Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh thận lupus được phát hiện sớm bằng xét nghiệm micoralbumin/creatinine niệu

Bệnh thận lupus làm tăng tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân SLE, nhưng chỉ 2/3 trường hợp có biểu

hiện trên lâm sàng, số còn lại không biểu hiện rõ ràng được gọi là viêm thận lupus câm. Mục tiêu của nghiên

cứu nhằm đánh giá đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở bệnh nhân viêm thận lupus được phát hiện sớm

bằng xét nghiệm Micoralbumin/creatinine niệu (ACR niệu). Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 110 bệnh nhân

được chẩn đoán SLE theo tiêu chuẩn SLICC 2012 mà chưa có tổn thương thận trước đó, tiến hành tại

phòng khám quản lý Lupus bệnh viện Bạch Mai. Kết quả cho thấy có 22/110 bệnh nhân SLE có xét nghiệm

ACR dương tính (ACR ≥ 3 mg/mmol), chiếm tỷ lệ 20%. Xét nghiệm có độ nhạy 100%, độ đặc hiệu 83,8%,

giá trị dự báo dương tính 22,7% và giá trị dự báo âm tính là 100%. Không có sự khác biệt về lâm sàng và

cận lâm sàng giữa nhóm bệnh nhân SLE có xét nghiệm ACR dương tính và nhóm bệnh nhân có ACR âm

tính.

pdf 8 trang phuongnguyen 2540
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh thận lupus được phát hiện sớm bằng xét nghiệm micoralbumin/creatinine niệu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh thận lupus được phát hiện sớm bằng xét nghiệm micoralbumin/creatinine niệu

Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh thận lupus được phát hiện sớm bằng xét nghiệm micoralbumin/creatinine niệu
 60 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG 
CỦA BỆNH THẬN LUPUS ĐƯỢC PHÁT HIỆN SỚM 
BẰNG XÉT NGHIỆM MICORALBUMIN/CREATININE NIỆU 
Nguyễn Anh Minh, Hoàng Thị Lâm 
Trường Đại học Y Hà Nội 
Bệnh thận lupus làm tăng tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân SLE, nhưng chỉ 2/3 trường hợp có biểu 
hiện trên lâm sàng, số còn lại không biểu hiện rõ ràng được gọi là viêm thận lupus câm. Mục tiêu của nghiên 
cứu nhằm đánh giá đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở bệnh nhân viêm thận lupus được phát hiện sớm 
bằng xét nghiệm Micoralbumin/creatinine niệu (ACR niệu). Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 110 bệnh nhân 
được chẩn đoán SLE theo tiêu chuẩn SLICC 2012 mà chưa có tổn thương thận trước đó, tiến hành tại 
phòng khám quản lý Lupus bệnh viện Bạch Mai. Kết quả cho thấy có 22/110 bệnh nhân SLE có xét nghiệm 
ACR dương tính (ACR ≥ 3 mg/mmol), chiếm tỷ lệ 20%. Xét nghiệm có độ nhạy 100%, độ đặc hiệu 83,8%, 
giá trị dự báo dương tính 22,7% và giá trị dự báo âm tính là 100%. Không có sự khác biệt về lâm sàng và 
cận lâm sàng giữa nhóm bệnh nhân SLE có xét nghiệm ACR dương tính và nhóm bệnh nhân có ACR âm 
tính. 
Từ khóa: lupus ban đỏ hệ thống, microalbumin/creatinin niệu 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Lupus ban đỏ hệ thống (Systemic lupus 
erythematosus - SLE) là bệnh tự miễn có biểu 
hiện tổn thương ở nhiều hệ cơ quan nhưng 
chủ yếu là biểu hiện ở da, niêm mạc, khớp và 
thận [1]. Bệnh không thể điều trị khỏi triệt để 
nhưng bệnh nhân Lupus ban đỏ hệ thống vẫn 
phải được khám, theo dõi và quản lý bệnh 
theo định kỳ nhằm hạn chế các đợt cấp của 
bệnh, đồng thời giúp phát hiện sớm tổn 
thương các cơ quan nội tạng để điều trị bệnh 
một cách kịp thời [2]. Bệnh thận lupus làm 
tăng tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân 
Lupus ban đỏ hệ thống, nhưng chỉ 2/3 trường 
hợp có biểu hiện trên lâm sàng, số còn lại 
không biểu hiện rõ ràng được gọi là viêm thận 
lupus câm [3; 4]. Viêm thận lupus câm được 
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Anh Minh, Bộ môn Dị ứng – Miễn 
dịch lâm sàng, Trường Đại học Y Hà Nội 
Email: anhminha3@gmail.com 
Ngày nhận: 10/6/2018 
Ngày được chấp thuận: 15/8/2018 
khẳng định qua sinh thiết thận một cách hệ 
thống, tuy nhiên đây là một thủ thuật xâm lấn, 
phức tạp và giá thành cao, không phù hợp 
cho việc khám định kỳ hàng tháng. Trong khi 
đó xét nghiệm tỷ số ACR (microalbumin/
creatinine niệu) thông qua việc thu thập mẫu 
nước tiểu ngẫu nhiên lại đơn giản, vô hại, rẻ 
tiền và có mối liên quan chặt chẽ với nồng độ 
protein niệu 24 giờ [5; 6]. 
 Đã có nhiều nghiên cứu về tổn thương 
thận ở bệnh nhân Lupus ban đỏ hệ thống 
nhưng thường là những tổn thương thận 
được phát hiện muộn ở giai đoạn sau, hoặc 
chỉ được phát hiện sớm qua sinh thiết thận, 
do đó nghiên cứu này được tiến hành nhằm 
đánh giá các đặc điểm lâm sàng và cận lâm 
sàng ở bệnh nhân Lupus ban đỏ hệ thống có 
tổn thương thận được phát hiện sớm bằng xét 
nghiệm Micoralbumin/creatinine niệu (ACR 
niệu). 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 61 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Đối tượng nghiên cứu gồm 110 bệnh nhân 
lupus ban đỏ hệ thống đang điều trị ngoại trú 
tại phòng khám và quản lý lupus ban đỏ hệ 
thống - khoa Khám bệnh Bệnh viện Bạch Mai 
từ tháng 7/2014 đến tháng 7/2015. 
Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân 
- Bệnh nhân được chọn là các bệnh nhân 
đã được chẩn đoán Lupus ban đỏ hệ thống 
mà chưa phát hiện tổn thương cầu thận trước 
đó (protein niệu âm tính ở các xét nghiệm 
tổng phân tích nước tiểu trước đó và khai thác 
tiền sử không có tổn thương thận). Chẩn đoán 
xác định Lupus ban đỏ hệ thống dựa trên tiêu 
chuẩn của Hiệp hội lâm sàng quốc tế về bệnh 
Lupus hệ thống SLICC 2012 (Systemic Lupus 
International Collaborating Clinics) [7] (gồm 11 
tiêu chuẩn lâm sàng và 6 tiêu chuẩn miễn 
dịch): Bệnh nhân thỏa mãn 4/11 tiêu chuẩn 
trong đó có ít nhất 1 tiêu chuẩn lâm sàng và 1 
tiêu chuẩn xét nghiệm, hoặc khi bệnh nhân 
được xác định bệnh thận lupus bởi sinh thiết 
thận và có thêm hoặc kháng thể kháng nhân 
dương tính hoặc kháng thể kháng dsDNA 
dương tính. 
- ACR dương tính khi giá trị ACR ≥ 3 mg/
mmol. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Những bệnh nhân được chẩn đoán Lupus 
ban đỏ hệ thống nhưng có tổn thương thận 
trước đó, hoặc không rõ tiền sử tổn thương 
cầu thận hay không? Bệnh nhân bị nhiễm 
khuẩn tiết niệu, sỏi thận, suy thậnt hoặc mắc 
các bệnh lý gây tổn thương thận như tăng 
huyết áp, đái tháo đường, suy tim. Bệnh nhân 
là phụ nữ có thai, trong chu kỳ kinh nguyệt. 
Bệnh nhân có đầy đủ tiêu chuẩn nhưng không 
hợp tác. 
2. Phương pháp 
• Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang với cỡ mẫu 
lâm sàng thuận tiện, gồm 110 bệnh nhân. 
• Các bước tiến hành nghiên cứu 
Lựa chọn những bệnh nhân được chẩn 
đoán Lupus ban đỏ hệ thống theo tiêu chuẩn 
SLICC 2012 mà chưa có tổn thương thận 
trước đó. Thu thập thông tin cơ bản và bệnh 
tật của bệnh nhân theo bệnh án mẫu. Khai 
thác thông tin tiền sử, bệnh sử, khám lâm 
sàng. Bệnh nhân được làm các xét nghiệm cơ 
bản kết hợp thêm xét nghiệm microalbumin 
niệu và creatinine niệu. Tính tỷ số ACR và 
đánh giá kết quả. 
3. Xử lý số liệu 
Số liệu thu được qua nghiên cứu được xử 
lý bằng phần mềm SPSS 20.0. Kiểm định χ2 
để so sánh các tỉ lệ. Các test thống kê được 
kiểm định với mức khác biệt có ý nghĩa, 
p < 0,05. 
4. Đạo đức nghiên cứu 
Tất cả các hoạt động tiến hành trong 
nghiên cứu này đều tuân thủ qui định và 
nguyên tắc chuẩn mực về đạo đức nghiên 
cứu y sinh học của Việt Nam và quốc tế. Các 
hoạt động nghiên cứu không gây nguy hiểm 
và các nguy cơ cho đối tượng nghiên cứu. Tất 
cả các đối tượng nghiên cứu tự nguyện tham 
gia vào nghiên cứu sau khi được tư vấn đầy 
đủ. Các số liệu y học mang tính cá nhân trong 
nghiên cứu được đảm bảo nguyên tắc bí mật. 
III. KẾT QUẢ 
Trong số 110 bệnh nhân nghiên cứu có 22 
bệnh nhân có xét nghiệm ACR dương tính 
 62 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
(với ACR ≥ 3 mg/mmol) (chiếm tỷ lệ 20%), 88 
bệnh nhân có ACR âm tính (chiếm tỷ lệ 80%). 
1. Đặc điểm chung của nhóm bệnh nhân 
nghiên cứu 
110 bệnh nhân trong nghiên cứu gồm 99 
nữ (chiếm 90%) và 11 nam (chiếm 10%), tỷ lệ 
nữ/nam = 9/1, sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê, p < 0,001. Tuy nhiên khi so sánh sự phân 
bố giới tính giữa 2 nhóm ACR dương tính và 
âm tính thì không có sự khác biệt, p > 0,05. 
Độ tuổi trung bình là 36,35 ± 13,25 (tuổi), 
trong đó bệnh nhân nhỏ tuổi nhất là 14, cao 
nhất là 74 tuổi. Nhóm tuổi gặp nhiều nhất là 
20 - 39 tuổi, chiếm tỷ lệ 51,9%. 
Thời gian mắc bệnh trung bình là 5,02 ± 
3,86 năm, trong đó ngắn nhất là vừa phát hiện 
bệnh, lâu nhất là 18 năm. Khoảng thời gian 
mắc bệnh từ 1 - 5 năm gặp nhiều nhất, chiếm 
48,6%. Khi so sánh thời gian mắc bệnh trung 
bình giữa 2 nhóm cho thấy thời gian mắc 
bệnh của nhóm bệnh nhân có ACR dương 
tính là 6,55 ± 3,89 năm, cao hơn so với nhóm 
bệnh nhân có ACR âm tính là 4,66 ± 3,79 năm, 
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, p < 0,05. 
2. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng 
Biểu đồ 1. Đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân Lupus ban đỏ hệ thống theo tiêu chuẩn 
SLICC 2012 
Tổn thương khớp, rụng tóc và tổn thương da là thường gặp nhất với tỷ lệ tương ứng là 
63,7%, 57,9% và 43,2%. Viêm thanh mạc ít gặp hơn (18,2%), rối loạn tâm thần kinh hiếm gặp 
nhất (1,1%). Không có sự khác biệt về đặc điểm lâm sàng giữa nhóm bệnh nhân có ACR dương 
tính và nhóm bệnh nhân có ACR âm tính. 
Công thức máu, các chỉ số sinh hóa máu 
Không có sự khác biệt về công thức máu và các chỉ số sinh hóa máu giữa nhóm bệnh nhân 
có ACR dương tính và nhóm bệnh nhân có ACR âm tính (về chức năng gan, thận, mỡ máu) 
(bảng 1). 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 63 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Bảng 1. Xét nghiệm máu (công thức máu, sinh hóa máu) 
Chỉ số 
ACR dương tính ACR âm tính 
p 
n % n % 
Rối loạn huyết học 
Có 7 33,3 24 27,6 
0,601 
Không 14 66,7 63 72,4 
Rối loạn chức 
năng gan 
Có 4 18,2 14 16,1 
0,814 
Không 18 81,8 73 83,9 
Rối loạn chức 
năng thận 
Có 2 9,1 15 17,4 
0,337 
Không 20 90,1 71 82,6 
Cholesterol máu 
Bình thường 10 83,3 37 88,1 
0,665 
Tăng 2 16,7 5 11,9 
Triglyceride máu 
Bình thường 14 73,7 65 82,3 
0,395 
Tăng 5 26,3 14 17,7 
LDL-C máu 
Bình thường 6 66,7 28 73,7 
0,672 
Tăng 3 33,3 10 26,3 
Xét nghiệm nước tiểu 
Bảng 2. Xét nghiệm nước tiểu 
Chỉ số 
ACR dương tính ACR âm tính 
p 
n % n % 
Protein 
niệu 
Âm tính 17 77,3 88 100 
< 0,001 Dương tính 5 22,7 0 0 
Hồng cầu 
niệu 
Âm tính 14 63,6 59 67 
0,473 
Dương tính 8 36,4 29 33 
Bạch cầu 
niệu 
Âm tính 10 45,5 48 54,5 
0,299 
Dương tính 12 54,5 40 45,5 
Có 5 bệnh nhân xét nghiệm protein niệu dương tính và đều thuộc nhóm ACR dương tính. 17 
bệnh nhân với ACR dương tính còn lại và tất cả bệnh nhân với ACR âm tính đều có xét nghiệm 
protein niệu âm tính. Sự khác biệt về protein niệu giữa 2 nhóm là có ý nghĩa thống kê, p < 0,05. 
Mối tương quan giữa ACR và protein niệu theo phương trình: y = 0,013x + 0,042, với r = 0,602, 
p < 0,001. ACR nước tiểu có mối tương quan tuyến tính thuận khá chặt với protein niệu. 
Không có sự khác biệt về hồng cầu niệu và bạch cầu niệu giữa 2 nhóm bệnh nhân. 
 64 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
3. Độ nhạy và độ đặc hiệu của xét nghiệm ACR trong phát hiện sớm tổn thương thận ở 
bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống 
Xét nghiệm ACR có độ nhạy 100%, độ đặc hiệu 83,8%, giá trị dự báo dương tính và âm tính 
lần lượt là 22,7% và 100%. 
Sử dụng đường cong ROC để tính độ nhạy, độ đặc hiệu của xét nghiệm ACR trong phát hiện 
sớm tổn thương thận, ta có biểu đồ sau: 
Biểu đồ 2. Đường cong ROC của ACR niệu 
Sử dụng đường cong ROC xác định giá trị YOUDEX J để xác định điểm cắt có giá trị 0,075 
tương ứng với diện tích dưới đường cong là 0,774. Khi ACR có giá trị 9,89 mg/mmol thì giá trị 
protein niệu là 0,3 g/l, với độ nhạy và độ đặc hiệu là cao nhất tương ứng là 100% và 99,52%. 
IV. BÀN LUẬN 
Trong số 110 bệnh nhân nghiên cứu có 22 
bệnh nhân có xét nghiệm ACR dương tính 
(ACR ≥ 3 mg/mmol) chiếm tỷ lệ 20%. Như vậy 
qua xét nghiệm ACR nước tiểu ngẫu nhiên đã 
phát hiện sớm tổn thương thận ở 20% bệnh 
nhân chưa có tiền sử bệnh thận trước đó. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nữ giới 
mắc bệnh nhiều hơn nam với tỷ lệ nữ:nam = 
9:1. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu 
trong và ngoài nước: Nguyễn Văn Đĩnh là 
10:1; John Reynolds là 9: 1 [8]. Điều này một 
lần nữa khẳng định lupus ban đỏ hệ thống 
thường gặp ở nữ và có liên quan mật thiết với 
hormon sinh dục nữ. 
Độ tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân 
nghiên cứu là 36,35 ± 13,25 tuổi, độ tuổi này 
khá thường gặp ở các bệnh nhân lupus ban 
đỏ hệ thống, liên quan đến hoạt động sinh 
dục. Kết quả này phù hợp với HE Matar là 
36,5 ± 12,8 tuổi [9]. 
Thời gian mắc bệnh trung bình là 5,02 ± 
3,86 năm, ngắn nhất là vừa phát hiện bệnh, 
lâu nhất là 18 năm. Khi so sánh thời gian mắc 
bệnh giữa hai nhóm cho thấy thời gian mắc 
bệnh trung bình ở nhóm bệnh nhân có ACR 
dương tính (6,55 ± 3,89 năm) là cao hơn so 
với nhóm có ACR âm tính (4,66 ± 3,79 năm), 
sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê. Như 
vậy, bệnh nhân có thời gian mắc bệnh càng 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 65 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
lâu thì nguy cơ tổn thương thận càng cao, sự 
xuất hiện ACR càng rõ ràng. 
 Dựa trên tiêu chuẩn SLICC 2012 trong 
chẩn đoán SLE chúng tôi khảo sát một số đặc 
điểm lâm sàng ở nhóm bệnh nhân trong 
nghiên cứu cho thấy tổn thương khớp 
(63,7%), rụng tóc (57,9%) và tổn thương da 
(43,2%) là thường gặp nhất, viêm thanh mạc 
ít gặp hơn (18,2%), rối loạn tâm thần kinh 
hiếm gặp nhất (1,1%). Không có sự khác biệt 
về đặc điểm lâm sàng giữa nhóm bệnh nhân 
có ACR dương tính và nhóm bệnh nhân có 
ACR âm tính. Điều này chứng tỏ không thể 
đánh giá tổn thương thận sớm qua các đặc 
điểm lâm sàng được. 
Có 5 bệnh nhân trong nghiên cứu có pro-
tein niệu dương tính, và tất cả đều thuộc 
nhóm bệnh nhân có ACR dương tính. 17 bệnh 
nhân có ACR dương tính còn lại xét nghiệm 
đều có protein niệu âm tính. Điều này có 
nghĩa nếu chỉ xét nghiệm protein niệu theo 
mẫu xét nghiệm thường quy thì chỉ phát hiện 
được 5 bệnh nhân là có tổn thương thận, 
trong khi bằng xét nghiệm ACR có thể phát 
hiện được 22 trường hợp. Chứng tỏ nếu chỉ 
xét nghiệm protein niệu thường quy thì đã bỏ 
sót 17 trường hợp tổn thương thận, những 
trường hợp bị bỏ sót này sẽ không được điều 
trị kịp thời mà diễn biến âm thầm, dẫn đến 
những tai biến nặng nề cho bệnh nhân. Như 
vậy protein niệu dương tính sau khi ACR 
dương tính, hay nói cách khác ACR có giá trị 
phát hiện sớm tổn thương thận hơn so với xét 
nghiệm protein niệu, một khi có protein niệu 
thì đã có tổn thương thận từ trước đó. 
Không có sự khác biệt về công thức máu, 
sinh hóa máu, xét nghiệm nước tiểu về hồng 
cầu niệu và bạch cầu niệu giữa nhóm bệnh 
nhân có ACR dương tính và nhóm bệnh nhân 
có ACR âm tính. Như vậy không thể dựa vào 
các chỉ số xét nghiệm trên để phát hiện sớm 
tổn thương thận được. 
 Nghiên cứu trên 110 bệnh nhân lupus ban 
đỏ hệ thống cho thấy có 22 bệnh nhân với xét 
nghiệm ACR dương tính, 88 bệnh nhân với 
xét nghiệm ACR âm tính. Có 5/110 bệnh nhân 
với xét nghiệm protein niệu dương tính, 
105/110 bệnh nhân với xét nghiệm protein 
niệu âm tính. Tất cả bệnh nhân có xét nghiệm 
protein niệu dương tính đều thuộc nhóm có 
ACR dương tính. Như vậy, xét nghiệm ACR 
có độ nhạy 100%, độ đặc hiệu 83,8%, giá trị 
dự báo dương tính và âm tính lần lượt là 
22,7% và 100%. Điều này chứng tỏ xét 
nghiệm ACR rất có giá trị trong sàng lọc tổn 
thương thận sớm ở bệnh nhân lupus ban đỏ 
hệ thống. Việc phát hiện sớm tổn thương thận 
giúp các thầy thuốc có thể đưa ra những 
phương thức điều trị kịp thời và chính xác, 
làm giảm biến chứng suy thận cũng như nguy 
cơ phải lọc máu, ghép thận, giảm tỷ lệ tử 
vong, giúp cải thiện và nâng cao chất lượng 
cuộc sống, giảm gánh nặng kinh tế cho gia 
đình và xã hội. 
Cũng trong nghiên cứu đã xác định được 
ngưỡng của ACR niệu đối với protein niệu: khi 
ACR có giá trị 9,89 mg/mmol thì giá trị protein 
niệu là 0,3g/l, với độ nhạy 100% và độ đặc 
hiệu 99,52%. Nghiên cứu của Huang và cộng 
sự cho thấy khi ACR có giá trị 22,8 mg/mmol 
và 155,6 mg/mmol thì giá trị protein niệu 24 
giờ tương ứng là 0,3g/24h và 2g/24h với diện 
tích dưới đường cong lần lượt là 0,918 và 
0,956 [10]. 
V. KẾT LUẬN 
Tần suất xuất hiện ACR dương tính ở các 
bệnh nhân trước đó chưa có tổn thương thận 
là 22/110 (chiếm tỷ lệ 20%). 
 66 TCNCYH 113 (4) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Thời gian mắc bệnh càng dài, nguy cơ có 
tổn thương thận càng cao. 
Không thể dựa vào triệu chứng lâm sàng 
cũng như xét nghiệm thường quy để phát hiện 
tổn thương thận sớm ở bệnh nhân lupus. 
Xét nghiệm ACR có độ nhạy 100%, độ đặc 
hiệu 83,8%, giá trị dự báo dương tính và âm 
tính lần lượt là 22,7% và 100% nên có giá trị 
cao trong phát hiện sớm tổn thương cầu thận 
ở bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống. 
Ngưỡng của ACR niệu đối với protein niệu: 
khi ACR có giá trị 9,89 mg/mmol thì giá trị pro-
tein niệu là 0,3g/l với độ nhạy 100% và độ đặc 
hiệu 99,52%. 
 Lời cảm ơn 
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn toàn thể 
cán bộ nhân viên tại phòng khám và quản lý 
Lupus ban đỏ hệ thống bệnh viện Bạch Mai và 
các bệnh nhân Lupus ban đỏ hệ thống đã ủng 
hộ, giúp đỡ, tạo điều kiện để tôi hoàn thành 
nghiên cứu này. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bertsias, G., R. Cervera., D.T. Boum-
pas (2012). SLE: Pathogenesis and Clinical 
Features. Eular_Fpp.indd 20, 476. 
2. Li, Y., X. Fang, and Q.-Z. Li (2013). Bio-
marker Profiling for Lupus Nephritis. Genom-
ics. Proteomics & Bioinformatics, 11(3), 158-
165. 
3. Vargas-Arenas, R.E et al (2004). Silent 
lupus nephritis. Immunologia, 23(3), 278 - 283. 
4. Reyes-Thomas, J., I. Blanco., C. Put-
terman (2011). Urinary biomarkers in lupus 
nephritis. Clin Rev Allergy Immunol. 40(3), 138
- 50. 
5. Guedes Marques, M (2013). Random 
spot urine protein/creatinine ratio: a reliable 
method for monitoring lupus nephritis? Clinical 
Kidney Journal, 6(6), 590 - 594. 
6. Heberta, L.A (2009). Random Spot 
Urine Protein/Creatinine Ratio Is Unreliable for 
Estimating 24-Hour Proteinuria in Individual 
Systemic Lupus Erythematosus Nephritis Pa-
tients. Nephron Clinical Practice. 113(3), 6. 
7. Michelle Petri, M.P.H (2012). Derivation 
and Validation of Systemic Lupus International 
Collaborating Clinics Classification Criteria for 
Systemic Lupus Erythematosus. Arthritis 
Rheuma, 64(8), 2677 - 2886. 
8. Reynolds, J.A. and I.N. Bruce (2013). 
Overview of the management of systemic lu-
pus erythematosus. Arthritis research UK, 7, 2. 
9. Matar, H.E (2012). Correlation of 24-
hour urinary protein quantification with spot 
urine protein:creatinine ratio in lupus nephritis. 
Lupus, 21(8), 4. 
10. Huang Q (2012). Urinary spot albu-
min:creatinine ratio for documenting proteinu-
ria in women with preeclampsia. Rev Obstet 
Gynecol, 5(1), 9 - 15. 
Summary 
CLINICAL AND PARACLINICAL CHARACTERISTICS OF LUPUS 
NEPHRITIS WERE DETECTED EARLY BY URINE MICROALBUMIN 
TO CREATININE RATIO TEST 
Lupus nephritis increases the morbidity and mortality of patients with SLE but renal clinical 
involvement is only expressed in about two-third of the patients. Because of a much higher rate of 
renal diseases without clinical manifestations, this condition has been referred as a silent lupus 
 TCNCYH 113 (4) - 2018 67 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
nephritis. This study is to evaluate the clinical and paraclinical characteristics of patients with 
lupus nephritis who were detected early by urine microalbumin to creatinine ratio test (ACR). A 
cross-sectional study was carried out on 110 patients diagnosed with SLE according to the criteria 
of SLICC 2012 with no previous renal disorder. The study was conducted at Department of 
Out- patients in BachmMai Hospital. In the study, 22 per 110 patients (20%) had a positive test for 
ACR (ACR ≥ 3 mg/mmol). The sensitivity, specificity, positive predictive value and negative 
predictive value of ACR test were 100%, 83.8%, 22.7% and 100%, respectively. There were no 
statistically significant difference in clinical and paraclinical characteristics between the positive 
ACR and the negative ACR groups. 
Keywords: Systemic lupus erythematosus, urine microalbumin to creatinine ratio test 
(ACR) 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_lam_sang_va_can_lam_sang_cua_benh_than_lupus_duoc_p.pdf