Đặc điểm lâm sàng hành vi gây hấn ở người sử dụng chất dạng amphetamin điều trị nội trú tại Bệnh viện tâm Thần Hà Nội

Hành vi gây hấn là biểu hiện thường gặp ở người sử dụng chất dạng amphetamin (ATS). Hành vi gây hấn

ở người sử dụng ATS là một triệu chứng có thể do các nguyên nhân khác nhau với biểu hiện, tiến triển đặc

trưng. Nghiên cứu nhằm mô tả đặc điểm hành vi gây hấn ở người sử dụng ATS. Một nghiên cứu mô tả lâm

sàng cắt ngang được thực hiện trên 58 bệnh nhân được chẩn đoán rối loạn tâm thần do ATS có hành vi gây

hấn tại Bệnh viện tâm thần Hà Nội. Thang điểm gây hấn OAS được sử dụng để đánh giá mức độ của các

hành vi gây hấn. Thời điểm vào viện, tỷ lệ hành gây hấn bằng lời nói chiếm 91,4%, hành vi gây hấn với đồ vật

60,3%, hành vi gây hấn với bản thân 32,8%, hành vi gây hấn với người khác 44,8%.Tỷ lệ hành vi gây hấn với

đồ vật ở nhóm có hoang tưởng, ảo giác cao hơn nhóm không hoang tưởng, ảo giác. Tỷ lệ các loại hành vi gây

hấn ở thời điểm sau hai tuần điều trị thấp hơn rõ rệt so với thời điểm nhập viện và sau một tuần. Tỷ lệ hành vi

gây hấn ở người bệnh sử dụng ATS rất cao, có liên quan với các triệu chứng loạn thần và vi vậy chúng tôi kiến

nghị điều trị tích cực cho những bệnh nhân rối loạn tâm thần do sử dụng ATS để làm giảm hành vi gây

pdf 7 trang phuongnguyen 220
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm lâm sàng hành vi gây hấn ở người sử dụng chất dạng amphetamin điều trị nội trú tại Bệnh viện tâm Thần Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm lâm sàng hành vi gây hấn ở người sử dụng chất dạng amphetamin điều trị nội trú tại Bệnh viện tâm Thần Hà Nội

Đặc điểm lâm sàng hành vi gây hấn ở người sử dụng chất dạng amphetamin điều trị nội trú tại Bệnh viện tâm Thần Hà Nội
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 2020 25
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG HÀNH VI GÂY HẤN Ở NGƯỜI 
SỬ DỤNG CHẤT DẠNG AMPHETAMIN ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ 
TẠI BỆNH VIỆN TÂM THẦN HÀ NỘI
Nguyễn Đăng Xuất1,3 , Nguyễn Văn Tuấn2, Phạm Thành Luân3, Nguyễn Văn Tuấn3,4,5
 ¹Bệnh viện Tâm thần Mỹ Đức
²Bệnh viện Tâm thần Hà Nội
³Trường Đại học Y Hà Nội
⁴Viện Sức khỏe Tâm thần – Bệnh viện Bạch Mai
⁵Bệnh viện Lão khoa Trung Ương
Hành vi gây hấn là biểu hiện thường gặp ở người sử dụng chất dạng amphetamin (ATS). Hành vi gây hấn 
ở người sử dụng ATS là một triệu chứng có thể do các nguyên nhân khác nhau với biểu hiện, tiến triển đặc 
trưng. Nghiên cứu nhằm mô tả đặc điểm hành vi gây hấn ở người sử dụng ATS. Một nghiên cứu mô tả lâm 
sàng cắt ngang được thực hiện trên 58 bệnh nhân được chẩn đoán rối loạn tâm thần do ATS có hành vi gây 
hấn tại Bệnh viện tâm thần Hà Nội. Thang điểm gây hấn OAS được sử dụng để đánh giá mức độ của các 
hành vi gây hấn. Thời điểm vào viện, tỷ lệ hành gây hấn bằng lời nói chiếm 91,4%, hành vi gây hấn với đồ vật 
60,3%, hành vi gây hấn với bản thân 32,8%, hành vi gây hấn với người khác 44,8%.Tỷ lệ hành vi gây hấn với 
đồ vật ở nhóm có hoang tưởng, ảo giác cao hơn nhóm không hoang tưởng, ảo giác. Tỷ lệ các loại hành vi gây 
hấn ở thời điểm sau hai tuần điều trị thấp hơn rõ rệt so với thời điểm nhập viện và sau một tuần. Tỷ lệ hành vi 
gây hấn ở người bệnh sử dụng ATS rất cao, có liên quan với các triệu chứng loạn thần và vi vậy chúng tôi kiến 
nghị điều trị tích cực cho những bệnh nhân rối loạn tâm thần do sử dụng ATS để làm giảm hành vi gây hấn. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Rối loạn tâm thần, hành vi, gây hấn, methamphetamin, ATS
Trong những năm gần đây, số lượng người 
bệnh rối loạn tâm thần do sử dụng chất dạng 
amphetamin vào điều trị nội trú tại các bệnh 
viện tâm thần tăng lên rõ rệt và chiếm tỷ lệ cao. 
Theo thống kê của Bệnh viện Tâm thần Hà Nội 
năm 2017 có 629 người bệnh vào điều trị rối 
loạn tâm thần do sử dụng ma túy, có 211 người 
bệnh do sử dụng chất dạng amphetamin (ATS), 
chiếm tỷ lệ 33,35%. Theo một số nghiên cứu, 
người bệnh rối loạn tâm thần do sử dụng chất 
dạng amphetamin nhập viện chủ yếu trong tình 
trạng loạn thần cấp, chiếm khoảng trên 80%.1 - 3
Hành vi gây hấn là một trong các biểu 
hiện thường gặp ở người sử dụng chất dạng 
amphetamin, nhất là trong thời điểm loạn thần 
cấp. Theo một số tác giả tỷ lệ hành vi gây hấn 
chiếm tỷ lệ cao ở người sử dụng chất dạng 
amphetamin: Trần Thị Hồng Thu 75,51%, 
Unadkat A, Subasinghe S, Harvey RJ và cộng 
sự 50%, Tô Thanh Phương 40%.3 - 5 Theo một 
số nghiên cứu, hành vi bạo lực chiếm tỷ lệ khá 
cao ở người sử dụng chất dạng amphetamin 
như Tô Thanh Phương 40%, Hall W, Hando J, 
Darke và cộng sự 44%.5,6
Tác giả liên hệ: Nguyễn Đăng Xuất, 
Bệnh viện Tâm thần Mỹ Đức
Email: [email protected]
Ngày nhận: 15/10/2019
Ngày được chấp nhận: 24/11/2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 202026
Hành vi gây hấn ở người sử dụng chất 
dạng amphetamin là một triệu chứng có thể 
do các nguyên nhân khác nhau, với biểu hiện 
lâm sàng, tiến triển đặc trưng. Mô tả đặc điểm 
hành vi gây hấn ở người sử dụng chất dạng 
mphetamin giúp ích cho việc chẩn đoán, điều 
trị và tiên lượng hiệu quả triệu chứng này trong 
thực hành lâm sàng. 
Ở Việt Nam, trong thực hành lâm sàng, hành 
vi gây hấn chưa được quan tâm đúng mức và 
hiện chưa có nghiên cứu về hành vi gây hấn ở 
người sử dụng chất dạng amphetamin. Do vậy, 
chúng tôi chọn “Đặc điểm lâm sàng hành vi gây 
hấn ở người sử dụng chất dạng amphetamin 
điều trị nội trú tại Bệnh viện Tâm thần Hà Nội” 
làm đề tài nghiên cứu, với mục tiêu nghiên cứu: 
Mô tả đặc điểm hành vi gây hấn ở người sử 
dụng chất dạng amphetamin điều trị nội trú tại 
Bệnh viện Tâm thần Hà Nội.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Nghiên cứu của chúng tôi gồm 58 người 
bệnh nam sử dụng chất dạng amphetamin, 
được chẩn đoán theo tiêu chuẩn ICD.10 [3], có 
hành vi gây hấn, điều trị nội trú tại Bệnh viện 
Tâm thần Hà Nội.
Người bệnh có RLTT trước sử dụng ATS, 
người bệnh có tiền sử hoặc hiện tại sử dụng 
ma túy, chất gây nghiện khác (trừ cà phê, trà, 
thuốc lá), người bệnh có bệnh cơ thể nặng 
không do ATS, người bệnh và thân nhân không 
tự nguyện nghiên cứu không được đưa vào 
mẫu nghiên cứu. 
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang, theo 
dõi tiến cứu từng trường hợp trong thời gian từ 
tháng 08/2018 đến tháng 06/2019. Bệnh nhân 
được khám lâm sàng tâm thần và cơ thể, đồng 
thời được đánh giá bằng thang điểm OAS tại 
các giai đoạn: T0 (nhập viện), T1 (7 ± 1 ngày), 
T2 (14 ± 1 ngày). Kết hợp với hồ sơ bệnh án để 
thu thập các thông tin về đặc điểm nhân khẩu 
xã hội học. Cách ghi chép mẫu biểu, phân tích 
và xử lý số liệu theo một qui trình và phương 
pháp thống nhất.
3. Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phương pháp thống 
kê y học, số liệu được xử lý bằng phần mềm 
SPSS 20.0, thuật toán X² và t-Student được 
sử dụng
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu 
phục vụ khoa học, nhằm nâng cao chất lượng 
chẩn đoán và điều trị, chăm sóc bệnh nhân; 
nghiên cứu mô tả không ảnh hưởng hay can 
thiệp vào quá trình điều trị khách quan của 
bệnh nhân. Bệnh nhân được giải thích nghĩa 
vụ và quyền lợi khi tham gia nghiên cứu, được 
rút lui khỏi nghiên cứu mà không có sự cản trở 
hay các ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình điều 
trị, đồng thời được sự chấp thuận từ phía gia 
đình. Các thông tin thu thập được đảm bảo bí 
mật. Nghiên cứu đã được hội đồng đề cương 
luận văn bác sĩ chuyên khoa II Trường Đại học 
Y Hà Nội thông qua.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 2020 27
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung của nhóm đối tượng nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Đặc điểm n = 58 %
Giới Nam 58 100
Nhóm tuổi
< 21 5 8,6
21 – 30 30 51,7
31 – 40 17 29,3
> 40 6 10,3
Trình độ học vấn
Trung học cơ sở 25 43,1
Trung học phổ thông 32 55,2
Tốt nghiệp đại học 1 1,7
Nghề nghiệp
Không nghề, tự do 49 84,5
Làm ruộng 2 3,4
Khác 7 12,1
Tình trạng hôn nhân
Kết hôn 21 36,2
Độc thân 32 55,2
Ly hôn, ly thân 4 6,9
Góa 1 1,7
Đối tượng nghiên cứu là nam giới chiếm 100%. Nhóm tuổi 21 đến 30 tuổi và nhóm tuổi 31 đến 
40 chiếm tỷ lệ chủ yếu trong nhóm nghiên cứu (51,7% và 29,3%).
Học vấn, nghề nghiệp và hôn nhân: THPT và THCS chiếm tỷ lệ chủ yếu trong nhóm nghiên cứu 
(55,2% và 43,1%). Nghề tự do và không nghề chiếm tỷ lệ 84,5%. Độc thân 55,2%, ly hôn, ly thân 
6,9%.
2. Đặc điểm lâm sàng hành vi gây hấn ở người bệnh sử dụng ATS
Biểu đồ 1. Tỷ lệ loại hành vi gây hấn thời điểm vào viện
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 202028
Thời điểm vào viện 96,6% người có hành vi gây hấn. Gây hấn bằng lời nói chiếm tỷ lệc cao nhất 
91,4%, tiếp theo là gây hấn với đồ vật 60,3%, gây hần với người khác 44,8%, gây hấn với bản thân 
32,8%.
Bảng 2. Tỷ lệ loại hành vi gây hấn theo hoang tưởng, ảo giác thời điểm T0
 Nhóm
Triệu chứng
Không hoang tưởng, 
ảo giác (n = 28)
Có hoang tưởng và/
hoặc ảo giác (n = 30)
2|
n % n %
Gây hấn bằng lời nói 26 46,4 30 53,6 0,136
Gây hấn với đồ vật 22 42,3 30 57,7 0,007
Gây hấn với bản thân 2 40,0 3 60,0 0,698
Gây hấn với người khác 7 33,3 14 66,7 0,086
Tỷ lệ hành vi gây hấn ở nhóm có hoang tưởng, ảo giác cao hơn so với nhóm không có hoang 
tưởng, ảo giác (đối với gây hấn với đồ vật, p < 0,05). Tỷ lệ các loại gây hấn khác không có sự khác 
biệt giữa 2 nhóm (p > 0,05).
Biểu đồ 2. Tỷ lệ loại hành vi gây hấn theo thời gian điều trị (T0, T1: n = 58; T2: n = 43)
Tỷ lệ các loại hành vi gây hấn ở thời điểm vào viện cao (gây hấn lời nói 91,4%, gây hấn với đồ 
vật 60,3%). Sau một tuần điều trị, tỷ lệ các loại hành vi gây hấn giảm tuy nhiên không có sự khác biệt 
(gây hấn lời nói 82,8%, gây hấn đồ vật 56,9%). Tuy nhiên sau hai tuần điều trị, tỷ lệ các loại hành vi 
gây hấn thấp hơn rõ rệt so với thời điểm vào viện và sau một tuần điều trị, với p < 0,01.
IV. BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy ở thời điểm 
vào viện rối loạn hành vi, trong đó gây hấn 
chiếm tỷ lệ cao. Điều này có thể do tác dụng 
dược lý của ATS vì vậy gây RLTT và hành vi 
cấp. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp 
với một số tác giả như Rothman Richard B và 
cs; Vermette-Marcotte A E, các tác giả cho rằng 
thời điểm này do tác động dược lý của ATS kích 
thích toàn bộ thần kinh trung ương và cơ thể, 
người bệnh hưng phấn giảm khả năng kiểm 
soát dẫn đến hành vi gây hấn.7, 8
Mặt khác, có thể thời điểm này tác dụng 
dược lý của ATS gây hoang tưởng, ảo giác, rối 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 2020 29
loạn cảm xúc gián tiếp gây hành vi gây hấn. Kết 
quả của chúng tôi phù hợp với một số nghiên 
cứu, như Unadkat A, Subasinghe S, Harvey RJ 
và cộng sự cho rằng có 61,5% thù địch, 50% 
gây hấn ở người sử dụng ATS, Trần Thị Hồng 
Thu cho rằng có 75,51% người sử dụng ATS có 
hành vi gây hấn, Ngô Hùng Lâm và Nguyễn Văn 
Tuấn cho rằng có 38,5% gây hấn ở người bệnh 
RLTT do sử dụng ATS chủ yếu gây hấn bằng 
lời nói, Darke S, Kaye S, McKetin R, Duflou J 
và cộng sự cho rằng hành vi bạo lực chiến 12% 
người sử dụng ATS, hành vi bạo lực chiếm 42% 
trong nhóm người gây hấn sử dụng ATS.1, 3, 9 
Theo kết quả nghiên cứu, ở thời điểm 
nhập viện, tỷ lệ gây hấn bằng lời nói cao nhất 
(91,4%), đây là mức độ gây hấn nhẹ nhất thể 
hiện sự “thù đich”, sự phản ứng không phù hợp 
của người bệnh do tác động của ATS. Các biểu 
hiện của gây hấn bằng lời nói là: la hét giận dữ, 
xúc phạm, chửi bới, lăng mạ cá nhân, đe dọa 
bạo lực đối với bản thân hoặc người khác 
Hành vi gây hấn với đồ vật chiếm 60,3%. Đây 
là hành vi gây hấn cao hơn mức gây hần bằng 
lời nói, biểu hiện bằng hành vi xé quần áo, 
ném đồ vật, đập phá đồ vật, ném đồ vật nguy 
hiểm Những hành vi này có thể gây thiệt hại 
đáng kể về vật chất. Nghiên cứu của chúng tôi 
tương đồng với tác giả Tô Thanh Phương cho 
thấy có 40% bệnh nhân đập phá liên quan sử 
dụng ATS.5 Theo kết quả nghiên cứu, hành vi 
gây hấn với bản thân chiếm 32,8%, biểu hiện 
bằng các hành vi: cào da, nhổ tóc, đập đầu vào 
tường, tự gây thương tích cho bản thân hoặc 
cố gắng tự sát. Hành vi gây hấn với người khác 
chiếm 44,8%, với các biểu hiện như: hành vi đe 
dọa, đẩy người, đánh người có gây thương tích 
từ mức độ nhẹ tới nghiêm trọng. Đây là những 
hành vi gây hấn mãnh liệt nhất. Những hành vi 
này gây nguy hiểm cho người bệnh và người 
xung quanh và gây ra ra hậu quả ngiêm trọng 
do ATS. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù 
hợp với một số tác giả, như: Tô Thanh phương 
cho rằng 40% có hành vi tấn công ở người liên 
quan sử dụng ATS; Vincent N, Shoobridge J, 
Ask A và cộng sự cho rằng có 9% người sử 
dụng ATS có hành vi tấn công, hủy hoại thân 
thể 19%; Zweben J-E, Cohen J-B, Christian D 
và cộng sự cho rằng có 27% hủy hoại thân thể 
và tự sát.2, 5, 10
Tỷ lệ hành vi gây hấn với đồ vật của nhóm 
hoang tưởng, ảo giác cao hơn nhóm không 
hoang tưởng, ảo giác, p < 0,05. Kết quả này có 
thể do hoang tưởng, ảo giác gây rối loạn phán 
đoán dẫn đến phản ứng với môi trường sai lệch 
và gây nên hành vi gây hấn. Kết quả này tương 
tự với kết luận của McKetin và cộng sự khi cho 
rằng sử dụng methamphetamine làm tăng các 
hành vi bạo lực, và các hành vi này có liên quan 
chặt chẽ với các triệu chứng loạn thần.11
Kết quả nghiên cứu cho thấy thời điểm nhập 
viện và sau một tuần điều trị, tỷ lệ các loại hành 
vi gây hấn cao, mặc dù sau một tuần điều trị tỷ 
lệ hành vi gây hấn giảm hơn thời điểm nhập 
viện nhưng chưa có sự khác biệt có ý nghĩa, có 
thể do tác dụng dược lý giảm nhưng chưa hết 
hẳn, đồng thời tuần đầu sau nhập viện là thời 
điểm mà bệnh nhân có thể xuất hiện trạng thái 
cai và có thể do việc điều trị các triệu chứng 
hoang tưởng, ảo giác trong một thời gian ngắn 
chưa đạt được hiệu quả tối ưu. Vì vậy, hành vi 
gây hấn chưa giảm có ý nghĩa. Đến thời điểm 
sau hai tuần điều trị tỷ lệ hành vi gây hấn giảm 
rõ rệt, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với 
thời điểm vào viện và sau một tuần điều trị. 
Điều này có thể do triệu chứng loạn thần và rối 
loạn cảm xúc đã thuyên giảm rõ rệt dưới tác 
động của điều trị, vì vậy hành vi gây hấn thuyên 
giảm.
V. KẾT LUẬN
Thời điểm vào viện, tỷ lệ hành vi gây hấn 
bằng lời nói 91,4%, hành vi gây hấn với đồ vật 
60,3%, hành vi gây hấn với bản thân 32,8%, 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 202030
hành vi gây hấn với người khác 44,8%. Tỷ lệ 
hành vi gây hấn với đồ vật ở nhóm có hoang 
tưởng, ảo giác cao hơn nhóm không hoang 
tưởng, ảo giác (P < 0,05).Tỷ lệ các loại hành vi 
gây hấn ở thời điểm nhập viện và sau một tuần 
có tỷ lệ cao hơn rõ rệt so với sau hai tuần điều 
trị (P < 0,01 và 0,05). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Hùng Lâm và Nguyễn Văn Tuấn. 
Nghiên cứu đặc điểm lâm sáng rối loạn tâm 
thần do nghiện ma túy nhóm amphetamine. 
Tạp Chí Học Thực Hành, 2015, 11(985), 55–61.
2. Vincent N., Schoobridge J., Ask A. 
et al. Physical and mental health problems 
in amphetamine users from metropolitan 
Adelaide, Australia. Drug Alcohol Rev, 1998, 
17(2), 187–195.
3. Trần Thị Hồng Thu và Trần Hữu Bình. 
Rối loạn tâm thần ở những người sử dụng 
chất dạng amphetamine điều trị nội trú tại Viện 
sức khỏe tâm thần. Tạp Chí Nghiên Cứu Học, 
2013,82 (2), 118–126.
4. Unadkat A., Subasinghe S., Harvey 
R.J. et al. Methamphetamine use in patients 
presenting to emergency departments and 
psychiatric inpatient facilities: what are the 
service implications? Australas Psychiatry Bull 
R Aust N Z Coll Psychiatr, 2019, 27(1), 14–17.
5. Tô Thanh Phương. Nhận xét bước 
đầu điều trị bệnh nhân trầm cảm sau cai 
Metamphetamine bằng phối hợp thuốc an thần 
kinh với chống trầm cảm. Tạp Chí Tâm Thần 
Học, 2016, 4, 32–38.
6. Hall W., Hando J., Darke S. et al. 
Psychological morbidity and route of 
administration among amphetamine users in 
Sydney, Australia. Addiction, 1996, 91(1), 81–
87.
7. Rothman R.B., Partilla J.S., Baumann 
M.H. et al. Neurochemical neutralization 
of methamphetamine with high-affinity 
nonselective inhibitors of biogenic amine 
transporters: a pharmacological strategy for 
treating stimulant abuse. Synap N Y N, 2000, 
35(3), 222–227.
8. Vermette-Marcotte A E. Traitement 
de l’intoxication par les Amphetamines, les 
Cathinones et Leura Analogues Synthétiques. 
Bull D’information Toxicol, 2018, 32(2), 13–18.
9. Darke S., Kaye S., McKetin R. et al. 
Major physical and psychological harms of 
methamphetamine use. Drug Alcohol Rev, 
2008, 27(3), 253–262.
10. Zweben J.E., Cohen J.B., Christian D. et 
al. Psychiatric symptoms in methamphetamine 
users. Am J Addict, 2004, 13(2), 181–190.
11. McKetin R, Lubman DI, và Najman JM 
et al. Does methamphetamine use increase 
violent behaviour? Evidence from a prospective 
longitudinal study. Addiction, 2014, 109(5), 
798–806.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 125 (1) - 2020 31
Summary
CLINICAL CHARACTERISTICS OF AGGRESSIVE BEHAVIOR IN 
AMPHETAMIN TYPE STIMULANTS USERS HOSPITALISED 
IN HANOI PSYCHIATRIC HOSPITAL
Aggressive behavior is a common manifestation of people abusing Amphetamine - type stimulants 
(ATS). Aggressive behavior among ATS users has various causes with characteristic manifestations 
and progression. The study aimed to characterize aggressive behavior among ATS users. A cross-
sectional study was conducted in 58 patients diagnosed with psychiatric disorders due to use of ATS 
with aggressive behavior at Hanoi Mental Hospital. The Overt aggression scale was used to assess the 
extent of aggression. At admission, the rate of verbal aggression, physical aggression against objects, 
physical aggression against self and physical aggression against other people was 91.4%, 60.3%, 
32.8%, 44.8%, respectively. The rate of physical aggression against objects in the group of patients 
who had psychotic symptoms is higher than the group of patients who had no psychotic symptoms. 
The rate of aggressive behaviors at the time of two weeks of treatment was significantly lower than 
the time of admission and one week of treatment. The incidence of aggressive behavior in patients 
abusing ATS is very high, mainly associated with psychotic symptoms, and so we recommend active 
treatment for patients with mental disorders due to the use of ATS to reduce aggressive behaviors.
Key words: Behavior, disorder, aggression, methamphetamine, ATS.

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_lam_sang_hanh_vi_gay_han_o_nguoi_su_dung_chat_dang.pdf