Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả phẫu thuật điều trị thiếu máu chi dưới mạn tính do tắc chạc ba động mạch chủ chậu tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
Mục đích: Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị bệnh lý thiếu máu chi dưới do tắc chạc ba chủ chậu tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Phương pháp: Hồi cứu và tiến cứu. Kết quả: Từ 1/2015 đến 6/2017, có 37 bệnh nhân chẩn đoán tắc chạc ba động mạch chủ chậu mạn tính và điều trị bằng phẫu thuật. 83,8% số bệnh nhân nam, tuổi trung bình 63,08 ± 10,96 (nhóm từ 50-69 tuổi chiếm 59,5%). 18 bệnh nhân có tiền sử sử dụng thuốc lá và 18 bệnh nhân có tiền sử THA. Đau cách hồi chi xuất hiện ở 91,9% bệnh nhân, 31 bệnh nhân ở giai đoạn thiếu máu chi nặng. 100% bệnh nhân được chụp MSCT dựng hình động mạch chủ bụng và mạch máu chi dưới. Phẫu thuật bắc cầu chủ đùi 2 bên bằng đoạn mạch nhân tạo có tỉ lệ biến chứng chung là 16,2%, không có bệnh nhân tử vong trong 30 ngày sau mổ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả phẫu thuật điều trị thiếu máu chi dưới mạn tính do tắc chạc ba động mạch chủ chậu tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201730 Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả phẫu thuật điều trị thiếu máu chi dưới mạn tính do tắc chạc ba động mạch chủ chậu tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức Dương Ngọc Thắng*, Đỗ Mạnh Hùng*, Nguyễn Hữu Ước*, Đoàn Quốc Hưng** Khoa PT tim mạch và lồng ngực, Bệnh viện Việt Đức* Trường Đại học Y Hà Nội** TÓM TẮT Mục đích: Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị bệnh lý thiếu máu chi dưới do tắc chạc ba chủ chậu tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Phương pháp: Hồi cứu và tiến cứu. Kết quả: Từ 1/2015 đến 6/2017, có 37 bệnh nhân chẩn đoán tắc chạc ba động mạch chủ chậu mạn tính và điều trị bằng phẫu thuật. 83,8% số bệnh nhân nam, tuổi trung bình 63,08 ± 10,96 (nhóm từ 50-69 tuổi chiếm 59,5%). 18 bệnh nhân có tiền sử sử dụng thuốc lá và 18 bệnh nhân có tiền sử THA. Đau cách hồi chi xuất hiện ở 91,9% bệnh nhân, 31 bệnh nhân ở giai đoạn thiếu máu chi nặng. 100% bệnh nhân được chụp MSCT dựng hình động mạch chủ bụng và mạch máu chi dưới. Phẫu thuật bắc cầu chủ đùi 2 bên bằng đoạn mạch nhân tạo có tỉ lệ biến chứng chung là 16,2%, không có bệnh nhân tử vong trong 30 ngày sau mổ. ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh động mạch chi dưới (BĐMCD) là tình trạng bệnh lý của động mạch chủ bụng và các động mạch chi dưới trong đó lòng động mạch bị hẹp gây giảm tưới máu cơ và các bộ phận liên quan (da, thần kinh) phía hạ lưu. Tắc chạc ba chủ chậu mạn tính là hình thái ít gặp BĐMCD mạn tính với các dấu hiệu lâm sàng điển hình gồm có đau cách hồi chi dưới 2 bên, mất mạch chi dưới 2 bên và suy giảm chức năng sinh dục ở nam giới. Tam chứng này được gọi theo tên của người đầu tiên nghiên cứu bệnh lý này là Leriche (1879-1955) [1]. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục đích mô tả một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng cũng như kết quả điều trị bệnh lý thiếu máu chi dưới mạn tính do tắc chạc ba chủ chậu. KẾT QUẢ Từ tháng 1/2015 đến tháng 6/2017 có 37 BN thiếu máu mạn tính chi đủ tiêu chuẩn nghiên cứu, 31 BN nam chiếm 83,8%. Độ tuổi trung bình 63,08 ± 10,96. Bảng 1. Phân bố tỉ lệ nhóm tuổi Nhóm tuổi Số lượng BN % <50 3 8,1 50-69 22 59,5 ≥70 12 32,4 Tổng số 37 100 NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 31 Bảng 2. Đặc điểm tiền sử bệnh lý và sử dụng thuốc lá Tiền sử Số lượng BN % Tổng số Tăng huyết áp Có Có điều trị 15 48,6 37Không điều trị 3 Không 19 51,4 Hút thuốc lá Có 18 48,6 37 Không 19 51,4 Đái tháo đường Có 4 10,8 37 Không 33 89,2 Tai biến mạch não Có 6 16,2 37 Không 31 83,8 Bệnh mạch vành Có 1 2,7 37 Không 36 97,3 Ngoại khoa PT ổ bụng 6 16,2 37PT khác 9 24,3 Không 22 59,5 Bảng 3. Đặc điểm lâm sàng Đặc điểm lâm sàng N % Tổng số Đau cách hồi chi Có 34 91,9 37 Không 3 8,1 Vị trí đau 1 chân 19 55,9 34 2 chân 15 44,1 Giai đoạn thiếu máu chi Giai đoạn I 0 0 37 Giai đoạn II 6 16,2 Giai đoạn III 15 40,5 Giai đoạn IV 16 43,2 Vị trí hoại tử (n=16) Ngón chân 12 75,0 37 Bàn chân 2 12,5 Cẳng chân 1 6,3 Đùi 1 6,3 Bảng 4. Thăm dò chẩn đoán hình ảnh trước mổ Thăm dò Số lượng % Tổng số Chụp MSCT Có 37 100 37 Không 0 0 NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201732 Siêu âm mạch chi dưới Có 37 100 37 Không 0 0 Chụp mạch qua da Có 1 2,7 37 Không 36 97,3 Bảng 5. Tính chất lan tỏa tổn thương mạch chi dưới và tổn thương mạch phối hợp Tổn thương Số lượng Tỉ lệ Một tầng (trên cung đùi) 16 43,2 Nhiều tầng (cả trên và dưới cung đùi) 21 56,8 Mạch vành 15 40,5 Mạch cảnh 11 29,7 Bảng 6. Một số đặc điểm phẫu thuật Đặc điểm phẫu thuật Số lượng % Tổng số Tính chất phẫu thuật Mổ cấp cứu 3 8,1 37 Mổ phiên 34 91,9 Vị trí cầu nối Chủ - Đùi 2 bên 26 70,3 37 Chủ - chậu 2 bên 5 13,5 Chủ - chậu và chủ - đùi 1 2,7 Nách đùi-đùi đùi 2 5,4 Nách đùi 3 8,1 Vật liệu làm cầu nối Mạch thường 35 91,9 37Mạch xoắn 2 5,4 Mạch tráng bạc 1 2,7 Bảng 7. Kết quả sớm Kết quả Số lượng % Tổng số Tốt 31 83,8 31 Biến chứng Nhiễm trùng 2 5,4 6 Chảy máu 0 0 Tắc cầu nối 1 2,7 Tử vong 0 0 Rò bạch huyết 3 8,1 NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 33 BÀN LUẬN Đặc điểm dịch tễ Trong thời gian tiến hành nghiên cứu từ 01/2015 đến 06/2017, tại Khoa PT Tim mạch và Lồng ngực Bệnh viện Việt Đức, chúng tôi đã điều trị cho 212 trường hợp bệnh lý động mạch chi dưới nói chung (tính tất cả các trường hợp điều trị phẫu thuật, can thiệp mạch, phối hợp giữa can thiệp và phẫu thuật và điều trị nội khoa). Như vậy tỉ lệ bệnh nhân mắc bệnh lý tắc chạc ba chủ chậu mạn tính chiếm 17,45% tổng số các bệnh nhân bị thiếu máu mạn tính chi dưới. Tỉ lệ này không khác biệt so với tỉ lệ tắc chạc ba động mạch chủ chậu trong nghiên cứu của Đ.Q. Hưng trong khoảng thời gian 74 tháng (từ 3/1999 đến 5/2005) với (26 bệnh nhân tắc chạc ba chủ chậu/113 bệnh nhân thiếu máu chi mạn tính) [2]. Tuy nhiên số lượng bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn với 37 bệnh nhân trong vòng 26 tháng. Có thể có một vài nguyên nhân dẫn đến hiện tượng gia tăng số lượng bệnh nhân như: Nền kinh tế phát triển hơn, hệ thống bảo hiểm y tế đã chi trả cho bệnh nhân các chi phí khám chữa bệnh, hệ thống giao thông phát triển hơn dẫn đến việc đi lại thuận tiện, bệnh nhân được chuyển lên các bệnh viện tuyến trên và tiếp cận với các dịch vụ y tế chất lượng cao dễ dàng hơn; trình độ y tế tuyến cơ sở cũng ngày càng phát triển hơn so với thời gian trước, bệnh nhân được phát hiện bệnh chính xác và gửi đến các tuyến chuyên khoa; mạng lưới thông tin truyền thông phát triển dẫn đến sự thay đổi nhận thức của người dân về việc phát hiện và điều trị bệnh. Trong nghiên cứu của chúng tôi, bệnh nhân nam chiếm đa số với tỉ lệ 83,8%, tỉ lệ này cao hơn so với một số nghiên cứu khác như nghiên cứu của Schneider [3] hay của Friedman [4] với tỉ lệ bệnh nhân nam tương ứng là 64% và 63%. Sự khác biệt này có thể do tại các nước châu Âu, Mỹ, lối sống của phụ nữ cũng không khác biệt so với nam giới: hút thuốc lá, sử dụng chất kích thích, sử dụng thực phẩm giàu chất béo là những yếu tổ nguy cơ làm gia tăng tỉ lệ xơ vữa mạch máu dẫn đến hiện tượng tắc mạch máu chi dưới. Độ tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 63,1 ± 10,96 với tuổi cao nhất là 84 và thấp nhất là 31 tuổi. Theo một số thống kê của các tác giả khác như Johnson [5], độ tuổi trung bình là 53 tuổi, Martinez [6] là 58 tuổi. Các số liệu này đều thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. Điều này có thể do tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam đã tăng lên và số lượng bệnh nhân lớn tuổi chấp nhận điều trị phẫu thuật cũng cao hơn. Trong nghiên cứu của chúng tôi có tới 12 bệnh nhân (chiếm tỉ lệ 32,4%) ở độ tuổi từ 70 trở lên. Xét đến các yếu tố nguy cơ, trong nghiên cứu của chúng tôi có 18 bệnh nhân hút thuốc lá chiếm tỉ lệ 48,6%, tỉ lệ này thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của Đ.Q. Hưng [2] với 96/113 bệnh nhân nghiện thuốc lá, thuốc lào hay ma túy. Điều đó không cho thấy được hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ cao trong bệnh lý thiếu máu mạn tính chi dưới do tắc chạc ba động mạch chủ chậu. Tuy nhiên các nghiên cứu khác trên thế giới [7],[8] đều thống nhất rằng việc không hút thuốc lá cũng như ngừng tuyệt đối hút thuốc sau khi xuất hiện bệnh lý mạch máu chi dưới là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới kết quả điều trị bệnh lý tim mạch nói chung. Có 48,6% số bệnh nhân mắc tăng huyết áp, tỉ lệ này không khác biệt so với kết quả của Đ.Q.Hưng [2] nhưng cao hơn nhiều so với kết quả của P.T.T. Anh (3,18%) [9]. Trong số này có 15 bệnh nhân được điều trị tăng huyết áp thường xuyên. Việc điều trị bệnh lý thiếu máu chi dưới mạn tính do tắc chạc ba động mạch chủ chậu có vai trò rất quan trọng của các bác sỹ nội khoa, tim mạch, do xơ vữa mạch và tăng huyết áp nằm trong bệnh lý mạch máu toàn thân nói chung, điều trị tăng huyết áp phải gắn liền với điều trị thiếu máu mạn tính chi, và phải thực hiện từ cơ sở y tế đầu tiên nơi người bệnh được tiếp nhận và phát hiện bệnh. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201734 Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng Triệu chứng đau cách hồi chi xuất hiện ở đa số bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi với 34 bệnh nhân (91,9%) cao hơn nhiều so với kết quả của Schneider [3] và Friedman [4] với tỉ lệ xuất hiện triệu chứng đau cách hồi chi dưới tương ứng là 45% và 67%. Có 31 bệnh nhân nhập viện trong tình trạng thiếu máu chi nặng (giai đoạn III và IV theo Fontaine). Tại Việt Nam, khi bắt đầu có dấu hiệu đau cách hồi chi, người bệnh sẽ không đi khám ngay phần vì bệnh nhân lớn tuổi ngại khám bệnh phiền đến người nhà, phần vì phải lo công việc mưu sinh hàng ngày, chỉ đến khi các triệu chứng trở nên trầm trọng mới buộc phải đến bệnh viện. Tuy nhiên cũng có những trường hợp đã khám bệnh tại tuyến cơ sở nhưng bị chẩn đoán nhầm với các bệnh lý khác như bệnh lý cột sống, bệnh lý cơ xương khớp. Vì vậy bên cạnh việc tuyên truyền nâng cao nhận thức cho bản thân người bệnh và gia đình, cần có chiến lược đào tạo, bổ sung kiến thức về bệnh lý mạch máu Có 19 bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi xuất hiện đau cách hồi ở một bên chân, trong khi đặc điểm của bệnh lý thiếu máu mạn tính chi dưới do tắc chạc ba động mạch chủ chậu là hiện tượng thiếu máu chi xuất hiện ở cả 2 chân. Điều này có thể lý giải bởi tình trạng thiếu máu chi ở 2 chân không giống nhau, khi người bệnh đi đến quãng đường giới hạn đau một bên chân thì đã phải nghỉ do đó không phát hiện được tình trạng đau cách hồi ở chân đối diện. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 100% số bệnh nhân được làm siêu âm mạch máu và chụp cắt lớp đa dãy (MSCT) có dựng hình hệ mạch chủ chậu và mạch chi dưới, chỉ có 1 bệnh nhân được chụp mạch qua da. Điều này nói lên tầm quan trọng của siêu âm mạch và chụp MSCT mạch máu trong chẩn đoán và điều trị bệnh. Nếu như hình ảnh chụp MSCT cho chẩn đoán xác định bệnh lý tắc mạn tính chạc ba động mạch chủ chậu, vị trí của huyết khối trong lòng động mạch chủ bụng, tình trạng các động mạch dưới chỗ tổn thương để phẫu thuật viên có thể lên chính xác kế hoạch điều trị, kỹ thuật phẫu thuật thì siêu âm mạch máu lại là phương pháp rẻ tiền, hữu hiệu giúp đánh giá được tình trạng huyết động của mạch máu, mức độ hẹp lòng mạch, cũng như đánh giá tình trạng bệnh lý mạch máu toàn thân phối hợp (xơ vữa động mạch cảnh, động mạch chi trên). Chúng tôi nhận thấy MSCT là phương tiện chẩn đoán hình ảnh rất quan trọng và nhất thiết phải có để có thể điều trị bệnh lý này (hình 1). Các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh trên mạch máu toàn thân cho thấy tỉ lệ bệnh nhân có xơ vữa, tắc mạch chi tầng dưới cung đùi chiếm tới 56,8% (21 bệnh nhân), tỉ lệ bệnh nhân có bệnh lý mạch vành và mạch cảnh tương ứng là 40,5% và 29,7%. Điều này góp phần khẳng định rằng bệnh lý thiếu máu mạn tính chi dưới do tắc chạc ba chủ chậu không nằm ngoài bệnh cảnh mạch máu toàn thân. Chiến lược và chỉ định điều trị với bệnh nhân có thương tổn mạch máu phối hợp khác cũng thay đổi rất nhiều so với bệnh nhân chỉ có tắc chạc ba chủ chậu đơn thuần. Hình 1. Hình ảnh MSCT tắc chạc ba động mạch chủ chậu NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 35 Hình 2. Cầu nối chủ đùi 2 bên bằng đoạn mạch nhân tạo Dacron chữ Y 16-8 Đặc điểm phẫu thuật và kết quả điều trị Phẫu thuật bắc cầu chủ đùi 2 bên (hình 2) hoặc chủ chậu 2 bên là phẫu thuật kinh điển trong điều trị bệnh lý tắc chạc ba chủ chậu với ưu điểm thuận lợi về mặt huyết động, kết quả lâu dài tốt [10]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, phẫu thuật này được thực hiện trên đa số bệnh nhân (86,5%), trong một số nghiên cứu khác [3],[4], phẫu thuật này được thực hiện trên tất cả các bệnh nhân. Chỉ có 5 bệnh nhân được phẫu thuật với kỹ thuật bắc cầu ngoài giải phẫu: cầu nối nách đùi 1 bên thực hiện trên 3 bệnh nhân, các bệnh nhân này đều đã được cắt cụt cẳng chân và đùi 1 bên, cầu nối được thực hiện ở bên chân còn lại; cầu nối nách đùi – đùi thực hiện trên 2 bệnh nhân với tình trạng tuổi cao, thể trạng suy kiệt, có bệnh lý toàn thân rất nặng, không đủ điều kiện thực hiện phẫu thuật bắc cầu chủ - đùi hay chủ - chậu là phẫu thuật lớn, vào ổ bụng và cần nhiều thời gian thực hiện. Sự hạn chế trong chỉ định thực hiện cầu nối nách đùi là do các cầu nối ngoài giải phẫu không thuận lợi về mặt huyết động, đường đi của cầu nối quá dài dẫn đến đoạn mạch nhân tạo bị gập, xoắn khi bệnh nhân sinh hoạt, thay đổi tư thế, gây ra sự thay đổi lưu lượng dòng máu trong lòng mạch, dễ hình thành huyết khối gây tắc cầu nối. Nhược điểm này đã được khắc phục bằng cách sử dụng loại mạch nhân tạo có vòng xoắn, song tuổi thọ của cầu nối nách đùi nhìn chung thấp hơn so với cầu nối chủ đùi [11]. Một đặc điểm nữa làm tuổi thọ của cầu nối ngoài giải phẫu giảm là do vị trí cầu nối thường nằm nông ngay dưới da, dễ bị nhiễm trùng, tụ dịch quanh cầu nối. Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có bệnh nhân nào tử vong trong vòng 30 ngày sau phẫu thuật, trong khi kết quả của Schneider là 0,8% [3]. Biến chứng hay gặp nhất là rò bạch huyết (3 bệnh nhân chiếm 8,4%), dù không gây tử vong nhưng lại là nguyên nhân kéo dài thời gian nằm viện của bệnh nhân. Việc phẫu tích cẩn thận động mạch chủ bụng đoạn ngay dưới động mạch thận cũng như động mạch đùi 2 bên là yếu tố rất quan trọng vì đây là những vùng giàu hạch bạch huyết và các bạch mạch. Chỉ có 1 bệnh nhân bị tắc mạch chi dưới cấp tính sau mổ 1 ngày do mảng xơ vữa phía trên miệng nối bong ra và trôi xuống dưới, được mổ lấy huyết khối trong lòng mạch, tình trạng chi sau mổ ổn định. KẾT LUẬN Thiếu máu mạn tính chi dưới 2 bên do tắc chạc ba chủ chậu là bệnh lý nằm trong bệnh cảnh mạch máu toàn thân. Đây là bệnh lý tương đối ít gặp, việc phát hiện và điều trị bệnh lý này ở các tuyến y tế cơ sở vẫn còn nhiều khó khăn. Vì vậy tuyên truyền, thay đổi nhận thức của người dân cũng như đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn của các cán bộ, nhân viên y tế là việc hết sức cần thiết. Phẫu thuật kinh điển điều trị bệnh lý này là phẫu thuật bắc cầu chủ đùi hoặc chủ chậu 2 bên. Kết quả sau phẫu thuật phụ thuộc nhiều vào sự thay đổi lối sống của bệnh nhân: ngừng tuyệt đối hút thuốc lá, kiểm soát tốt bệnh lý tim mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201736 SUMMARY Purpose: Clinical and paraclinical characteristics, results of treatment of Aortoiliac occlusive disease at Viet Duc University Hospital. Methodology: Retrospective and prospective. Results: From January 2015 to June 2017, 37 patients were diagnosed with aortoiliac occlusive disease and were treated. 83.8% of the patients was male. Mean age was 63.08 ± 10.96, with the age group of 50-69 accounting for 59.5%. There were 18 patients with a history of tobacco use and 18 patients with a history of hypertension. Symptoms of intermittent claudication appeared on 91.9% of patients, of whom 31 were hospitalized with severe limb ischemia. 100% of patients undergoing MSCT performed abdominal aorta and artery of lower limbs. Standard surgical treatment isaortofemoral bypass grafting with a complication rate of 16.2%, with no death within 30 days after surgery. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Leriche RR, Morel A (1948). The syndrome of thrombotic obliteration of the aortic bifurcation. Ann Surg, 127, 193 2. Đoàn Quốc Hưng (2006). Một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị phẫu thuật thiếu máu chi dưới mạn tính do xơ vữa động mạch. Tạp chí Y học Việt Nam, số 7: 22-30. 3. Schneider JR, Besso SR, Walsh DB et al (1994). Femorofemoral versus aortobifemoral bypass: Outcomeand hemodynamic results. J Vasc Surg,19, 43- 57. 4. Friedman SG, Lazzaro RS, Spier LN et al (1995). A prospective randomized comparison of Dacron andpolytetrafluoroethylene aortic bifurcation grafts. Surgery, 117, 7-10. 5. Johnson WC, LoGerfo F, et al (1977). Is axillo-bilateral femoral graft an effective substitute for aortic - bilateral iliac/femoral graft?An analysis of ten years experience. Ann Surg,186, 123-9. 6. Martinez BD, Hertzer NR, Beven EG (1980). Influence of distalarterial occlusive disease on prognosis following aortobifemoral bypass. Surgery, 88, 795-805. 7. Hughson WG (1978). Intermittent claudication: Prevalence and risk factors. BMJ Surg, 1, 1379-1381. 8. Masayoshi Kobayashi, Kenji Hida (2004). Longterm outcome of femoropopliteal bypass for claudication and critical ischemia. Asian Cardiovasc Thorac Ann, 12, 208-212. 9. Phạm Thọ Tuấn Anh (1996). Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị ngoại khoa tắc động mạch chi dưới mạn tính. Luận án chuyên khoa cấp II, chuyên ngành ngoại tim mạch, Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh. 10. Malone JM, Goldstone I, Moore WS (1975). The natural history ofbilateral aortofemoral bypass grafts for ischemia of the lowerextremities. Arch Surg, 110, 1300-6. 11. Marc A. Passman, MD, Lloyd M. Taylor, Jr et al (1996).Comparison of axillofemoral andaortofemoral bypass for aortoiliacocclusive disease. Journal of vascular surgery, 23, 263-271.
File đính kèm:
dac_diem_lam_sang_can_lam_sang_va_ket_qua_phau_thuat_dieu_tr.pdf

