự khác biệt
đáng kể về nồng độ LH, FSH, testosterone, thể tích tinh hoàn trung bình giữa những bệnh nhân vô sinh không có
tinh trùng có bất thường di truyền với nhóm không có bất thường. Đối với những bệnh nhân không có tinh trùng
cần phối hợp đánh giá tổng thể về lâm sàng, cận lâm sàng và di truyền trước khi quyết định trích hút tinh trùng
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của những bệnh nhân nam vô sinh không có tinh trùng
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 147TCNCYH 123 (7) - 2019 Tác giả liên hệ: Nguyễn Hoài Bắc, Trường Đại học Y Hà Nội Email: [email protected] Ngày nhận: 26/09/2019 Ngày được chấp nhận: 10/10/2019 ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG CỦA NHỮNG BỆNH NHÂN NAM VÔ SINH KHÔNG CÓ TINH TRÙNG Nguyễn Hoài Bắc1, Phạm Minh Quân1, Nguyễn Cao Thắng2 1Trường Đại học Y Hà Nội, 2Bệnh viện Đại học Y Hà Nội Không có tinh trùng trong tinh dịch gặp ở 1% nam giới nói chung và xấp xỉ 10 – 15% bệnh nhân vô sinh nam. Tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội, trong số 3.386 nam giới vô sinh đến khám, tỉ lệ không có tinh trùng chiếm 15%. Nghiên cứu mô tả hồi cứu tiến hành trên 405 nam giới vô sinh không có tinh trùng cho thấy tiền sử viêm tinh hoàn do quai bị chiếm 18,3%; tỉ lệ bất sản ống dẫn tinh trên lâm sàng là 18,8%; tỉ lệ suy giảm testosterone là 37,8%; giảm thể tích tinh hoàn trên siêu âm chiếm 68,4%; tỉ lệ bất thường di truyền chiếm 23,6% (17,6% bất thường nhiễm sắc thể và 9,8% có đột biến mất đoạn nhỏ trên nhiễm sắc thể Y). Nghiên cứu cũng cho thấy có sự khác biệt đáng kể về nồng độ LH, FSH, testosterone, thể tích tinh hoàn trung bình giữa những bệnh nhân vô sinh không có tinh trùng có bất thường di truyền với nhóm không có bất thường. Đối với những bệnh nhân không có tinh trùng cần phối hợp đánh giá tổng thể về lâm sàng, cận lâm sàng và di truyền trước khi quyết định trích hút tinh trùng. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Vô sinh đang trở thành một gánh nặng cho nền kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới. Theo thống kê của Hội niệu khoa châu Âu (EAU) cứ 8 cặp vợ chồng lại có 1 căp vô sinh nguyên phát và cứ 6 cặp vợ chồng lại có 1 cặp vô sinh thứ phát. Những nguyên nhân gây vô sinh có thể từ phía người nam giới, phía người nữ giới, hoặc từ cả hai phía. Các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy, nguyên nhân từ phía người nam giới chiếm 30 - 40% các trường hợp vô sinh nói chung và tỉ lệ vô sinh nam chiếm khoảng 7 - 15% nam giới trong cộng đồng [1]. Bệnh cảnh lâm sàng và cận lâm sàng của vô sinh nam rất đa dạng. Các chỉ số tinh dịch đồ thường có sự khác biệt giữa các cá thể, từ bình thường đến giảm mật độ, giảm di động, bất thường về hình thái, thậm chí không có tinh trùng. Vô sinh không có tinh trùng được coi là một trong các trường hợp khó khăn trong chẩn đoán và điều trị. Tỉ lệ nam giới không có tinh trùng chiếm 1% nam giới trong cộng đồng và 10 - 15% trong số những người nam giới vô sinh [2]. Ở Việt Nam trong một thời gian dài, nguyên nhân vô sinh từ phía nam giới ít được chú ý. Do vậy, những nhận thức và hiểu biết về vô sinh nam nói chung và vô sinh do không có tinh trùng nói riêng còn nhiều hạn chế. Hầu hết những bệnh nhân không có tinh trùng không được thăm khám và đánh giá đầy đủ trước khi quyết định trích hút tinh hoàn, hoặc sinh thiết tinh hoàn để chẩn đoán. Điều này thường để lại hậu quả nặng nề, gây khó khăn cho quá trình điều trị về sau và làm giảm đi cơ hội có con của người bệnh. Một vài nghiên cứu gần đây mới chỉ dừng lại ở mức đánh giá kết quả trích hút tinh hoàn và mào tinh hoàn ở những bệnh nhân vô sinh nam không có tinh trùng [3; 4]. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài “Tìm hiểu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và di truyền học của những nam giới vô sinh không có tinh trùng” nhằm mục tiêu: Từ khóa: Vô sinh không có tinh trùng, Bất sản ống dẫn tinh, Bất thường nhiễm sắc thể. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 148 TCNCYH 123 (7) - 2019 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và di truyền học ở những bệnh nhân nam không có tinh trùng. 2. Tìm hiểu mối liên quan của một số yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng với tình trạng bất thường di truyền ở những nam giới vô sinh không có tinh trùng. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng Trong số 3.386 bệnh nhân vô sinh nam từng đến khám tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 4 năm 2013 đến tháng 10 năm 2018, có 505 bệnh nhân không có tinh trùng trong tinh dịch chiếm tỉ lệ 15%. Chúng tôi chọn ra 405 bệnh nhân có lưu thông tin về tiền sử, bệnh sử, khám lâm sàng, xét nghiệm nội tiết tố, tinh dịch đồ, siêu âm tinh hoàn và đánh giá về di truyền để đưa vào nghiên cứu. 2. Phương pháp Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu. Khám lâm sàng: Đối tượng tham gia nghiên cứu được đánh giá tổng thể trên lâm sàng. Giai đoạn dậy thì được đánh giá theo Tanner về đặc điểm lông mu (Giai đoạn 1: Không có – Giai đoạn 2: Lông tơ – Giai đoạn 3: Lông mu thưa – Giai đoạn 4: Lông che phủ gần hết vùng tam giác mu – Giai đoạn 5: Lông che phủ toàn bộ vùng mu đến trước ống bẹn lan xuống đùi) [5]. Tinh hoàn, mào tinh, ống dẫn tinh hai bên được khám để loại trừ các trường hợp tinh hoàn ẩn, lạc chỗ, bất sản ống dẫn tinh mào tinh. Tinh hoàn được xem là nhỏ khi thể tích dưới 15 ml ước lượng bằng thước Prader. Dương vật được đo bằng thước, chiều dài khi mềm và chiều dài khi kéo căng được xác định từ đỉnh quy đầu đến xương mu. Chiều dài dương vật khi kéo dãn dưới 7,5 cm được coi là nhỏ [6]. Xét nghiệm tinh dịch đồ: Mẫu tinh dịch sau khi lấy sẽ được tiến hành phân tích trong vòng 1 giờ tại phòng xét nghiệm Bộ môn Y sinh học – Di truyền Trường Đại học Y Hà Nội. Bệnh nhân được chẩn đoán xác định khi không thấy tinh trùng trong tinh dịch sau khi ly tâm ở hai mẫu khác nhau. Nồng độ kẽm và fructose trong tinh dịch được tiến hành đo bằng phương pháp 5-Br- PAPS và phương pháp ROE sau khi ly tâm mẫu tinh dịch trong 10 phút tốc độ 1500 g. Giá trị tham khảo của nồng độ hai chất này trong tinh dịch lần lượt là 0,3 – 1,5 µmol/l với kẽm và 1,3 – 4,0 g/l với fructose theo khuyến cáo của phòng xét nghiệm đưa ra. Siêu âm tinh hoàn: Siêu âm được thực hiện tại khoa chẩn đoán hình ảnh Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Thể tích tinh hoàn được tính theo theo công thức V = L x W x H x 0,71. Thể tích tinh hoàn < 12ml được coi như bất thường [7]. Xét nghiệm nội tiết: Nồng độ các nội tiết tố sinh dục trong huyết thanh được xác định theo phương pháp xét nghiệm miễn dịch điện hóa phát quang “ECLIA” dùng cho các máy xét nghiệm miễn dịch Cobas. Bộ thuốc thử xét nghiệm do hãng Roche sản xuất và cung cấp. Giá trị tham khảo của LH, FSH, Testosterone lần lượt là 1,7 – 8,6 mIU/ml; 3,5 – 12,5 mIU/ml; 9,9 – 27,8 nmol/l. Đột biến mất đoạn nhỏ trên nhiễm sắc thể và nhiễm sắc thể đồ Bệnh nhân được tiến hành lấy máu xét nghiệm tại Bộ môn Y sinh học - Di truyền Trường Đại học Y Hà Nội theo quy trình khép kín. 3. Xử lý số liệu Các biến liên tục được mô tả dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn, sự khác biệt giữa 2 nhóm được ước tính theo thuật toán T-student test đối với biến phân bố chuẩn và Mann Whitney test với biến phân bố không chuẩn. Tất cả các TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 149TCNCYH 123 (7) - 2019 III. KẾT QUẢ 1. Đặc điểm lâm sàng của đối tượng nghiên cứu 1.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Bảng 1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu và sự khác biệt giữa các bệnh nhân vô sinh nguyên phát và thứ phát Tổng (n) Mean ± SD n (%) Tuổi 405 30,6 ± 5,01 BMI (kg/m2) 387 22,3 ± 2,82 < 18,5 30 (7,8%) 18,5 - 22,9 205 (53,0%) > 22,9 152 (39,2%) Thời gian chậm con (tháng) 390 30,6 ± 33,3 Hút thuốc lá 379 Không 287 (75,7%) Có 92 (24,3%) Đã can thiệp trước khi đi khám 405 Không 360 (88,9%) Có 45 (11,1%) Phân loại vô sinh 405 Vô sinh nguyên phát 371 (91,6%) Vô sinh thứ phát 34 (8,4%) Phần lớn đối tượng tham gia nghiên cứu vô sinh nguyên phát, có độ tuổi trung bình khoảng 30 và thời gian chậm con trung bình khoảng 2,5 năm. Trong số các đối tượng nghiên cứu, tỷ lệ thừa cân chiếm 39,2%, chỉ có 24,3% bệnh nhân có hút thuốc. Tỷ lệ đã từng can thiệp trước khi đến khám tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội khá thấp chỉ khoảng hơn 11% trong đó chọc hút mào tinh (PESA) (27/45), thụ tinh nhân tạo (8/45), sinh thiết tinh hoàn (7/45), điều trị nội tiết (4/45). dữ liệu trên được nhập trên Excel và phân tích bằng phần mềm R. 2. Đạo đức trong nghiên cứu Nghiên cứu này nhằm mục đích khoa học và giảng dạy. Các thông tin liên quan đến người tham gia nghiên cứu được đảm bảo bí mật. Nghiên cứu được sự đồng ý của Ban giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 150 TCNCYH 123 (7) - 2019 1.2. Đặc điểm về tiền sử bệnh lý liên quan của đối tượng nghiên cứu Bảng 2. Tiền sử có liên quan đến tình trạng vô sinh không có tinh trùng Tiền sử Ngoại khoa 3,5% Mổ hạ tinh hoàn một bên/hai bên 1,9% (8/405) Mổ thoát vị bẹn 1,2% (5/405) Mổ giãn tĩnh mạch tinh 0,3% (1/405) Nội khoa 23,2% Viêm tinh hoàn do quai bị 18,3% (74/405) Viêm tinh hoàn do các căn nguyên khác 2,7% (11/405) Viêm niệu đạo do lậu 1,7% (7/405) Viêm niệu đạo do các căn nguyên khác 0,5% (2/405) Chưa phát hiện bất thường 73,3% Trong số các bệnh lý có liên quan khai thác được, tiền sử viêm tinh hoàn do quai bị chiếm phần lớn (68,5%), tuy nhiên phần lớn đối tượng nghiên cứu (73,3%) không có tiền sử bệnh lý liên quan đến tình trạng không có tinh trùng trong tinh dịch. 1.3. Đặc điểm tinh hoàn, ống dẫn tinh, mào tinh trên thăm khám lâm sàng Bảng 3. Đặc điểm lâm sàng bộ phận sinh dục của đối tượng nghiên cứu Tổng (n) Mean ± SD [Giá trị nhỏ nhất – Giá trị lớn nhất] n (%) Kích thước dương vật 363 Chiều dài khi mềm (cm) 7,05 ± 0,98 [3 – 10] Chiều dài kéo căng (cm) 12,39 ± 1,31 [8,7 – 16,5] Đặc điểm lông mu 405 Tanner 1 5 (1,2%) Tanner 2 1 (0,3%) Tanner 3 22 (5,5%) Tanner 4 5 (1,2%) Tanner 5 372 (91,8%) TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 151TCNCYH 123 (7) - 2019 Phần lớn đối tượng tham gia nghiên cứu có kích thước dương vật bình thường và đã dậy thì hoàn toàn dựa vào đặc điểm lông mu theo Tanner. *ODT: Ống dẫn tinh Biểu đồ 1. Đặc điểm tinh hoàn, ống dẫn tinh, mào tinh của đối tượng nghiên cứu (N = 405) Gần như tất cả đối tượng tham gia nghiên cứu đều khám thấy tinh hoàn 2 bên trong bìu, tuy nhiên chỉ có 51% có kích thước bình thường trên lâm sàng. Bất thường về mào tinh, ống dẫn tinh quan sát thấy lần lượt chiếm 30,1% và 18,8% tổng số đối tượng nghiên cứu. 2.2. Đặc điểm cận lâm sàng của đối tượng nghiên cứu: Bảng 4. Đặc điểm tinh dịch đồ, nội tiết, kích thước tinh hoàn trên siêu âm của đối tượng nghiên cứu Tổng (n) Mean ± SD N (%) Tinh dịch đồ pH 400 7,28 ± 0,72 < 7,2 69 (17,2%) ≥ 7,2 331 (82,8%) Thể tích (ml) 400 2,12 ± 1,36 < 1,5 139 (34,8%) ≥ 1,5 261 (65,2%) Nồng độ kẽm (µmol/l) 188 0,32 ± 0,23 98,8% 50,6% 69,9% 81,2% 1,2% 49,4% 30,1% 18,8% 0.0% 20.0% 40.0% 60.0% 80.0% 100.0% Vị trí tinh hoàn Kích thước tinh hoàn Đặc điểm mào tinh Đặc điểm ODT Bình thường Bất thường TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 152 TCNCYH 123 (7) - 2019 Tổng (n) Mean ± SD N (%) < 0,3 93 (49,5%) ≥ 0,3 95 (50,5% Nồng độ Fructose (g/l) 191 1,09 ± 0,75 < 1,3 111 (58,1%) ≥ 1,3 80 (41,9%) Nội tiết tố LH (mIU/ml) 405 9,95 ± 9,01 < 1,7 14 (3,5%) 1,7 – 8,6 235 (58,0%) > 8,6 156 (38,5%) FSH (mIU/ml) 405 18,7 ± 18,6 < 3,5 68 (16,8%) 3,5 - 12,5 144 (35,6%) > 12,5 193 (47,7%) Testosterone (nmol/l) 405 14,6 ± 6,76 < 12 153 (37,8%) ≥ 12 252 (62,2%) Kích thước tinh hoàn qua siêu âm 405 Thể tích tinh hoàn phải (ml) 9,31 ± 5,59 < 12 273 (67,4%) ≥ 12 132 (32,6%) Thể tích tinh hoàn trái (ml) 9,01 ± 5,43 < 12 288 (71,1%) ≥ 12 117 (28,9%) Thể tích tinh hoàn trung bình (ml) 9,16 ± 5,26 < 12 277 (68,4%) ≥ 12 128 (31,6%) Tỷ lệ bất thường về thể tích, nồng độ kẽm, fructose của đối tượng tham gia nghiên cứu lần lượt TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 153TCNCYH 123 (7) - 2019 là 34,8%; 49,5%; 58,1%. Nồng độ LH và FSH huyết thanh trung bình lần lượt là 9,95 ± 9,01mIU/ ml và 18,7 ± 18,6mIU/ml cao hơn ngưỡng giá trị tham khảo một cách tương đối. Trên siêu âm, thể tích tinh hoàn trung bình hai bên là 9,16 ± 5,26ml và phần lớn đến 68,4% bệnh nhân có thể tích tinh hoàn < 12ml. 3.3. Đặc điểm di truyền của đối tượng nghiên cứu Bảng 5. Đặc điểm các bất thường về NST và đột biến mất đoạn nhỏ AZF Đột biến NST 17,6% (54/306) 47, XXY 11,8% (36/306) 47, XYY 0,3% (1/306) 46, XX 0,9% (3/306) Thể khảm (45, X/46, XY, del(Yq); 46, XY/45, X) 0,9% (3/306) 46, XY, del(Yq) 0,3% (1/306) Đột biến trên NST thường 3,3% (10/306) Không có độ biến NST 82,4% (252/306) Đột biến mất đoạn nhỏ AZF 9,8% (29/297) Không có đột biến mất đoạn nhỏ AZF 90,2% (268/297) Tỷ lệ đột biến NST và đột biến mất đoạn nhỏ AZF trên NST Y lần lượt là 17,6% và 9,8% các đối tượng được khảo sát, trong số đó tỷ lệ gặp hội chứng Klinefelter chiếm tỷ lệ cao nhất 11,8%. Bảng 6. Đặc điểm cận lâm sàng của nhóm có bất thường di truyền so với nhóm bình thường Nhóm bình thường (n = 236) Mean ± SD Nhóm bất thường di truyền (n = 73) Mean ± SD Giá trị P Tuổi 30,6 ± 5,1 29,1 ± 3,6 0,022 Thời gian chậm con (tháng) 32,2 ± 33,8 23,2 ± 21,2 0,034 BMI (kg/m2) 22,4 ± 2,7 21,9 ± 3,4 0,241 LH (mIU/ml) 7,5 ± 5,8 17,2 ± 13,0 < 0,001 FSH (mIU/ml) 14,7 ± 16,1 30,5 ± 23,0 < 0,001 Testosterone (nmol/l) 15,6 ± 6,4 11,4 ± 6,8 < 0,001 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 154 TCNCYH 123 (7) - 2019 Nhóm bình thường (n = 236) Mean ± SD Nhóm bất thường di truyền (n = 73) Mean ± SD Giá trị P Thể tích tinh dịch (ml) 2,2 ± 1,4 1,8 ±1,2 0,029 pH tinh dịch 7,2 ± 0,7 7,5 ± 0,6 0,001 Thể tích tinh hoàn trung bình (ml) 10,6 ± 4,7 5,4 ± 5,1 < 0,001 Chúng tôi nhận thấy sự khác biệt có ý nghĩa thông kê khi so sánh về tuổi, thời gian chậm con, các kết quả xét nghiệm nội tiết, tinh dịch, siêu âm tinh hoàn giữa nhóm có bất thường di truyền với nhóm không có bất thường. IV. BÀN LUẬN Đối tượng tham gia nghiên cứu phần lớn vô sinh nguyên phát (91,6%) và trong độ tuổi sinh sản. Tuổi và thời gian chậm con trung bình khá tương đồng với một số nghiên cứu trong và ngoài nước [3; 8]. Về tiền sử, chỉ có 26,7% các trường hợp đã từng phẫu thuật vùng bẹn bìu – sinh dục như thoát vị bẹn, giãn tĩnh mạch tinh, tinh hoàn ẩn, hoặc từng có viêm nhiễm đường tiết niệu sinh dục (Bảng 2), tỷ lệ này là 31% theo tác giả Tüttelmann khi nghiên cứu trên 1.583 nam giới [9]. Tỉ lệ bệnh nhân từng viễm nhiễm đường tiết niệu sinh dục trong nghiên cứu là 23,2% cao gấp hai lần nghiên cứu của tác giả Tüttelmann (10,3%) , có thể giải thích do đặc điểm khí hậu và dịch tễ [9]. Một điểm đáng chú ý trong tiền sử là có tới 18,3% đối tượng nghiên cứu từng bị viêm tinh hoàn do quai bị. Vi rút quai bị có ái tính cao với nhu mô tinh hoàn, gây phù nề nhu mô, sung huyết ống sinh tinh dẫn tới hoại tử kèm theo quá trình hyalin hóa ống sinh tinh và xơ teo tinh hoàn. Số lượng và chất lượng tinh trùng có thể bị ảnh hưởng tùy mức độ tổn thương, nặng nề nhất có thể dẫn tới không có tinh trùng trong tinh dịch [10]. Viêm tinh hoàn do quai bị là một trong những nguyên nhân có thể gây vô sinh, vì vậy cần phải nâng cao ý thức cộng đồng về các biện pháp phòng chống quai bị, cũng như cách xử trí các trường hợp viêm tinh hoàn do quai bị. Hầu hết bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu đã hoàn toàn dậy thì (theo Tanner) [5] chiếm 91,8%; với kích thước dương vật trung bình tương ứng với của quần thể người châu Á [6] và chỉ có 6,9% bệnh nhân có bất thường về dương vật. Tinh hoàn là nơi sản xuất tinh trùng, do vậy vị trí, kích thước tinh hoàn và mào tinh hoàn, cũng như tình trạng ống dẫn tinh có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động sinh sản ở nam giới. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy khoảng 1,2% bệnh nhân có bất thường vị trị của tinh hoàn một bên hoặc cả hai bên, tương đồng với nghiên cứu của Olesen và cộng sự [8], điều này cho thấy dị tật tinh hoàn không xuống bìu thường được can thiệp sớm và ít khi đến khám vì lý do chậm con. Tắc nghẽn mào tinh và ống dẫn tinh là nguyên nhân thường gặp trong vô sinh không có tinh trùng do tắc, trong đó 30 – 67% do tắc nghẽn ở mào tinh, 9% do bất sản đường dẫn tinh một hoặc hai bên liên quan đến đột biến gen CFTR trên NST số 7 [1]. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 31,1% các trường hợp có bất thường mào tinh nghi ngờ đến tình trạng TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 155TCNCYH 123 (7) - 2019 tắc nghẽn mào tinh và ống dẫn tinh, 18,8% có bất sản ống dẫn tinh một hoặc hai bên (Biểu đồ 1). Mặc dù tình trạng không có tinh trùng do tắc chỉ chiếm 15 – 20% các trường hợp [1], nhưng thường rất đặc trưng và có thể chẩn đoán trên lâm sàng. Thể tích tinh hoàn là một thông số vô cùng quan trọng trong đánh giá bệnh nhân vô sinh không có tinh trùng, thường được ước lượng bằng thước Prader hoặc đo trên siêu âm. Tuy nhiên, thể tích tinh hoàn trên siêu âm theo công thức Lambert được chứng minh là có độ chính xác cao nhất với sai số khoảng 7,42% [11]. Trên siêu âm, thể tích tinh hoàn < 12 (ml) được xem là tinh hoàn nhỏ [7]. Trong nghiên cứu của chúng tôi kích thước tinh hoàn trung bình (hai bên) là 9,16 ± 5,26 (ml), trong đó tỉ lệ tinh hoàn nhỏ chiếm 68,4%, nhỏ hơn so với thể tích trung bình 11,3 (ml) trong nghiên cứu của Olesen và cộng sự trên 1.213 nam giới vô sinh người Châu Âu [8]. Kích thước tinh hoàn là một yếu tố tiên lượng khả năng tìm thấy tinh trùng trong tinh hoàn [12], tuy nhiên hiện nay chưa có giá trị tham khảo về thể tích tinh hoàn trên siêu âm cho người Châu Á. Hoạt động của vùng dưới đồi - tuyến yên - tuyến sinh dục được phản ánh qua nồng độ LH, FSH, testosterone giữ vai trò trong phân biệt tình trạng không có tinh trùng do các nguyên nhân: tại tinh hoàn, trước tinh hoàn hay sau tinh hoàn. Nồng độ testosterone trung bình của đối tượng nghiên cứu nằm trong giới hạn, tỉ lệ suy giảm testosterone chiếm 38,7%. Nồng độ LH và FSH lại vượt ngưỡng giá trị tham khảo, tương tự các nghiên cứu khác; trong đó tỉ lệ tăng LH và FSH lần lượt là 38,5% và 47,7% [3; 12]. Testosterone giảm phản ánh suy chức năng tinh hoàn. LH và FSH thường tăng trong điều hòa ngược của hệ nội tiết hoặc giảm do suy chức năng tuyến yên, vùng dưới đồi. Trong khi nồng độ nội tiết bình thường gợi ý nhiều đến các nguyên nhân do tắc nghẽn. Thể tích cùng với nồng độ kẽm và fructose của tinh dịch có vai trò quan trọng trong việc chẩn đoán phân biệt không có tinh trùng do tắc hoặc không do tắc. Thể tích tinh dịch < 1,5 (ml) gặp ở 34,8% đối tượng. Trong số các bệnh nhân nghi ngờ được khảo sát, 49,5% có nồng độ kẽm < 0,3 (µmol/l) và 58,1% có nồng độ fructose < 1,3 (g/l). Thể tích tinh dịch giảm < 1,5 (ml) kết hợp với nồng độ kẽm thấp cho phép gợi ý đến tình trạng tắc vị trí ống dẫn tinh và mào tinh. Trong khi giảm nồng độ fructose thường gợi ý tình trạng tắc nghẽn hoặc bất sản túi tinh. Tỷ lệ bất thường di truyền ở bệnh nhân vô sinh không có tinh trùng là 29% [13]. Theo thống kê, tỉ lệ đột biến nhiễm sắc thể chiếm 7% (trong đó Klinefelter chiếm khoảng 2/3 các trường hợp), bên cạnh đó có từ 10 – 15% bệnh nhân mang đột biến mất đoạn nhỏ trên NST Y [2]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ bất thường di truyền chiếm 23,6% trong đó 17,6% đối tượng có đột biến nhiễm sắc thể (66,7% có hội chứng Klinefelter) và 9,8% có đột biến mất đoạn nhỏ trên NST Y. Cùng với NST đồ, xét nghiệm tìm đột biến mất đoạn nhỏ trên NST Y có ý nghĩa lâm sàng quan trọng trong chẩn đoán, tiên lượng và tư vấn cho bệnh nhân trước khi can thiệp, đặc biệt với những trường hợp khó như Klinefelter (khi mà tỉ lệ tìm thấy tinh trùng lên tới 69% nếu không kèm các yếu tố phối hợp [13]). Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của những trường hợp vô sinh không có tinh trùng kèm theo bất thường về di truyền cũng có sự khác biệt. Trong khi thể tích tinh hoàn, nồng độ testosterone thấp hơn một cách có ý nghĩa thống kê thì ngược lại nồng độ LH và FSH huyết thanh cao hơn ở nhóm bất thường di truyền. Điều này cho thấy có mối liên quan giữa đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng với đặc điểm TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 156 TCNCYH 123 (7) - 2019 di truyền của các bệnh nhân vô sinh không có tinh trùng. V. KẾT LUẬN Ở bệnh nhân vô sinh nam không có tinh trùng, tiền sử viêm tinh hoàn quai bị chiếm tỷ lệ tương đối cao 18,3% và được xem là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng không có tinh trùng trong tinh dịch. Đa phần trên lâm sàng thường ít phát hiện bất thường, chỉ có 1,2% tinh hoàn không trong bìu và 18,8% không sờ thấy ống dẫn tinh. Tỷ lệ bất thường về di truyền của bệnh nhân vô sinh không có tinh trùng là 23,6%. Nghiên cức cho thấy có sự khác biệt rõ rệt có ý nghĩa thông kê về kích thước tinh hoàn, nồng độ LH, FSH, Testosterone giữa các bệnh nhân có bất thường về di truyền so với nhóm không có bất thường, điều này cho thấy tầm quan trọng của các xét nghiệm di truyền trong đánh giá bệnh nhân vô sinh không có tinh trùng. Đối với bệnh nhân vô sinh không có tinh trùng, việc đánh giá tổng thể về lâm sàng, cận lâm sàng cũng như đặc điểm di truyền có vai trò vô cùng quan trọng, không những hỗ trợ trong chẩn đoán, phân loại nguyên nhân, mà còn giúp tiên lượng và tư vấn phương án can thiệp phù hợp nhất với từng bệnh nhân. Lời cảm ơn Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến những bệnh nhân đã không quản ngại tốn kém về thời gian và kinh tế đã tham giam vào nghiên cứu này. Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ của tập thể Trung tâm Y Khoa số 1 Tôn Thất Tùng và khoa Ngoại Tổng hợp Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Jungwirth A., Diemer T., Kopa Z., et al (2018). EAU Guidelines on Male Infertility 2018, in European Association of Urology Guidelines 2018 Edition. European Association of Urology Guidelines Office: Arnhem, The Netherlands. 2. Practice Committee of the American Society for Reproductive Medicine in collaboration with the Society for Male, Reproduction and Urology (2018). Evaluation of the azoospermic male: a committee opinion. Fertil Steril. 109, 777 - 782. 3. Nguyễn Thành Trung (2018). Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng , cận lâm sàng của vô sinh nam không có tinh trùng và kết quả chọc hút mào tinh tại bệnh viện phụ sản Trung ương. Chuyên ngành Sản phụ khoa. Đại học Y Hà Nội. 4. Nguyễn Thành Như, Phạm Hữu Đương và Nguyễn Ngọc Tiến (2013). Nhân 300 trường hợp trích tinh trùng từ mào tinh hoàn và tinh hoàn để thực hiện vi thao tác tiêm tinh trùng vào bào tương trứng. Tạp chí Y học Việt Nam. 403, 302 - 312. 5. Emmanuel M. và Bokor B.R. (2019), Tanner Stages,. StatPearls Publishing: Treasure Island (FL). 6. Chen X.B., Li R.X., Yang H.N., et al (2014). A comprehensive, prospective study of penile dimensions in Chinese men of multiple ethnicities. Int J Impot Res. 26, 172 - 176. 7. Condorelli R., Calogero A.E. và La Vignera S. (2013). Relationship between Testicular Volume and Conventional or Nonconventional Sperm Parameters. Int J Endocrinol. 145792. 8. Olesen I.A., Andersson A.M., Aksglaede L., et al (2017). Clinical, genetic, biochemical, and testicular biopsy findings among 1,213 men evaluated for infertility. Fertil Steril. 107, 74 - 82. 9. Tuttelmann F., Werny F., Coooper T.G., et al (2011). Clinical experience with azoospermia: aetiology and chances for spermatozoa detection upon biopsy. Int J Androl. 34, 291 - 298. TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 157TCNCYH 123 (7) - 2019 10. Davis N.F., McGuire B.B., Mahon J.A., et al (2010). The increasing incidence of mumps orchitis: a comprehensive review. BJU Int. 105, 1060 - 1065. 11. Sakamoto H., Saito K., Oohta M., et al (2017). Testicular volume measurement: comparison of ultrasonography, orchidometry, and water displacement. Urology. 69, 152 - 157. 12. Gnessi L., Scarselli F., Minasi M.G., et al (2018). Testicular histopathology, semen analysis and FSH, predictive value of sperm retrieval: supportive counseling in case of reoperation after testicular sperm extraction (TESE). BMC Urol. 18, 63. 13. Lee J.Y., Dada R., Sabanegh E., et al (2011). Role of genetics in azoospermia. Urology. 77, 598 - 601. Summary CLINICAL AND LABORATORY CHARACTERISTICS OF AZOOSPERMIA MEN Azoospermia is found in 1% of all men and approximately 10 to 15% of all infertile men. The proportion of azoospermia in 3386 infertile men at Hanoi Medical University’s Hospital is 15%. A retrospective cross-sectional study included 405 azoospermia men shown that 18.3% of the study population had a history of mumps orchitis; 18.8% had absence of the vas deferens; 37.8% had testosterone deficiency; 68.4% had decreased ultrasound testicular volume. The abnormal of genetic material was found in 23.6% patients (17.6% had chromosomal abnormalities and 9.8% with Y-chromosome microdeletion). Significant differences of serum LH, FSH and testosterone concentration, and testicular volume was found between normal and abnormal genetic material. With azoospermia men, clinical, genetic, biochemical and testicular abnormal findings should be assessed carefully before performing sperm retrieval procedures. Keywords: Azoospermia, Absence of the vas deferens, Chromosomal abnormalities
File đính kèm:
dac_diem_lam_sang_va_can_lam_sang_cua_nhung_benh_nhan_nam_vo.pdf

