Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của những bệnh nhân nam vô sinh không có tinh trùng

Không có tinh trùng trong tinh dịch gặp ở 1% nam giới nói chung và xấp xỉ 10 – 15% bệnh nhân vô sinh nam.

Tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội, trong số 3.386 nam giới vô sinh đến khám, tỉ lệ không có tinh trùng chiếm 15%.

Nghiên cứu mô tả hồi cứu tiến hành trên 405 nam giới vô sinh không có tinh trùng cho thấy tiền sử viêm tinh hoàn

do quai bị chiếm 18,3%; tỉ lệ bất sản ống dẫn tinh trên lâm sàng là 18,8%; tỉ lệ suy giảm testosterone là 37,8%;

giảm thể tích tinh hoàn trên siêu âm chiếm 68,4%; tỉ lệ bất thường di truyền chiếm 23,6% (17,6% bất thường

nhiễm sắc thể và 9,8% có đột biến mất đoạn nhỏ trên nhiễm sắc thể Y). Nghiên cứu cũng cho thấy có sự khác biệt

đáng kể về nồng độ LH, FSH, testosterone, thể tích tinh hoàn trung bình giữa những bệnh nhân vô sinh không có

tinh trùng có bất thường di truyền với nhóm không có bất thường. Đối với những bệnh nhân không có tinh trùng

cần phối hợp đánh giá tổng thể về lâm sàng, cận lâm sàng và di truyền trước khi quyết định trích hút tinh trùng

pdf 11 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của những bệnh nhân nam vô sinh không có tinh trùng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của những bệnh nhân nam vô sinh không có tinh trùng

Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của những bệnh nhân nam vô sinh không có tinh trùng
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
147TCNCYH 123 (7) - 2019
Tác giả liên hệ: Nguyễn Hoài Bắc, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 26/09/2019
Ngày được chấp nhận: 10/10/2019
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG CỦA NHỮNG BỆNH 
NHÂN NAM VÔ SINH KHÔNG CÓ TINH TRÙNG 
Nguyễn Hoài Bắc1, Phạm Minh Quân1, Nguyễn Cao Thắng2
1Trường Đại học Y Hà Nội, 2Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Không có tinh trùng trong tinh dịch gặp ở 1% nam giới nói chung và xấp xỉ 10 – 15% bệnh nhân vô sinh nam. 
Tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội, trong số 3.386 nam giới vô sinh đến khám, tỉ lệ không có tinh trùng chiếm 15%. 
Nghiên cứu mô tả hồi cứu tiến hành trên 405 nam giới vô sinh không có tinh trùng cho thấy tiền sử viêm tinh hoàn 
do quai bị chiếm 18,3%; tỉ lệ bất sản ống dẫn tinh trên lâm sàng là 18,8%; tỉ lệ suy giảm testosterone là 37,8%; 
giảm thể tích tinh hoàn trên siêu âm chiếm 68,4%; tỉ lệ bất thường di truyền chiếm 23,6% (17,6% bất thường 
nhiễm sắc thể và 9,8% có đột biến mất đoạn nhỏ trên nhiễm sắc thể Y). Nghiên cứu cũng cho thấy có sự khác biệt 
đáng kể về nồng độ LH, FSH, testosterone, thể tích tinh hoàn trung bình giữa những bệnh nhân vô sinh không có 
tinh trùng có bất thường di truyền với nhóm không có bất thường. Đối với những bệnh nhân không có tinh trùng 
cần phối hợp đánh giá tổng thể về lâm sàng, cận lâm sàng và di truyền trước khi quyết định trích hút tinh trùng.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vô sinh đang trở thành một gánh nặng cho 
nền kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới. 
Theo thống kê của Hội niệu khoa châu Âu (EAU) 
cứ 8 cặp vợ chồng lại có 1 căp vô sinh nguyên 
phát và cứ 6 cặp vợ chồng lại có 1 cặp vô sinh 
thứ phát. Những nguyên nhân gây vô sinh có 
thể từ phía người nam giới, phía người nữ giới, 
hoặc từ cả hai phía. Các nghiên cứu dịch tễ 
học cho thấy, nguyên nhân từ phía người nam 
giới chiếm 30 - 40% các trường hợp vô sinh 
nói chung và tỉ lệ vô sinh nam chiếm khoảng 
7 - 15% nam giới trong cộng đồng [1]. 
Bệnh cảnh lâm sàng và cận lâm sàng của 
vô sinh nam rất đa dạng. Các chỉ số tinh dịch 
đồ thường có sự khác biệt giữa các cá thể, từ 
bình thường đến giảm mật độ, giảm di động, 
bất thường về hình thái, thậm chí không có tinh 
trùng. Vô sinh không có tinh trùng được coi là 
một trong các trường hợp khó khăn trong chẩn 
đoán và điều trị. Tỉ lệ nam giới không có tinh 
trùng chiếm 1% nam giới trong cộng đồng và 
10 - 15% trong số những người nam giới vô 
sinh [2].
Ở Việt Nam trong một thời gian dài, nguyên 
nhân vô sinh từ phía nam giới ít được chú ý. 
Do vậy, những nhận thức và hiểu biết về vô 
sinh nam nói chung và vô sinh do không có 
tinh trùng nói riêng còn nhiều hạn chế. Hầu hết 
những bệnh nhân không có tinh trùng không 
được thăm khám và đánh giá đầy đủ trước khi 
quyết định trích hút tinh hoàn, hoặc sinh thiết 
tinh hoàn để chẩn đoán. Điều này thường để lại 
hậu quả nặng nề, gây khó khăn cho quá trình 
điều trị về sau và làm giảm đi cơ hội có con của 
người bệnh. Một vài nghiên cứu gần đây mới 
chỉ dừng lại ở mức đánh giá kết quả trích hút 
tinh hoàn và mào tinh hoàn ở những bệnh nhân 
vô sinh nam không có tinh trùng [3; 4]. 
Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài “Tìm hiểu 
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và di truyền 
học của những nam giới vô sinh không có tinh 
trùng” nhằm mục tiêu:
Từ khóa: Vô sinh không có tinh trùng, Bất sản ống dẫn tinh, Bất thường nhiễm sắc thể. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
148 TCNCYH 123 (7) - 2019
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng 
và di truyền học ở những bệnh nhân nam không 
có tinh trùng.
2. Tìm hiểu mối liên quan của một số yếu 
tố lâm sàng và cận lâm sàng với tình trạng bất 
thường di truyền ở những nam giới vô sinh 
không có tinh trùng. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Trong số 3.386 bệnh nhân vô sinh nam từng 
đến khám tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ 
tháng 4 năm 2013 đến tháng 10 năm 2018, có 
505 bệnh nhân không có tinh trùng trong tinh 
dịch chiếm tỉ lệ 15%. Chúng tôi chọn ra 405 
bệnh nhân có lưu thông tin về tiền sử, bệnh sử, 
khám lâm sàng, xét nghiệm nội tiết tố, tinh dịch 
đồ, siêu âm tinh hoàn và đánh giá về di truyền 
để đưa vào nghiên cứu. 
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi 
cứu.
Khám lâm sàng:
Đối tượng tham gia nghiên cứu được đánh 
giá tổng thể trên lâm sàng. Giai đoạn dậy thì 
được đánh giá theo Tanner về đặc điểm lông 
mu (Giai đoạn 1: Không có – Giai đoạn 2: Lông 
tơ – Giai đoạn 3: Lông mu thưa – Giai đoạn 4: 
Lông che phủ gần hết vùng tam giác mu – Giai 
đoạn 5: Lông che phủ toàn bộ vùng mu đến 
trước ống bẹn lan xuống đùi) [5]. Tinh hoàn, 
mào tinh, ống dẫn tinh hai bên được khám để 
loại trừ các trường hợp tinh hoàn ẩn, lạc chỗ, 
bất sản ống dẫn tinh mào tinh. Tinh hoàn được 
xem là nhỏ khi thể tích dưới 15 ml ước lượng 
bằng thước Prader. Dương vật được đo bằng 
thước, chiều dài khi mềm và chiều dài khi kéo 
căng được xác định từ đỉnh quy đầu đến xương 
mu. Chiều dài dương vật khi kéo dãn dưới 7,5 
cm được coi là nhỏ [6]. 
Xét nghiệm tinh dịch đồ: 
Mẫu tinh dịch sau khi lấy sẽ được tiến hành 
phân tích trong vòng 1 giờ tại phòng xét nghiệm 
Bộ môn Y sinh học – Di truyền Trường Đại học 
Y Hà Nội. Bệnh nhân được chẩn đoán xác định 
khi không thấy tinh trùng trong tinh dịch sau khi 
ly tâm ở hai mẫu khác nhau. 
Nồng độ kẽm và fructose trong tinh dịch 
được tiến hành đo bằng phương pháp 5-Br-
PAPS và phương pháp ROE sau khi ly tâm mẫu 
tinh dịch trong 10 phút tốc độ 1500 g. Giá trị 
tham khảo của nồng độ hai chất này trong tinh 
dịch lần lượt là 0,3 – 1,5 µmol/l với kẽm và 1,3 – 
4,0 g/l với fructose theo khuyến cáo của phòng 
xét nghiệm đưa ra.
Siêu âm tinh hoàn:
Siêu âm được thực hiện tại khoa chẩn đoán 
hình ảnh Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Thể tích 
tinh hoàn được tính theo theo công thức V = L 
x W x H x 0,71. Thể tích tinh hoàn < 12ml được 
coi như bất thường [7].
Xét nghiệm nội tiết:
Nồng độ các nội tiết tố sinh dục trong huyết 
thanh được xác định theo phương pháp xét 
nghiệm miễn dịch điện hóa phát quang “ECLIA” 
dùng cho các máy xét nghiệm miễn dịch Cobas. 
Bộ thuốc thử xét nghiệm do hãng Roche sản 
xuất và cung cấp. Giá trị tham khảo của LH, 
FSH, Testosterone lần lượt là 1,7 – 8,6 mIU/ml; 
3,5 – 12,5 mIU/ml; 9,9 – 27,8 nmol/l. 
Đột biến mất đoạn nhỏ trên nhiễm sắc thể 
và nhiễm sắc thể đồ
Bệnh nhân được tiến hành lấy máu xét 
nghiệm tại Bộ môn Y sinh học - Di truyền 
Trường Đại học Y Hà Nội theo quy trình khép 
kín. 
3. Xử lý số liệu
Các biến liên tục được mô tả dưới dạng trung 
bình ± độ lệch chuẩn, sự khác biệt giữa 2 nhóm 
được ước tính theo thuật toán T-student test 
đối với biến phân bố chuẩn và Mann Whitney 
test với biến phân bố không chuẩn. Tất cả các 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
149TCNCYH 123 (7) - 2019
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm lâm sàng của đối tượng nghiên cứu
1.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu và sự khác biệt giữa 
các bệnh nhân vô sinh nguyên phát và thứ phát
Tổng (n) Mean ± SD n (%)
Tuổi 405 30,6 ± 5,01
BMI (kg/m2) 387 22,3 ± 2,82
< 18,5 30 (7,8%)
18,5 - 22,9 205 (53,0%)
> 22,9 152 (39,2%)
Thời gian chậm con (tháng) 390 30,6 ± 33,3
Hút thuốc lá 379
Không 287 (75,7%)
Có 92 (24,3%)
Đã can thiệp trước khi đi khám 405
Không 360 (88,9%)
Có 45 (11,1%)
Phân loại vô sinh 405
Vô sinh nguyên phát 371 (91,6%)
Vô sinh thứ phát 34 (8,4%)
Phần lớn đối tượng tham gia nghiên cứu vô sinh nguyên phát, có độ tuổi trung bình khoảng 30 
và thời gian chậm con trung bình khoảng 2,5 năm. Trong số các đối tượng nghiên cứu, tỷ lệ thừa 
cân chiếm 39,2%, chỉ có 24,3% bệnh nhân có hút thuốc. Tỷ lệ đã từng can thiệp trước khi đến khám 
tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội khá thấp chỉ khoảng hơn 11% trong đó chọc hút mào tinh (PESA) 
(27/45), thụ tinh nhân tạo (8/45), sinh thiết tinh hoàn (7/45), điều trị nội tiết (4/45).
dữ liệu trên được nhập trên Excel và phân tích 
bằng phần mềm R.
2. Đạo đức trong nghiên cứu 
Nghiên cứu này nhằm mục đích khoa học và 
giảng dạy. Các thông tin liên quan đến người 
tham gia nghiên cứu được đảm bảo bí mật. 
Nghiên cứu được sự đồng ý của Ban giám 
đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
150 TCNCYH 123 (7) - 2019
1.2. Đặc điểm về tiền sử bệnh lý liên quan của đối tượng nghiên cứu
Bảng 2. Tiền sử có liên quan đến tình trạng vô sinh không có tinh trùng
Tiền sử
Ngoại khoa 3,5%
Mổ hạ tinh hoàn một bên/hai bên 1,9% (8/405)
Mổ thoát vị bẹn 1,2% (5/405)
Mổ giãn tĩnh mạch tinh 0,3% (1/405)
Nội khoa 23,2%
Viêm tinh hoàn do quai bị 18,3% (74/405)
Viêm tinh hoàn do các căn nguyên khác 2,7% (11/405)
Viêm niệu đạo do lậu 1,7% (7/405)
Viêm niệu đạo do các căn nguyên khác 0,5% (2/405)
Chưa phát hiện bất thường 73,3%
Trong số các bệnh lý có liên quan khai thác được, tiền sử viêm tinh hoàn do quai bị chiếm phần 
lớn (68,5%), tuy nhiên phần lớn đối tượng nghiên cứu (73,3%) không có tiền sử bệnh lý liên quan 
đến tình trạng không có tinh trùng trong tinh dịch.
1.3. Đặc điểm tinh hoàn, ống dẫn tinh, mào tinh trên thăm khám lâm sàng
Bảng 3. Đặc điểm lâm sàng bộ phận sinh dục của đối tượng nghiên cứu
Tổng (n)
Mean ± SD 
[Giá trị nhỏ nhất – Giá trị lớn nhất]
n (%)
Kích thước dương vật 363
Chiều dài khi mềm (cm)
7,05 ± 0,98
[3 – 10]
Chiều dài kéo căng (cm)
12,39 ± 1,31
[8,7 – 16,5]
Đặc điểm lông mu 405
Tanner 1 5 (1,2%)
Tanner 2 1 (0,3%)
Tanner 3 22 (5,5%)
Tanner 4 5 (1,2%)
Tanner 5 372 (91,8%)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
151TCNCYH 123 (7) - 2019
Phần lớn đối tượng tham gia nghiên cứu có kích thước dương vật bình thường và đã dậy thì 
hoàn toàn dựa vào đặc điểm lông mu theo Tanner.
*ODT: Ống dẫn tinh
Biểu đồ 1. Đặc điểm tinh hoàn, ống dẫn tinh, mào tinh của đối tượng nghiên cứu (N = 405)
Gần như tất cả đối tượng tham gia nghiên cứu đều khám thấy tinh hoàn 2 bên trong bìu, tuy nhiên 
chỉ có 51% có kích thước bình thường trên lâm sàng. Bất thường về mào tinh, ống dẫn tinh quan sát 
thấy lần lượt chiếm 30,1% và 18,8% tổng số đối tượng nghiên cứu.
2.2. Đặc điểm cận lâm sàng của đối tượng nghiên cứu:
Bảng 4. Đặc điểm tinh dịch đồ, nội tiết, kích thước tinh hoàn trên siêu âm 
của đối tượng nghiên cứu
Tổng (n) Mean ± SD N (%)
Tinh dịch đồ
pH 400 7,28 ± 0,72
< 7,2 69 (17,2%)
≥ 7,2 331 (82,8%)
Thể tích (ml) 400 2,12 ± 1,36
< 1,5 139 (34,8%)
≥ 1,5 261 (65,2%)
Nồng độ kẽm (µmol/l) 188 0,32 ± 0,23
98,8%
50,6%
69,9%
81,2%
1,2%
49,4%
30,1%
18,8%
0.0%
20.0%
40.0%
60.0%
80.0%
100.0%
Vị trí tinh hoàn Kích thước tinh 
hoàn
Đặc điểm mào tinh Đặc điểm ODT
Bình thường Bất thường
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
152 TCNCYH 123 (7) - 2019
Tổng (n) Mean ± SD N (%)
< 0,3 93 (49,5%)
≥ 0,3 95 (50,5%
Nồng độ Fructose (g/l) 191 1,09 ± 0,75
< 1,3 111 (58,1%)
≥ 1,3 80 (41,9%)
Nội tiết tố
LH (mIU/ml) 405 9,95 ± 9,01
< 1,7 14 (3,5%)
1,7 – 8,6 235 (58,0%)
> 8,6 156 (38,5%)
FSH (mIU/ml) 405 18,7 ± 18,6
< 3,5 68 (16,8%)
3,5 - 12,5 144 (35,6%)
> 12,5 193 (47,7%)
Testosterone (nmol/l) 405 14,6 ± 6,76
< 12 153 (37,8%)
≥ 12 252 (62,2%)
Kích thước tinh hoàn qua siêu âm 405
Thể tích tinh hoàn phải (ml) 9,31 ± 5,59
< 12 273 (67,4%)
≥ 12 132 (32,6%)
Thể tích tinh hoàn trái (ml) 9,01 ± 5,43
< 12 288 (71,1%)
≥ 12 117 (28,9%)
Thể tích tinh hoàn trung bình (ml) 9,16 ± 5,26
< 12 277 (68,4%)
≥ 12 128 (31,6%)
Tỷ lệ bất thường về thể tích, nồng độ kẽm, fructose của đối tượng tham gia nghiên cứu lần lượt 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
153TCNCYH 123 (7) - 2019
là 34,8%; 49,5%; 58,1%. Nồng độ LH và FSH huyết thanh trung bình lần lượt là 9,95 ± 9,01mIU/
ml và 18,7 ± 18,6mIU/ml cao hơn ngưỡng giá trị tham khảo một cách tương đối. Trên siêu âm, thể 
tích tinh hoàn trung bình hai bên là 9,16 ± 5,26ml và phần lớn đến 68,4% bệnh nhân có thể tích tinh 
hoàn < 12ml.
3.3. Đặc điểm di truyền của đối tượng nghiên cứu
Bảng 5. Đặc điểm các bất thường về NST và đột biến mất đoạn nhỏ AZF
Đột biến NST 17,6% (54/306)
47, XXY 11,8% (36/306)
47, XYY 0,3% (1/306)
46, XX 0,9% (3/306)
Thể khảm (45, X/46, XY, del(Yq); 46, XY/45, X) 0,9% (3/306)
46, XY, del(Yq) 0,3% (1/306)
Đột biến trên NST thường 3,3% (10/306)
Không có độ biến NST 82,4% (252/306)
Đột biến mất đoạn nhỏ AZF 9,8% (29/297)
Không có đột biến mất đoạn nhỏ AZF 90,2% (268/297)
Tỷ lệ đột biến NST và đột biến mất đoạn nhỏ AZF trên NST Y lần lượt là 17,6% và 9,8% các đối 
tượng được khảo sát, trong số đó tỷ lệ gặp hội chứng Klinefelter chiếm tỷ lệ cao nhất 11,8%.
Bảng 6. Đặc điểm cận lâm sàng của nhóm có bất thường di truyền so 
với nhóm bình thường
Nhóm bình thường 
(n = 236)
Mean ± SD
Nhóm bất 
thường di truyền 
(n = 73)
Mean ± SD
Giá trị P
Tuổi 30,6 ± 5,1 29,1 ± 3,6 0,022
Thời gian chậm con (tháng) 32,2 ± 33,8 23,2 ± 21,2 0,034
BMI (kg/m2) 22,4 ± 2,7 21,9 ± 3,4 0,241
LH (mIU/ml) 7,5 ± 5,8 17,2 ± 13,0 < 0,001
FSH (mIU/ml) 14,7 ± 16,1 30,5 ± 23,0 < 0,001
Testosterone (nmol/l) 15,6 ± 6,4 11,4 ± 6,8 < 0,001
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
154 TCNCYH 123 (7) - 2019
Nhóm bình thường 
(n = 236)
Mean ± SD
Nhóm bất 
thường di truyền 
(n = 73)
Mean ± SD
Giá trị P
Thể tích tinh dịch (ml) 2,2 ± 1,4 1,8 ±1,2 0,029
pH tinh dịch 7,2 ± 0,7 7,5 ± 0,6 0,001
Thể tích tinh hoàn trung bình (ml) 10,6 ± 4,7 5,4 ± 5,1 < 0,001
Chúng tôi nhận thấy sự khác biệt có ý nghĩa thông kê khi so sánh về tuổi, thời gian chậm con, 
các kết quả xét nghiệm nội tiết, tinh dịch, siêu âm tinh hoàn giữa nhóm có bất thường di truyền với 
nhóm không có bất thường.
IV. BÀN LUẬN
Đối tượng tham gia nghiên cứu phần lớn 
vô sinh nguyên phát (91,6%) và trong độ tuổi 
sinh sản. Tuổi và thời gian chậm con trung bình 
khá tương đồng với một số nghiên cứu trong và 
ngoài nước [3; 8]. Về tiền sử, chỉ có 26,7% các 
trường hợp đã từng phẫu thuật vùng bẹn bìu – 
sinh dục như thoát vị bẹn, giãn tĩnh mạch tinh, 
tinh hoàn ẩn, hoặc từng có viêm nhiễm đường 
tiết niệu sinh dục (Bảng 2), tỷ lệ này là 31% 
theo tác giả Tüttelmann khi nghiên cứu trên 
1.583 nam giới [9]. Tỉ lệ bệnh nhân từng viễm 
nhiễm đường tiết niệu sinh dục trong nghiên 
cứu là 23,2% cao gấp hai lần nghiên cứu của 
tác giả Tüttelmann (10,3%) , có thể giải thích do 
đặc điểm khí hậu và dịch tễ [9]. 
Một điểm đáng chú ý trong tiền sử là có tới 
18,3% đối tượng nghiên cứu từng bị viêm tinh 
hoàn do quai bị. Vi rút quai bị có ái tính cao với 
nhu mô tinh hoàn, gây phù nề nhu mô, sung 
huyết ống sinh tinh dẫn tới hoại tử kèm theo 
quá trình hyalin hóa ống sinh tinh và xơ teo tinh 
hoàn. Số lượng và chất lượng tinh trùng có thể 
bị ảnh hưởng tùy mức độ tổn thương, nặng nề 
nhất có thể dẫn tới không có tinh trùng trong 
tinh dịch [10]. Viêm tinh hoàn do quai bị là một 
trong những nguyên nhân có thể gây vô sinh, vì 
vậy cần phải nâng cao ý thức cộng đồng về các 
biện pháp phòng chống quai bị, cũng như cách 
xử trí các trường hợp viêm tinh hoàn do quai bị.
Hầu hết bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu 
đã hoàn toàn dậy thì (theo Tanner) [5] chiếm 
91,8%; với kích thước dương vật trung bình 
tương ứng với của quần thể người châu Á [6] 
và chỉ có 6,9% bệnh nhân có bất thường về 
dương vật.
Tinh hoàn là nơi sản xuất tinh trùng, do vậy 
vị trí, kích thước tinh hoàn và mào tinh hoàn, 
cũng như tình trạng ống dẫn tinh có vai trò vô 
cùng quan trọng trong hoạt động sinh sản ở 
nam giới. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
khoảng 1,2% bệnh nhân có bất thường vị trị 
của tinh hoàn một bên hoặc cả hai bên, tương 
đồng với nghiên cứu của Olesen và cộng sự 
[8], điều này cho thấy dị tật tinh hoàn không 
xuống bìu thường được can thiệp sớm và ít khi 
đến khám vì lý do chậm con. 
Tắc nghẽn mào tinh và ống dẫn tinh là 
nguyên nhân thường gặp trong vô sinh không 
có tinh trùng do tắc, trong đó 30 – 67% do tắc 
nghẽn ở mào tinh, 9% do bất sản đường dẫn 
tinh một hoặc hai bên liên quan đến đột biến 
gen CFTR trên NST số 7 [1]. Nghiên cứu của 
chúng tôi cho thấy 31,1% các trường hợp có 
bất thường mào tinh nghi ngờ đến tình trạng 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
155TCNCYH 123 (7) - 2019
tắc nghẽn mào tinh và ống dẫn tinh, 18,8% có 
bất sản ống dẫn tinh một hoặc hai bên (Biểu đồ 
1). Mặc dù tình trạng không có tinh trùng do tắc 
chỉ chiếm 15 – 20% các trường hợp [1], nhưng 
thường rất đặc trưng và có thể chẩn đoán trên 
lâm sàng. 
Thể tích tinh hoàn là một thông số vô cùng 
quan trọng trong đánh giá bệnh nhân vô sinh 
không có tinh trùng, thường được ước lượng 
bằng thước Prader hoặc đo trên siêu âm. Tuy 
nhiên, thể tích tinh hoàn trên siêu âm theo công 
thức Lambert được chứng minh là có độ chính 
xác cao nhất với sai số khoảng 7,42% [11]. 
Trên siêu âm, thể tích tinh hoàn < 12 (ml) được 
xem là tinh hoàn nhỏ [7]. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi kích thước tinh hoàn trung bình (hai 
bên) là 9,16 ± 5,26 (ml), trong đó tỉ lệ tinh hoàn 
nhỏ chiếm 68,4%, nhỏ hơn so với thể tích trung 
bình 11,3 (ml) trong nghiên cứu của Olesen 
và cộng sự trên 1.213 nam giới vô sinh người 
Châu Âu [8]. Kích thước tinh hoàn là một yếu 
tố tiên lượng khả năng tìm thấy tinh trùng trong 
tinh hoàn [12], tuy nhiên hiện nay chưa có giá 
trị tham khảo về thể tích tinh hoàn trên siêu âm 
cho người Châu Á.
Hoạt động của vùng dưới đồi - tuyến yên - 
tuyến sinh dục được phản ánh qua nồng độ LH, 
FSH, testosterone giữ vai trò trong phân biệt 
tình trạng không có tinh trùng do các nguyên 
nhân: tại tinh hoàn, trước tinh hoàn hay sau 
tinh hoàn. Nồng độ testosterone trung bình của 
đối tượng nghiên cứu nằm trong giới hạn, tỉ lệ 
suy giảm testosterone chiếm 38,7%. Nồng độ 
LH và FSH lại vượt ngưỡng giá trị tham khảo, 
tương tự các nghiên cứu khác; trong đó tỉ lệ 
tăng LH và FSH lần lượt là 38,5% và 47,7% 
[3; 12]. Testosterone giảm phản ánh suy chức 
năng tinh hoàn. LH và FSH thường tăng trong 
điều hòa ngược của hệ nội tiết hoặc giảm do 
suy chức năng tuyến yên, vùng dưới đồi. Trong 
khi nồng độ nội tiết bình thường gợi ý nhiều đến 
các nguyên nhân do tắc nghẽn.
Thể tích cùng với nồng độ kẽm và fructose 
của tinh dịch có vai trò quan trọng trong việc 
chẩn đoán phân biệt không có tinh trùng do 
tắc hoặc không do tắc. Thể tích tinh dịch < 
1,5 (ml) gặp ở 34,8% đối tượng. Trong số các 
bệnh nhân nghi ngờ được khảo sát, 49,5% có 
nồng độ kẽm < 0,3 (µmol/l) và 58,1% có nồng 
độ fructose < 1,3 (g/l). Thể tích tinh dịch giảm 
< 1,5 (ml) kết hợp với nồng độ kẽm thấp cho 
phép gợi ý đến tình trạng tắc vị trí ống dẫn tinh 
và mào tinh. Trong khi giảm nồng độ fructose 
thường gợi ý tình trạng tắc nghẽn hoặc bất sản 
túi tinh. 
Tỷ lệ bất thường di truyền ở bệnh nhân 
vô sinh không có tinh trùng là 29% [13]. Theo 
thống kê, tỉ lệ đột biến nhiễm sắc thể chiếm 
7% (trong đó Klinefelter chiếm khoảng 2/3 các 
trường hợp), bên cạnh đó có từ 10 – 15% bệnh 
nhân mang đột biến mất đoạn nhỏ trên NST Y 
[2]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ bất 
thường di truyền chiếm 23,6% trong đó 17,6% 
đối tượng có đột biến nhiễm sắc thể (66,7% 
có hội chứng Klinefelter) và 9,8% có đột biến 
mất đoạn nhỏ trên NST Y. Cùng với NST đồ, 
xét nghiệm tìm đột biến mất đoạn nhỏ trên 
NST Y có ý nghĩa lâm sàng quan trọng trong 
chẩn đoán, tiên lượng và tư vấn cho bệnh nhân 
trước khi can thiệp, đặc biệt với những trường 
hợp khó như Klinefelter (khi mà tỉ lệ tìm thấy 
tinh trùng lên tới 69% nếu không kèm các yếu 
tố phối hợp [13]).
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của 
những trường hợp vô sinh không có tinh trùng 
kèm theo bất thường về di truyền cũng có sự 
khác biệt. Trong khi thể tích tinh hoàn, nồng 
độ testosterone thấp hơn một cách có ý nghĩa 
thống kê thì ngược lại nồng độ LH và FSH 
huyết thanh cao hơn ở nhóm bất thường di 
truyền. Điều này cho thấy có mối liên quan giữa 
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng với đặc điểm 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
156 TCNCYH 123 (7) - 2019
di truyền của các bệnh nhân vô sinh không có 
tinh trùng.
V. KẾT LUẬN
Ở bệnh nhân vô sinh nam không có tinh 
trùng, tiền sử viêm tinh hoàn quai bị chiếm tỷ lệ 
tương đối cao 18,3% và được xem là một trong 
những nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng 
không có tinh trùng trong tinh dịch. Đa phần 
trên lâm sàng thường ít phát hiện bất thường, 
chỉ có 1,2% tinh hoàn không trong bìu và 18,8% 
không sờ thấy ống dẫn tinh. Tỷ lệ bất thường về 
di truyền của bệnh nhân vô sinh không có tinh 
trùng là 23,6%.
Nghiên cức cho thấy có sự khác biệt rõ rệt 
có ý nghĩa thông kê về kích thước tinh hoàn, 
nồng độ LH, FSH, Testosterone giữa các bệnh 
nhân có bất thường về di truyền so với nhóm 
không có bất thường, điều này cho thấy tầm 
quan trọng của các xét nghiệm di truyền trong 
đánh giá bệnh nhân vô sinh không có tinh trùng.
Đối với bệnh nhân vô sinh không có tinh 
trùng, việc đánh giá tổng thể về lâm sàng, cận 
lâm sàng cũng như đặc điểm di truyền có vai trò 
vô cùng quan trọng, không những hỗ trợ trong 
chẩn đoán, phân loại nguyên nhân, mà còn 
giúp tiên lượng và tư vấn phương án can thiệp 
phù hợp nhất với từng bệnh nhân. 
Lời cảm ơn
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến 
những bệnh nhân đã không quản ngại tốn kém 
về thời gian và kinh tế đã tham giam vào nghiên 
cứu này. Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ của tập thể 
Trung tâm Y Khoa số 1 Tôn Thất Tùng và khoa 
Ngoại Tổng hợp Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Jungwirth A., Diemer T., Kopa Z., et al 
(2018). EAU Guidelines on Male Infertility 2018, 
in European Association of Urology Guidelines 
2018 Edition. European Association of Urology 
Guidelines Office: Arnhem, The Netherlands.
2. Practice Committee of the American 
Society for Reproductive Medicine in 
collaboration with the Society for Male, 
Reproduction and Urology (2018). Evaluation 
of the azoospermic male: a committee opinion. 
Fertil Steril. 109, 777 - 782.
3. Nguyễn Thành Trung (2018). Nghiên 
cứu đặc điểm lâm sàng , cận lâm sàng của vô 
sinh nam không có tinh trùng và kết quả chọc 
hút mào tinh tại bệnh viện phụ sản Trung ương. 
Chuyên ngành Sản phụ khoa. Đại học Y Hà 
Nội.
4. Nguyễn Thành Như, Phạm Hữu 
Đương và Nguyễn Ngọc Tiến (2013). Nhân 
300 trường hợp trích tinh trùng từ mào tinh 
hoàn và tinh hoàn để thực hiện vi thao tác tiêm 
tinh trùng vào bào tương trứng. Tạp chí Y học 
Việt Nam. 403, 302 - 312.
5. Emmanuel M. và Bokor B.R. (2019), 
Tanner Stages,. StatPearls Publishing: 
Treasure Island (FL).
6. Chen X.B., Li R.X., Yang H.N., et al 
(2014). A comprehensive, prospective study of 
penile dimensions in Chinese men of multiple 
ethnicities. Int J Impot Res. 26, 172 - 176.
7. Condorelli R., Calogero A.E. và 
La Vignera S. (2013). Relationship between 
Testicular Volume and Conventional or 
Nonconventional Sperm Parameters. Int J 
Endocrinol. 145792.
8. Olesen I.A., Andersson A.M., 
Aksglaede L., et al (2017). Clinical, genetic, 
biochemical, and testicular biopsy findings 
among 1,213 men evaluated for infertility. Fertil 
Steril. 107, 74 - 82.
9. Tuttelmann F., Werny F., Coooper 
T.G., et al (2011). Clinical experience with 
azoospermia: aetiology and chances for 
spermatozoa detection upon biopsy. Int J 
Androl. 34, 291 - 298.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
157TCNCYH 123 (7) - 2019
10. Davis N.F., McGuire B.B., Mahon 
J.A., et al (2010). The increasing incidence of 
mumps orchitis: a comprehensive review. BJU 
Int. 105, 1060 - 1065.
11. Sakamoto H., Saito K., Oohta M., 
et al (2017). Testicular volume measurement: 
comparison of ultrasonography, orchidometry, 
and water displacement. Urology. 69, 152 - 
157.
12. Gnessi L., Scarselli F., Minasi M.G., 
et al (2018). Testicular histopathology, semen 
analysis and FSH, predictive value of sperm 
retrieval: supportive counseling in case of 
reoperation after testicular sperm extraction 
(TESE). BMC Urol. 18, 63.
13. Lee J.Y., Dada R., Sabanegh E., et 
al (2011). Role of genetics in azoospermia. 
Urology. 77, 598 - 601.
Summary
CLINICAL AND LABORATORY CHARACTERISTICS OF 
AZOOSPERMIA MEN
Azoospermia is found in 1% of all men and approximately 10 to 15% of all infertile men. The 
proportion of azoospermia in 3386 infertile men at Hanoi Medical University’s Hospital is 15%. 
A retrospective cross-sectional study included 405 azoospermia men shown that 18.3% of 
the study population had a history of mumps orchitis; 18.8% had absence of the vas deferens; 
37.8% had testosterone deficiency; 68.4% had decreased ultrasound testicular volume. 
The abnormal of genetic material was found in 23.6% patients (17.6% had chromosomal 
abnormalities and 9.8% with Y-chromosome microdeletion). Significant differences of serum 
LH, FSH and testosterone concentration, and testicular volume was found between normal and 
abnormal genetic material. With azoospermia men, clinical, genetic, biochemical and testicular 
abnormal findings should be assessed carefully before performing sperm retrieval procedures. 
Keywords: Azoospermia, Absence of the vas deferens, Chromosomal abnormalities 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_lam_sang_va_can_lam_sang_cua_nhung_benh_nhan_nam_vo.pdf