Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học cộng hưởng từ và tính an toàn của rituximab liều thấp trên các trường hợp mắc phổ bệnh lý viêm tuỷ thị thần kinh

Phổ bệnh lý viêm tuỷ thị thần kinh (NMOSD) là bệnh lý viêm tự miễn ác tính tấn công ưu thế vào tủy sống

và thần kinh thị giác. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu mô tả đặc điểm lâm sàng, hình ảnh cộng hưởng từ, mức

độ nặng, sơ bộ đánh giá tính an toàn và hiệu quả của Rituximab liều thấp cho 8 trường hợp đầu tiên chẩn đoán

NMOSD tại Bệnh viện Đại Học Y Hà Nội từ tháng 6/2020, với các bệnh nhân được theo dõi từ tháng 7/2019.

Nghiên cứu thuần tập tiến cứu theo dõi thời gian dài trên 8 trường hợp chẩn đoán NMOSD tại khoa Nội Tổng

Hợp, Bệnh viện Đại Học Y Hà Nội. Viêm tuỷ thị thần kinh có tuổi khởi phát muộn hơn so với bệnh xơ cứng rải rác

(MS), có mức tần số tái phát/năm dày hơn, mức độ tàn tật cao hơn. Tự kháng thể kháng Aquaporine IV (AQP4),

tổn thương tủy sống toàn phần kéo dài kiểu LEMT là các đặc trưng phân biệt NMOSD với MS. Rituximab

liều thấp tỏ ra an toàn và có hiệu quả phóng tránh tái phát trong các trường hợp bệnh nhân được điều trị.

pdf 9 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học cộng hưởng từ và tính an toàn của rituximab liều thấp trên các trường hợp mắc phổ bệnh lý viêm tuỷ thị thần kinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học cộng hưởng từ và tính an toàn của rituximab liều thấp trên các trường hợp mắc phổ bệnh lý viêm tuỷ thị thần kinh

Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học cộng hưởng từ và tính an toàn của rituximab liều thấp trên các trường hợp mắc phổ bệnh lý viêm tuỷ thị thần kinh
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
248 TCNCYH 134 (10) - 2020
Tác giả liên hệ: Lê Văn Thủy, 
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected].
Ngày nhận: 10/10/2020
Ngày được chấp nhận: 03/12/2020
Phổ bệnh lý viêm tuỷ thị thần kinh (NMOSD) 
đã được nhắc đến rất lâu trong y văn từ các 
mô tả lâm sàng đầu tiên ở 2 nhóm triệu chứng 
chính: mất thị giác và liệt 2 chân hoặc tứ chi do 
tổn thương tuỷ sống.1 NMOSD là nhóm bệnh lý 
viêm tự miễn đặc trưng bằng tổn thương viêm, 
mất myelin qua trung gian miễn dịch và thoái 
hoá sợi trục thứ phát. Tỉ lệ mắc mới 0,3 tới 10 
ca/ 100 000 dân/năm. Từ năm 2004 việc tìm ra 
kháng thể Aquaporin 4 IgG (AQP4) tại các kênh 
dẫn nước của hệ thần kinh trung ương cơ chế 
bệnh sinh của bệnh đã dần được làm sáng tỏ.2
Về mặt lâm sàng, bệnh có đặc trưng là các 
đợt tấn công ác tính nối tiếp nhau vào các cấu 
trúc đặc hiệu hệ thần kinh trung ương bao gồm: 
thần kinh thị, tuỷ sống, gian não, thân não dẫn 
đến tàn phế sau 1 vài năm tiến triển không điều 
trị. Bệnh thường gặp trong lứa tuổi trẻ, trung 
bình 39 - 45 tuổi là độ tuổi quan trọng đóng góp 
sức lao động cho xã hội.2
Để chẩn đoán NMOSD, bên cạnh nhận 
dạng chính xác triệu chứng, khai thác đủ các 
đợt cấp đã có, chỉ định chẩn đoán hình ảnh phù 
hợp còn có ở vị trí trọng tâm xét nghiệm tìm 
kiếm tự kháng thể kháng AQP4 cho phép chẩn 
đoán chính xác bệnh với độ nhạy cao, độ đặc 
hiệu gần như tuyệt đối.3
Có nhiều thuốc điều trị có thể làm giảm tần số 
xuất hiện đợt cấp hàng năm như Azathioprine, 
Corticosteroide, Mitoxantrone. Những các tác 
nhân cổ điển này ngày nay không còn đáp 
ứng được yêu cầu phòng tránh đợt cấp và có 
quá nhiều tác dụng phụ. Rituximab (RTX) là 
tác nhân sinh học kháng thụ thể CD 20 của tế 
bào lympho B đã được sử dụng nhiều năm và 
bước đầu chứng minh được tính hiệu quả và 
an toàn trong điều trị bệnh. Tuy vậy, không có 
một phác đồ hoặc khuyến cáo chính thức nào 
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, HÌNH ẢNH HỌC CỘNG HƯỞNG TỪ 
VÀ TÍNH AN TOÀN CỦA RITUXIMAB LIỀU THẤP TRÊN CÁC 
TRƯỜNG HỢP MẮC PHỔ BỆNH LÝ VIÊM TUỶ THỊ THẦN KINH.
Lê Văn Thủy1, , Vũ Hồng Vân1, Nguyễn Thị Hiền1, Đỗ Thị Hà1, Nguyễn Văn Hướng2
1Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
2Trường Đại học Y Hà Nội
Phổ bệnh lý viêm tuỷ thị thần kinh (NMOSD) là bệnh lý viêm tự miễn ác tính tấn công ưu thế vào tủy sống 
và thần kinh thị giác. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu mô tả đặc điểm lâm sàng, hình ảnh cộng hưởng từ, mức 
độ nặng, sơ bộ đánh giá tính an toàn và hiệu quả của Rituximab liều thấp cho 8 trường hợp đầu tiên chẩn đoán 
NMOSD tại Bệnh viện Đại Học Y Hà Nội từ tháng 6/2020, với các bệnh nhân được theo dõi từ tháng 7/2019. 
Nghiên cứu thuần tập tiến cứu theo dõi thời gian dài trên 8 trường hợp chẩn đoán NMOSD tại khoa Nội Tổng 
Hợp, Bệnh viện Đại Học Y Hà Nội. Viêm tuỷ thị thần kinh có tuổi khởi phát muộn hơn so với bệnh xơ cứng rải rác 
(MS), có mức tần số tái phát/năm dày hơn, mức độ tàn tật cao hơn. Tự kháng thể kháng Aquaporine IV (AQP4), 
tổn thương tủy sống toàn phần kéo dài kiểu LEMT là các đặc trưng phân biệt NMOSD với MS. Rituximab 
liều thấp tỏ ra an toàn và có hiệu quả phóng tránh tái phát trong các trường hợp bệnh nhân được điều trị. 
Từ khoá: NMOSD, LEMT, AQP4, Rituximab, EDSS.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
249TCNCYH 134 (10) - 2020
về liều tối ưu, cũng như khoảng cách truyền 
tối ưu giữa các liều.4,5 Phác đồ sử dụng RTX 
liều thấp trong một số nghiên cứu cho thấy hiệu 
quả phòng tránh đợt cấp không kém hơn sử 
dụng liều thông thường.4 Cho đến nay chúng tôi 
chưa thấy có nhiều nghiên cứu về lĩnh vực viêm 
tuỷ tự miễn nói chung và NMODS nói riêng ở 
nước ta. Xét đến chi phí điều trị và tính an toàn 
của thuốc, phác đồ sử dụng liều thấp RTX tỏ 
ra phù hợp hơn cả với đối tượng người bệnh 
Việt Nam. Bởi các lý do trên chúng tôi thực hiện 
nghiên cứu này nhằm các mục tiêu:
Mô tả đặc điểm lâm sàng và hình ảnh học 
của các trường hợp mắc phổ bệnh lý viêm tuỷ 
thị thần kinh với kháng thể kháng AQP4 dương 
tính tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Gánh nặng bệnh tật gây ra bởi phổ bệnh lý 
viêm tuỷ thị thần kinh trên các người mắc
Bước đầu đánh giá tính an toàn của RTX 
liều thấp trong điều trị viêm tuỷ thị thần kinh
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Các bệnh nhân được chẩn đoán xác định 
phổ bệnh lý viêm tuỷ thị thần kinh thoả mãn tiêu 
chuẩn của đồng thuận quốc tế chẩn đoán bệnh 
năm 2015.3
Tuổi từ 18 trở lên
Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu, 
Tiêu chuẩn loại trừ:
Tiền sử xạ trị vùng cột sống cổ và ngực. 
Khởi phát triệu chứng liên quan tới chấn 
thương.
Thời gian khởi phát đến toàn phát quá ngắn 
(dưới 3h).
Người bệnh từ chối tham gia nghiên cứu
Thời gian và địa điểm tiến hành nghiên cứu: 
Các bệnh nhân được khám và điều trị tại khoa 
Nội tổng hợp Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ 
tháng 7 - 2019 đến tháng 7 - 2020. 
2. Phương pháp 
Nghiên cứu thuần tập tiến cứu trên các 
người bệnh được chẩn đoán xác định phổ bệnh 
lý viêm tuỷ thị thần kinh
Bệnh nhân được giải thích đầy đủ về lợi ích, 
chỉ định điều trị và các tác dụng không mong 
muốn của thuốc. Kí cam kết trước sử dụng tác 
nhân sinh học RTX liều thấp lần đầu tiên
Phác đồ điều trị và theo dõi
Bệnh nhân sau khi đáp ứng đủ tiêu chuẩn 
lựa chọn, được sử dụng RTX tĩnh mạch liều 
100 mg / tuần trong 3 tuần liên tục. Sau đó 
truyền tĩnh mạch RTX 100 mg mỗi tháng trong 
3 tháng liên tục. Tiếp đến lặp lại phác đồ 3 lần 
truyền mỗi 6 tháng.
Bệnh nhân được đánh giá mỗi tuần 1 lần 
trong tháng đầu, mỗi tháng một lần trong 3 
tiếp theo và cuối cùng 3 tháng/lần trong những 
tháng sau đó.
Đánh giá lâm sàng và xét nghiệm
Các biến số giới, thời gian mắc bệnh cho 
đến khi được chẩn đoán xác định, triệu chứng 
khởi phát, số đợt cấp/năm trước khi bắt đầu 
nghiên cứu. Xét nghiệm Anti AQP4 thực hiện 
bằng kĩ thuật miễn dịch huỳnh quang gián tiếp.
Gánh nặng bệnh tật đánh giá trên thang 
điểm EDSS và phân tích các tiểu mục nhỏ của 
thang điểm này.Đợt cấp trong thời gian nghiên 
cứu được định nghĩa là triệu chứng thần kinh 
mới xuất hiện kéo dài ít nhất 24h và không thể 
giải thích được bằng các nguyên nhân khác
Tính an toàn bằng các tác dụng phụ nếu có 
và số đợt cấp trong suốt quá trình nghiên cứu. 
Hiệu quả được đánh giá bằng so sánh số đợt 
cấp trung bình/năm sau điều trị so với trước 
điều trị và điểm EDSS sau điều trị.
Nghiên cứu dự kiến thực hiện theo dõi dọc 
trong vòng 2 năm. 
3. Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý trên phần mềm SPPSS 
18. Nghiên cứu được thông qua bởi hội đồng 
chuyên môn của đơn vị Nội Thần Kinh, khoa 
Nội Tổng Hợp Bệnh viện Đại Học Y Hà Nội. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
250 TCNCYH 134 (10) - 2020
Sơ đồ nghiên cứu
III. KẾT QUẢ 
Tất cả các bệnh nhân đều là nữ, độ tuổi trung bình 45 (trẻ nhất 26, lớn tuổi nhất 64). Người bệnh 
mất trung bình 2,6 năm để có được chẩn đoán xác định xác định bệnh.Các trường hợp đều cho kết 
quả dương tính mạnh (ở mức 4+). Phản ứng viêm của hệ thần kinh trung ương được thể hiện qua 
tăng số lượng tế bào dịch não tuỷ (gặp ở 4/8 trường hợp), không có bệnh nhân nào cho kết quả 
dương tính với OCBs trong dịch não tuỷ.
Bảng 1. Đặc điểm chung của 8 trường hợp mắc NMOSD 
Bệnh nhân số Giới
Tuổi khởi 
phát
Thời gian diễn 
biến (năm)
AQP4 OCBs
DNT
TB/Pro
1 Nữ 59 1 + - 30/0.57 
2 Nữ 36 2 + - 80/1.1
3 Nữ 54 4 + - 12/0.33
4 Nữ 31 1 + - 17/0.3
5 Nữ 54 1 + - 0/0.44
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
251TCNCYH 134 (10) - 2020
Bệnh nhân số Giới
Tuổi khởi 
phát
Thời gian diễn 
biến (năm)
AQP4 OCBs
DNT
TB/Pro
6 Nữ 64 3 + - 0/0.55
7 Nữ 26 3 + ND ND
8 Nữ 37 6 + ND ND
AQP4: Kháng thể kháng Aquoporine IV, OCBs: Oligoclonal Bands trong dịch não tuỷ. Protein 
dịch não tuỷ theo g/l, tế bào theo số TB/mm3. DNT: Dịch não tuỷ. Protein: g/l. ND: Không có số liệu.
6/8 người bệnh khởi phát đợt đầu do tổn thương tuỷ sống. Trong đó hầu hết là liệt 2 chân, 1 
trường hợp liệt tứ chi trong hội chứng rỗng tuỷ (trường hợp thứ 5). Bệnh nhân thứ 5 đồng thời có 
bệnh cảnh của Lupus ban đỏ hệ thống điển hình (giảm 3 dòng tế bào máu, ban nhạy cảm ánh sáng, 
đau nhiều khớp nhỏ - nhỡ, kháng thể kháng nhân và Smith dương tính rõ). Số đợt cấp trung bình là 
3.25, đợt mắc trung bình hàng năm là 118. Một nửa số bệnh nhân đã suy giảm khả năng đi lại độc 
lập với 4/8 bệnh nhân có điểm EDSS trên 4. 2 bệnh nhân cần công cụ hỗ trợ khi di chuyển, 1 bệnh 
nhân đã tàn tật nặng cần di chuyển bằng xe lăn (bệnh nhân số 8). 7/8 bệnh nhân không được điều 
trị dự phòng đầy đủ sau đợt cấp. Bệnh nhân số 2 điều trị Corticoide và Azathioprine ở tháng thứ 2 
xuất hiện giảm 2 dòng tế bào máu quyết định dừng điều trị và chuyển sang Rituximab dự phòng. 
Bệnh nhân số 5 trước khi tham gia nghiên cứu được điều trị như viêm tuỷ do Lupus với Corticoide 
và Hydrochloroquin. Bệnh nhân số 8 điều trị phẫu thuật u tuỷ ngực do thể giả u của bệnh.
Bảng 2. Đặc điểm lâm sàng chung của các trường hợp nghiên cứu
Bệnh 
nhân
Triệu chứng khởi phát
Số đợt /
năm mắc
Điểm EDSS 
trước điều 
trị
Bệnh 
kèm 
theo
Thuốc điều trị đã 
dùng
1 Nôn/nấc kéo dài 1/1 4.5 Không Corrticoid
2 Liệt 2 chân 3/2 3.5 Không Corticoid + Aza
3 Liệt 2 chân 2/4 1.5 Không Corticoid
4 Liệt 2 chân 3/1 6.5 Không Corticoid
5 Liệt tứ chi ưu thế tay 2/1 1.5 SLE Corticoid+HCQ
6 Liệt 2 chân 3/3 3.5 Không Corticoide
7 Mất thị lực 5/3 5 Không
Corticoide+AzA. 
MMF
8 Liệt 2 chân 7/6 7.5 Không Corticoide.
Aza: Azathiroprin. HCQ: Hydrochloroquin. SLE: Lupus ban đỏ hệ thống. 
Gánh nặng bệnh tật chủ yếu nằm ở các tổn thương bó tháp và tổn thương cảm giác, 4/8 bệnh 
nhân bị tổn thương gây ảnh hưởng ở mức đáng kể ( > 4 điểm). Bệnh nhân số 8 với số lượng đợt 
cấp rất nhiều được đánh giá ở mức 5. Tổn thương thân não thể hiện bằng hội chứng sàn não thất 
IV sau đó là di chứng đau vùng mặt thấy ở bệnh nhân số 1, rung giật nhãn cầu thân não gặp ở số 7. 
2 bệnh nhân số 7 và 8 có khiếm khuyết đáng kể về mặt thị lực làm hạn chế khả năng đi lại và sinh 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
252 TCNCYH 134 (10) - 2020
hoạt độc lập. Cả 8/8 bệnh nhân đều không có hội chứng “não” đáng chú ý.
Bảng 3. Điểm EDSS cụ thể
Bệnh 
nhân
Chức 
năng 
tháp
Chức 
năng 
tiểu 
não
Chức 
năng 
thân não
Chức 
năng cảm 
giác
Bàng 
quang và 
cơ thắt
Thị lực
Chức 
năng 
nhận 
thức
Chức 
năng 
khác
1 4 0 1 2 0 0 0 0
2 3 0 0 3 2 0 0 0
3 1 0 0 1 0 0 0 0
4 4 0 0 4 2 0 0 0
5 4 0 0 3 0 0 0 0
6 3 0 0 2 0 0 0 0
7 3 2 1 4 0 4 0 0
8 5 0 0 5 0 5 0 0
Tất cả các bệnh nhân đều có tổn thương tuỷ sống phù hợp với tiêu chuẩn chẩn đoán hình ảnh 
của bệnh. 5/8 bệnh nhân được chụp MRI não và 1/8 bệnh nhân có tổn thương phù hợp với lâm sàng 
trong hội chứng sàn não thất IV. 5/8 trường hợp tìm thấy sự kéo dài ở mức bệnh lý của thời gian 
tiềm sóng P100. 
Bảng 4. Đặc điểm hình ảnh học và thăm dò điện sinh lý thần kinh
Bệnh 
nhân
Tổn thương não Số đốt tuỷ lan rộng
Phù hợp với 
tiêu chuẩn 
hình ảnh học
Điện thế 
gợi thị 
giác
1 
Sàn não thất IV và 
phần lưng hành tuỷ
C1 - C3, toàn phần, G+ Não và tuỷ - 
2 Không có tổn thương D1 - D9, toàn phần, G+ Tuỷ - 
3 
Nốt chất trắng dưới vỏ 
không đặc hiệu
C1 - C2, tăng tín hiệu trên T2, 
bán phần, ngấm thuốc
Tuỷ +
4 Không làm
C3 - C9, tăng tín tiệu T2, toàn 
phần. G+
Tuỷ +
5 Không làm
C3 - C5, bán phần, tăng trên 
T2, G+/ - 
Tuỷ - 
6 
Tổn thương chất trắng 
dưới vỏ thuỳ trán, G 
( - )
Tổn thương D4 - D7 toàn 
phần,G+
Tuỷ +
7 Không làm
C3 - C5 và D3 - D6 bán phần, 
tăng tín hiệu trên T2, không 
tiêm thuốc
Tuỷ +
8 Bình thường Tổn thương tuỷ ngực thể giả u. Corticoide +
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
253TCNCYH 134 (10) - 2020
Tại thời điểm viết bài các bệnh nhân đã truyền xong đợt tấn công của phác đồ, tác dụng không 
mong muốn gặp ở 2/8 trường hợp, đều là phản ứng nhẹ, không đòi hỏi can thiệp y tế đặc biệt. 
Bảng 5. Các tác dụng phụ được ghi nhận
Bệnh nhân Ngày bắt đầu
Số lần RTX đã 
sử dụng
Tác dụng phụ
1 15/06/2020 4 Không ghi nhận
2 14/05/2020 5 Không ghi nhận
3 09/06/2020 5 Đau đầu, chóng mặt trong lần truyền đầu
4 19/05/2020 5 Không ghi nhận
5 17/06/2020 3 Không ghi nhận
6 4 Không ghi nhận
7 14/07/2020 2
Cảm giác nóng bừng, lạnh buốt trong lúc 
truyền, huyết áp bình thường. 
8 20/07/2020 2 Không ghi nhận
IV. BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả đối 
tượng đều là nữ và khác với bệnh xơ cứng rải 
rác, phổ bệnh lý viêm tuỷ thị thần kinh khởi phát 
muộn hơn (cuối thập kỉ thứ 3 - 4 của đời sống). 
Số liệu này phù hợp với các nghiên cứu lớn 
dịch tễ cho rằng tỷ lệ nữ/nam khoảng 5/1 tới 
10/1 ở Châu Á. Sự ưu thế nữ giới trong tỷ lệ 
mắc gợi ý tác động của nội tiết tố nữ trong cơ 
chế bệnh sinh.8 Giới tính nữ cùng các yếu tố 
như độ liền nhau của tổn thương thần kinh thị 
- tuỷ sống là các các yếu tố nguy cơ đã biết dự 
báo khả năng tái phát của bệnh.8,2
Thời gian từ khởi bệnh đến khi được chẩn 
đoán xác định tương đối dài, đủ để xảy ra trung 
bình 3,2 đợt cấp/mỗi bệnh nhân. Việc chậm 
chễ trong thời gian chẩn đoán trước hết có thể 
giải thích bởi hạn chế trong khả năng nhận diện 
bệnh lý của các nhà lâm sàng thần kinh, sự hạn 
chế của năng lực xét nghiệm AQP4. 
Miễn dịch huỳnh quang gián tiếp là phương 
pháp có độ tin cậy cao để phát hiện anti AQP4 
trong huyết thanh người bệnh.4 Một số nghiên 
cứu chỉ ra rằng, mức độ dương tính của tự 
kháng thể có thể phản ánh độ “ác tính” trong 
tiến tình bệnh. Sự vắng mặt của Oligoclonal 
Bands trong dịch não tuỷ của các đối tượng 
nghiên cứu là đặc điểm quan trọng phân biệt 2 
nhóm bệnh lý viêm mất myelin của hệ thần kinh 
trung ương là NMOSD và MS. 
Tổn thương viêm tuỷ hoại tử, lan rộng trên 3 
đốt tuỷ và chiếm hầu hết chu vi tuỷ sống là đặc 
trưng của bệnh. Một số mô tả lâm sàng – hình 
ảnh học nhắc đến tính chất bắt thuốc đối quang 
từ dạng viền đặc trưng của phổ bệnh lý viêm 
tuỷ thị thần kinh. 9,10 Do yếu tố kinh tế, chỉ có 
5/8 bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi 
được chụp cộng hưởng từ não để đánh giá sự 
lan rộng của tổn thương mất myelin và tìm thấy 
tổn thương vùng sàn não thất IV phù hợp với 
lâm sàng ở 1 trường hợp. Hội chứng sàn não 
thất IV có thể là triệu chứng lâm sàng đầu tiên 
của bệnh.2,11
Gánh nặng bệnh tật ở đối tượng nghiên cứu 
đến từ: tổn thương tháp, rối loạn cảm giác, và 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
254 TCNCYH 134 (10) - 2020
mất thị lực. Bệnh nhân nặng nhất của chúng 
tôi có điểm EDSS trước điều trị là 7.5 với 7 
đợt cấp trong 6 năm mắc bệnh. Tất cả bệnh 
nhân đều trải qua các cơn đau, co thắt cơ ảnh 
hưởng nghiêm trọng tới các hoạt động sinh 
hoạt thường ngày. Điểm EDSS thường đạt tới 
3 (triệu chứng đáng kể nhưng vẫn tự sinh hoạt 
được) sau 6 tháng và đạt tới 6 (sinh hoạt cần 
trợ giúp) sau khoảng 7 năm tiến triển.12,13 So 
với bệnh xơ cứng rải rác, phổ bệnh viêm tuỷ thị 
thần kinh có thời gian diễn biến tới tàn tật nhanh 
hơn, mức độ tàn tật nặng hơn và suy giảm chất 
lượng cột sống liên quan tới đau rõ rệt hơn.12,14 
Gánh nặng bệnh tật lớn ở các bệnh nhân trong 
độ tuổi lao động là lý do quan trọng thúc đẩy 
việc tiến hành các thử nghiệm điều trị tiếp theo, 
với số lượng bệnh nhân lớn hơn nhằm phòng 
tránh đợt cấp, nâng cao chất lượng cuộc sống 
cho người bệnh. 
Với tổng cộng 23 đợt truyền Rituximab liều 
thấp cho 8 trường hợp bệnh nhân nghiên cứu 
theo phác đồ đề xuất bởi Zhang và cộng sự,7 
chúng tôi ghi nhận tác dụng không mong muốn 
ở mức độ nhẹ ở 2 bệnh nhân. Kết quả cần được 
khẳng định lại bằng nghiên cứu trên số lượng 
lớn bệnh nhân và thời gian theo dõi dài hơn.15 
V. KẾT LUẬN
Thông qua nghiên cứu bước đầu trên 8 
trường hợp lâm sàng đầu tiên được chẩn đoán 
và điều trị phổ bệnh lý viêm tuỷ thị thần kinh tại 
Bệnh viện Đại Học Y Hà Nội, chúng tôi rút ra 
một số kết luận như sau
NMOSD phân bố ưu thế rõ rệt ở nữ giới, 
tuổi khởi phát muộn hơn so với xơ cứng rải rác 
nhưng hầu hết bệnh nhân mắc bệnh còn trong 
độ tuổi lao động. Biểu hiện lâm sàng chính là 
các đợt tấn công ác tính vào tuỷ sống, thần 
kinh thị giác và các cấu trúc thân não – đại não. 
Nôn và nấc kéo dài không lý giải được bằng 
các bệnh lý nội khoa thông thường có thể gợi 
ý đợt tiến triển của bệnh. Đặc trưng hình ảnh 
học mất myelin của bệnh là tổn thương lan toả 
trên nhiều đốt tuỷ, bắt thuốc đối quang từ, đôi 
khi là dạng viền. Xét nghiệm kháng thể kháng 
AQP4 có giá trị quan trọng để chẩn đoán xác 
định bệnh ở những trường hợp lâm sàng nghi 
ngờ. Sự vắng mặt của Oligoclonal bands trong 
dịch não tuỷ là đặc điểm khác biệt quan trọng 
của bệnh Devic với bệnh xơ cứng rải rác. 
Rituximab liều thấp có thể là lựa chọn phù 
hợp trong điều kiện kinh tế ở các bệnh nhân 
Việt Nam với hiệu quả phòng tránh đợt cấp 
tốt hơn và ít tác dụng không mong muốn. Các 
nghiên cứu về sau trên số lượng lớn hơn bệnh 
nhân, thời gian theo dõi dài hơn là cần thiết 
để khẳng định lại tính an toàn và hiệu quả của 
phác đồ điều trị này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Jarius S, Wildemann B. The history 
of neuromyelitis optica. J Neuroinflammation. 
2013;10(1):797. doi:10.1186/1742 - 2094 - 10 
- 8
2. Wingerchuk DM, Lennon VA, 
Lucchinetti CF, Pittock SJ, Weinshenker BG. 
The spectrum of neuromyelitis optica. :11.
3. Wingerchuk DM, Banwell B, Bennett 
JL, et al. International consensus diagnostic 
criteria for neuromyelitis optica spectrum 
disorders. Neurology. 2015;85(2):177 - 189. 
doi:10.1212/WNL.0000000000001729
4. Sellner J, Boggild M, Clanet M, 
et al. EFNS guidelines on diagnosis and 
management of neuromyelitis optica: 
Diagnosis and management of neuromyelitis 
optica. Eur J Neurol. 2010;17(8):1019 - 1032. 
doi:10.1111/j.1468 - 1331.2010.03066.x
5. Pellkofer HL, Krumbholz M, Berthele A, 
et al. Long - term follow - up of patients with 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
255TCNCYH 134 (10) - 2020
neuromyelitis optica after repeated therapy with 
rituximab. Neurology. 2011;76(15):1310 - 1315. 
doi:10.1212/WNL.0b013e3182152881
6. Kimbrough DJ, Fujihara K, Jacob A, et 
al. Treatment of neuromyelitis optica: Review 
and recommendations. Mult Scler Relat 
Disord. 2012;1(4):180 - 187. doi:10.1016/j.
msard.2012.06.002
7. Zhang M, Zhang C, Bai P, Xue H, 
Wang G. Effectiveness of low dose of rituximab 
compared with azathioprine in Chinese patients 
with neuromyelitis optica: an over 2 - year follow 
- up study. Acta Neurol Belg. 2017;117(3):695 - 
702. doi:10.1007/s13760 - 017 - 0795 - 6
8. Wingerchuk DM. Neuromyelitis optica: 
Effect of gender. J Neurol Sci. 2009;286(1 - 
2):18 - 23. doi:10.1016/j.jns.2009.08.045
9. Kim HJ, Paul F, Lana - Peixoto MA, 
et al. MRI characteristics of neuromyelitis 
optica spectrum disorder: An international 
update. Neurology. 2015;84(11):1165 - 1173. 
doi:10.1212/WNL.0000000000001367
10. Flanagan EP, Kaufmann TJ, Krecke 
KN, et al. Discriminating long myelitis of 
neuromyelitis optica from sarcoidosis: NMO 
versus Sarcoidosis. Ann Neurol. 2016;79(3):437 
- 447. doi:10.1002/ana.24582
11. Apiwattanakul M, Popescu BF, Matiello 
M, et al. Intractable vomiting as the initial 
presentation of neuromyelitis optica. Ann 
Neurol. 2010;68(5):757 - 761. doi:10.1002/
ana.22121
12. Kanamori Y, Nakashima I, Takai Y, et 
al. Pain in neuromyelitis optica and its effect 
on quality of life: A cross - sectional study. 
Neurology. 2011;77(7):652 - 658. doi:10.1212/
WNL.0b013e318229e694
13. Ghezzi A, Bergamaschi R, Martinelli 
V, et al. Clinical characteristics, course and 
prognosis of relapsing Devic?s Neuromyelitis 
Optica. J Neurol. 2004;251(1):47 - 52. 
doi:10.1007/s00415 - 004 - 0271 - 0
14. Qian P, Lancia S, Alvarez E, Klawiter 
EC, Cross AH, Naismith RT. Association 
of Neuromyelitis Optica With Severe and 
Intractable Pain. Arch Neurol. 2012;69(11):1482. 
doi:10.1001/archneurol.2012.768
15. Damato V, Evoli A, Iorio R. Efficacy 
and Safety of Rituximab Therapy in 
Neuromyelitis Optica Spectrum Disorders: 
A Systematic Review and Meta - analysis. 
JAMA Neurol. 2016;73(11):1342. doi:10.1001/
jamaneurol.2016.1637
Summary
CLINICAL FINDINGS, MRI CHARACTERISTICS, EFFICIENCY, 
SAFETY OF LOW - DOSE RITUXIMAB FOR PATIENTS WITH 
NEUROMYELITIS OPTICA SPECTRUM DISORDER AT HA NOI 
MEDICAL UNIVERSITY HOSPITAL
Neuromyelitis Optica Spectrum Disorders (NMOSD) is a severe autoimmune disease 
targeting optic nerves and spinal cord. This study was to evaluate the clinical findings, MRI 
characteristics, disease impact and the safety and efficiency of low - dose rituximab treatment in 
8 Vietnamese patients. We performed a prospective long - term cohort study of 8 patients with 
NMOSD who were treated up to 5 times with rituximab as a second - line therapy at Ha Noi 
Medical University Hospital. NMOSD has a poor prognosis in most cases. Compared with MS, 
NMOSD patients have a higher age at onset, females are more frequently affected, the disease 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
256 TCNCYH 134 (10) - 2020
course is more severe. Brain and spinal cord MRI permit the differentiation of NMOSD from 
MS. Serum AQP4 antibody and CSF supports the probability of NMOSD. Low dose Rituximab 
is effective in treating NMO as a second - line therapy and has an acceptable safety profile.
Keywords: Devic’s Neuromyelitis Optica, Neuromyelitis Optica Spectrum Disorders, Rituximab, 
Expanded Disability Status Scale score, EDSS

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_lam_sang_hinh_anh_hoc_cong_huong_tu_va_tinh_an_toan.pdf