Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và chức năng thận của bệnh nhân ứ nước, ứ mủ thận điều trị dẫn lưu thận qua da

Ứ nước, ứ mủ bể thận là hiện tượng giãn của đài bể thận do sự tắc nghẽn đường dẫn nước tiểu. Tại

bệnh viện Đại học Y Hà Nội, kỹ thuật dẫn lưu bể thận qua da đã được tiến hành thường quy đem lại hiệu

quả cao và ít gây ra tai biến cho bệnh nhân. Nghiên cứu nhằm khảo sát các triệu chứng lâm sàng, cận lâm

sàng của ứ nước, ứ mủ bể thận; Đánh giá tình trạng sốc, chức năng thận trước- sau can thiệp. Nghiên cứu

mô tả cắt ngang trên 122 bệnh nhân với chẩn đoán ứ nước, ứ mủ bể thận được dẫn lưu thận qua da điều trị

tại khoa Ngoại B- Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 11/2017 đến tháng 3/2018. Có 81 bệnh nhân nam

(66,4%). Triệu chứng lâm sàng hay gặp nhất là đau hông lưng 86,1%. 33,9% bệnh nhân nhiễm trùng, 89,8%

suy thận các mức độ từ độ I đến độ IV, thiếu máu 8,5%, bạch cầu niệu 91,9%, hồng cầu niệu 87,9%, đài

bể thận giãn mức độ nhẹ chiếm 74,1%. Triệu chứng đau hông lưng có thể là chỉ điểm sớm để chẩn đoán

sớm ứ nước, ứ mủ bể thận. Tình trạng suy thận trước và sau dẫn lưu thận qua da không có sự khác biệt.

pdf 6 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và chức năng thận của bệnh nhân ứ nước, ứ mủ thận điều trị dẫn lưu thận qua da", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và chức năng thận của bệnh nhân ứ nước, ứ mủ thận điều trị dẫn lưu thận qua da

Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và chức năng thận của bệnh nhân ứ nước, ứ mủ thận điều trị dẫn lưu thận qua da
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 257
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ CHỨC NĂNG THẬN 
CỦA BỆNH NHÂN Ứ NƯỚC, Ứ MỦ THẬN ĐIỀU TRỊ 
DẪN LƯU THẬN QUA DA
Nguyễn Đức Anh, Lê Ngọc Hà và Phạm Thị Ngọc Bích 
Trường Đại học Y Hà Nội
Ứ nước, ứ mủ bể thận là hiện tượng giãn của đài bể thận do sự tắc nghẽn đường dẫn nước tiểu. Tại 
bệnh viện Đại học Y Hà Nội, kỹ thuật dẫn lưu bể thận qua da đã được tiến hành thường quy đem lại hiệu 
quả cao và ít gây ra tai biến cho bệnh nhân. Nghiên cứu nhằm khảo sát các triệu chứng lâm sàng, cận lâm 
sàng của ứ nước, ứ mủ bể thận; Đánh giá tình trạng sốc, chức năng thận trước- sau can thiệp. Nghiên cứu 
mô tả cắt ngang trên 122 bệnh nhân với chẩn đoán ứ nước, ứ mủ bể thận được dẫn lưu thận qua da điều trị 
tại khoa Ngoại B- Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 11/2017 đến tháng 3/2018. Có 81 bệnh nhân nam 
(66,4%). Triệu chứng lâm sàng hay gặp nhất là đau hông lưng 86,1%. 33,9% bệnh nhân nhiễm trùng, 89,8% 
suy thận các mức độ từ độ I đến độ IV, thiếu máu 8,5%, bạch cầu niệu 91,9%, hồng cầu niệu 87,9%, đài 
bể thận giãn mức độ nhẹ chiếm 74,1%. Triệu chứng đau hông lưng có thể là chỉ điểm sớm để chẩn đoán 
sớm ứ nước, ứ mủ bể thận. Tình trạng suy thận trước và sau dẫn lưu thận qua da không có sự khác biệt.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Dẫn lưu thận qua da, ứ nước, ứ mủ bể thận.
Ứ nước, ứ mủ bể thận, niệu quản là hiện 
tưng giãn của đài bể thận và niệu quản do sự 
tắc nghẽn đường dẫn nước tiểu. Tình trạng 
giãn đài bể thận có thể là sinh lý hoặc bệnh lý 
(cấp tính hoặc mạn tính), một bên hoặc cả hai 
bên. Hiện tượng này có thể là thứ phát sau tắc 
nghẽn đường niệu nhưng cũng có thể xảy ra dù 
không có tắc nghẽn. Hiện nay chưa có báo cáo 
chi tiết về tỉ lệ ứ nước đài bể thận trên người 
trưởng thành, tuy nhiên một nghiên cứu pháp 
y trên 59.064 người Mỹ báo cáo tỉ lệ ứ nước 
bể thận trong toàn dân số là 3,1%.¹ Tắc nghẽn 
đường tiểu làm hủy hoại cấu trúc kèm suy 
giảm chức năng thận, những tổn thương này 
phụ thuộc vào mức độ cũng như thời gian tắc 
nghẽn. Nếu tắc nghẽn tạm thời thường chỉ gây 
rối loạn tạm thời, nhưng tắc kéo dài sẽ làm tổn 
thương thận vĩnh viễn, cuối cùng dẫn đến bệnh 
thận mạn giai đoạn cuối cần phải điều trị thay 
thế thận.² Do đó cần phải chẩn đoán và điều 
trị kịp thời nhằm giảm bớt tỷ lệ BN suy thận và 
bệnh thận giai đoạn cuối. Dẫn lưu thận qua da 
(Percutaneous Nephrostomy- PCN) là một thủ 
thuật xâm lấn thường được dùng để giảm áp 
lực trong hệ thống bài xuất nước tiểu. Kết quả 
thủ thuật được báo cáo đầu tiên vào năm 1955 
bởi William Goodwin, từ đó PCN đã trở thành 
lựa chọn hàng đầu nhằm dẫn lưu tạm thời hoặc 
lâu dài khi có tắc nghẽn đường tiết niệu.³ Tại 
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, kỹ thuật PCN đã 
được tiến hành thường quy đem lại hiệu quả 
cao và ít gây ra tai biến cho BN. Chúng tôi tiến 
hành nghiên cứu này với 2 mục tiêu:
1. Khảo sát các triệu chứng lâm sàng, cận 
Tác giả liên hệ: Phạm Thị Ngọc Bích,
Bộ môn Y học Gia đình, Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 10/10/2020
Ngày được chấp nhận: 10/12/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020258
lâm sàng của ứ nước, ứ mủ bể thận.
2. Đánh giá chức năng thận trước và sau 
can thiệp.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Tiêu chuẩn lựa chọn: Tất cả các bệnh nhân 
được chẩn đoán ứ nước, ứ mủ bể thận được 
tiến hành dẫn lưu bể thận qua da và có hồ sơ 
bệnh án lưu tại phòng lưu trữ hồ sơ của Bệnh 
viện Đại học Y Hà Nội. 
Tiêu chuẩn loại trừ: Các bệnh nhân có ứ 
nước, ử mủ bể thận nhưng không được dẫn 
lưu bể thận qua da.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 11/2017 đến 
tháng 03/2018.
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến 
hành tại Khoa Ngoại B, Bệnh viện Đại học Y 
Hà Nội.
Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu: Chọn 
mẫu thuận tiện và thu nhận được 122 bệnh 
nhân được chẩn đoán ứ nước ứ mủ bể thận và 
được dẫn lưu thận qua da.
Chỉ định dẫn lưu bể thận qua da: Tắc nghẽn 
đường bài xuất trên do mọi nguyên nhân (chiếm 
85 - 90% các chỉ định) như: Sỏi thận, sỏi niệu 
quản, viêm xơ hóa co thắt niệu quản. Bệnh ác 
tính: ung thư cổ tử cung, ung thư tuyến tiền liệt, 
ung thư của hệ tiết niệu. Chít hẹp niệu quản 
sau phẫu thuật, viêm ứ mủ bể thận, tắc nghẽn 
do thai kì. Tổn thương đường bài xuất dưới 
như chấn thương niệu quản, dò bàng quang, 
viêm bàng quang chảy máu. Chuẩn bị cho các 
can thiệp hoặc thăm dò đường bài xuất như: 
lấy sỏi thận, sỏi niệu quản qua da, rò nước tiểu, 
đặt stent bể thận- niệu quản xuôi dòng qua da, 
nong tạo hình niệu quản qua da, sinh thiết niệu 
quản qua da, lấy dị vật hệ tiết niệu qua da, điều 
trị các biến chứng liên quan đến cấy ghép thận, 
cung cấp thuốc hoặc hóa trị liệu vào hệ thống 
thu thập như: hóa chất hào tan sỏi, kháng sinh, 
kháng nấm
Chống chỉ định: rối loạn đông máu nặng 
không đáp ứng điều trị, đang điều trị chống 
đông, tăng huyết áp không kiểm soát được, 
khối u thận, lao thận, toàn trạng nặng, tiên 
lượng tử vong.
Trong nghiên cứu của chúng tôi nhận được 
nguyên nhân gây tắc nghẽn gồm: 77,59% bệnh 
nhân bị sỏi thận, 15,52% bệnh nhân sỏi thận, 
6,03% bệnh nhân đồng thời có sỏi thận và sỏi 
niệu quản và 0,86% tắc nghẽn do u thận. Không 
có bệnh nhân nào có chống chỉ định
Biến số nghiên cứu chính: 
- Thông tin chung: tuổi, giới, nghề nghiệp
- Triệu chứng lâm sàng: mức độ đau dựa 
theo thang điểm VAS, đau hông lưng, hội 
chứng nhiễm trùng
- Xét nghiệm cận lâm sàng: bạch cầu, CRP, 
PCT, Hemoglobin, mức lọc cầu thận, siêu âm 
ổ bụng, chụp hệ tiết niệu không chuẩn bị, chụp 
cắt lớp vi tính ổ bụng.
3. Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm STATA 
14.0. Trình bày số liệu: biến định lượng phân 
bố chuẩn: trung bình và độ lệch chuẩn, không 
chuẩn: trung vị và khoảng tứ phân vị; biến định 
tính: tần số và tỷ lệ. So sánh sự khác nhau giữa 
2 tỷ lệ bằng Fisher’s Exact. Sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê khi p < 0,05. 
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được sự đồng ý của Ban giám 
đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Bệnh án được 
lựa chọn tại kho lưu trữ hồ sơ của Phòng Kế 
hoạch Tổng hợp, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. 
Các thông tin của bệnh nhân được mã hoá và 
bảo vệ bí mật và chỉ sử dụng phục vụ cho mục 
đích nghiên cứu.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 259
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của BN ứ nước ứ mủ bể thận
Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm
Đặc điểm N (%)
Thông tin chung
Giới nam 78 (66,4)
Tuổi (năm) 53,9± 0,98
Lâm sàng
Đau hông lưng 105 (86,1)
Sốc 1 (0,8)
Vỗ hông lưng (+) 6 (4,9)
Thận to 7 (5,7)
Đái buốt, đái rắt 9 (7,4)
Bí tiểu, cầu bàng quang 1 (0,8)
Đái máu đại thể 13 (10,7)
Đái mủ 2 (1,6)
Thiếu máu
Không 108 (91,5)
Nhẹ 9 (7,6)
Vừa 1 (0,9)
Nặng và rất nặng 0
Nhiễm trùng (dựa vào bạch cầu, PCT, CRP) 40 (33,9)
Xét nghiệm nước tiểu
Hồng cầu niệu 87 (87,9)
Bạch cầu niệu 91 (91,9)
Nitrit (+) 8 (8,1)
Triệu chứng lâm sàng hay gặp nhất là đau 
hông lưng, nhiễm trùng.Xét nghiệm nước tiểu 
đa số có hồng cầu niệu và bạch cầu niệu
2. Chức năng thận của bệnh nhân trước và 
sau can thiệp PCN
 Có 18 bệnh nhân suy thận trong 122 bệnh 
nhân trong nghiên cúu khi vào viện, chỉ có 4 
bệnh nhân có xét nghiệm lại Creatinin máu để 
đánh giá chức năng thận sau dẫn lưu bể thận, 
trong đó 50% còn suy thận mức độ nhẹ, 50% 
hết suy thận hoàn toàn.
IV. BÀN LUẬN
 Tỷ lệ bệnh nhân nam trong nghiên cứu 
của chúng tôi là 66,4%, tương tự Nguyễn Văn 
Truyện 63,21%,⁴ cao hơn Nguyễn Thị Hường5 
(37%). Sự khác nhau đó có thể do địa điểm, 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020260
mẫu nghiên cứu và tình trạng bệnh của bệnh 
nhân khi vào khám và điều trị tại cơ sở y tế. Tuổi 
trung bình là 53,9 ± 10,8. Kết quả này tương tự 
với Nguyễn Thị Hường (55,7 ± 14,5),⁵ Nguyễn 
Văn Truyện⁴ (47±12,2), Se Y.K⁶ ((57,1±7,4). 
Đau hông lưng là triệu chứng lâm sàng hay 
gặp nhất trong ứ nước, ứ mủ bể thận, mức 
độ trung bình (79,5%) với điểm VAS là 4,3 ± 
0,2. Kết quả tương tự với Nguyễn Thị Hường5 
(90,9%), Nguyễn Kiều Hưng⁷ (81%). Một số tác 
giả cho rằng nếu nguyên nhân tắc nghẽn nằm 
cố định thì bệnh nhân chỉ thấy đau âm ỉ hay mỏi 
lưng vì thận, niệu quản đã bị giãn trong thời gian 
dài, mất trương lực. Nếu nguyên nhân là sỏi và 
viên sỏi di chuyển làm tắc cấp tính bể thận hoặc 
niệu quản sẽ gây cơn đau quặn thận. Đái máu 
đại thể là khi hồng cầu niệu nhiều, nước tiểu 
có màu hồng cho đến đỏ tươi hoặc đỏ sẫm, 
nguyên nhân thường do sỏi thận, niệu quản; 
nhiễm khuẩn đường tiết niệu, u tiết niệu⁸. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, đái máu đại thể gặp 
ở 10,7%, tương tự với Nguyễn Kiều Hưng⁷ năm 
(11,9%), Nguyễn Thị Hường⁵ (9,1%). Có thể lý 
giải đặc điểm này là do rất nhiều bệnh nhân sẽ 
không đi khám nếu chỉ đau âm ỉ trong một thời 
gian ngắn, tuy nhiên nếu có bất thường nước 
tiểu như tiểu hồng, tiểu đỏ hoặc tiểu ra máu cục 
bệnh nhân sẽ lo lắng và đi khám sớm. 
33,9% bệnh nhân có nhiễm trùng, biểu hiện 
ở việc thay đổi công thức bạch cầu, tăng các 
marker viêm như CRP hoặc PCT. Trong nhóm 
bệnh nhân nghiên cứu có 4 người với biểu hiện 
nhiễm trùng nặng trên lâm sàng và cận lâm 
sàng đã phải tiến hành PCN cấp ngay sau khi 
nhập viện.
Các xét nghiệm về nước tiểu cũng cho thấy 
tình trạng nhiễm trùng khá phổ biến như bạch 
cầu niệu (91,9%), hồng cầu niệu (81,9%), nitrit 
(+) (8,1%). Hầu hết số bệnh nhân có biểu hiện 
nhiễm trùng đều bị tắc nghẽn đường tiết niệu 
do sỏi. Như vậy, sỏi tiết niệu chính là yếu tố 
thuận lợi thúc đẩy quá trình viêm nhiễm khi có 
tắc nghẽn đường niệu.⁹
Suy thận là hậu quả do đường tiết niệu bị 
tắc nghẽn lâu dài mà không được điều trị phù 
hợp. Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 89,8% 
bị suy thận từ độ I đến độ IV, trong khi tỉ lệ 
bệnh nhân có thiếu máu là 9,3%. Như vậy có 
thể suy ra hầu hết số bệnh nhân suy thận khi 
vào viện là suy thận cấp, và mục đích của dẫn 
lưu thận qua da nhằm giải phóng ứ tắc, giúp 
phục hồi chức năng thận, làm giảm nguy cơ từ 
suy thận cấp tiến triển thành suy thận mạn và 
suy thận giai đoạn cuối. Kết quả của chúng tôi 
cũng tương tự với Nguyễn Kiều Hưng⁷ (78,6%). 
Kết quả này cho thấy phần lớn bệnh nhân đến 
viện khi đã ở giai đoạn tương đối muộn, đã có 
những biến đổi về chức năng thận. Khi tình 
trạng ứ nước thận càng kéo dài, nhu mô thận 
thoái hóa không hồi phục hoặc hồi phục ít, chức 
năng thận ngày càng suy giảm. Để ngăn chặn 
quá trình này thì phải nhanh chóng giải quyết 
tắc nghẽn càng sớm càng tốt. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, sau khi 
được dẫn lưu có 19 bệnh nhân (15,6%) được 
kiểm tra lại chức năng thận. Điều này có thể do 
chỉ những bệnh nhân có biểu hiện suy thận rõ 
trên lâm sàng mới được xét nghiệm đánh giá lại 
chức năng thận sau PCN, còn lại những bệnh 
nhân khác trên lâm sàng tình trạng ổn định nên 
bác sĩ không chỉ định làm lại xét nghiệm này. 
Tất cả 19 bệnh nhân được làm lại xét nghiệm 
đánh giá chức năng thận sau PCN đều có suy 
thận ở các mức độ khác nhau. Nếu so sánh 
riêng 19 bệnh nhân này, có 5 bệnh nhân cải 
thiện mức độ suy thận sau khi được làm PCN 
(26,32%), 5 bệnh nhân suy thận nặng lên sau 
PCN (26,32%) và 9 bệnh nhân không thay đổi 
mức độ suy thận sau PCN (47,37%). Tuy nhiên, 
sự khác biệt về mức độ suy thận trước và sau 
PCN không có ý nghĩa.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có 8/122 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020 261
BN (6,56%) có hội chứng nhiễm trùng rõ trên 
lâm sàng, tuy nhiên trên xét nghiệm có tới 
45/122 BN (36,89%) có nhiễm trùng, biểu hiện 
ở tăng, giảm số lượng hoặc thay đổi công thức 
bạch cầu, tăng các marker viêm như CRP hoặc 
Pro-calcitonin. Trong số này có 4 BN với biểu 
hiện nhiễm trùng nặng trên lâm sàng và cận 
lâm sàng đã phải tiến hành PCN cấp ngay sau 
khi nhập viện, có 1 bệnh nhân có triệu chứng 
sốt rét run, mạch nhanh, huyết áp tụt biểu hiện 
của hội chứng sốc nhiễm trùng trước khi được 
làm PCN.
V. KẾT LUẬN
Triệu chứng đau hông lưng có thể là chỉ 
điểm sớm để chẩn đoán sớm ứ nước, ứ mủ 
bể thận. Dẫn lưu thận sớm giúp giải quyết tình 
trạng ứ nước ứ mủ bể thận, tránh sốc nhiễm 
trùng và giảm nguy cơ suy thận cho bệnh nhân, 
giúp bệnh nhân phục hồi sớm hơn. Tuy nhiên, 
nghiên cứu của chúng tôi còn nhiều hạn chế, 
cũng như số liệu chưa được đầy đủ, nên cần có 
thêm nghiên cứu chặt chẽ để kiểm chứng và áp 
dụng kỹ thuật tại nhiều cơ sở y tế hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Wein AJ, Kavoussi LR, Partin AW et al. 
Pathophysiology of urinary tract obstruction. 
2016.109 - 1103.
2. Phạm Văn Bùi. Bế tắc đường tiểu. Nhà 
xuất bản Y học. 2007, 118 - 23.
3. Dyer RB, Assimos DG, Regan JD. Update 
on interventional uroradiology. Urol Clin North 
Am. 1997, 623 - 52.
4. Nguyễn Văn Truyện, Đặng Đức Hoàng và 
Nguyễn Đình Nguyên Đức. Đánh giá kết quả 
nội soi phẫu thuật lấy sỏi qua da và các yếu 
tố liên quan tại bệnh viện đa khoa Thống Nhất 
Đồng Nai. Tạp chí Y học TP Hồ Chí Minh, 2014, 
18(4), 71 - 77.
5.Karim R và Samanta U. Das. Percutaneous 
nephrostomy by direct unture technique: An 
observational study. Indial journal of nephrology. 
2010, 20(2), 84 - 8.
6. Se YK, Bum SK, Hyun TK et al. Efficacy 
of Percutaneous Nephrostomy During Flexible 
Ureteroscopy for Renal Stone Management. 
Korean Journal of Urology. 2013, 51(10), tr. 689 
- 91.
7. Nguyễn Kiều Hưng. Đánh giá hiệu quả 
của phương pháp dẫn lưu thận qua da dưới 
hướng dẫn của siêu âm tại bệnh viện Việt Đức 
giai đoạn 2013 - 2015, Ngoại khoa, Đại học Y 
Hà Nội, Hà Nội.
8. Đỗ Gia Tuyển. Triệu chứng học nội khoa, 
Thận - Tiết niệu. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 
2017(6), 444 - 49.
9. Hà Phan Hải An. Bệnh học nội khoa, 
Thận - Tiết niệu. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 
2018(3), 387.
Summary
THE CLINICAL AND PARA-CLINICAL CHARACTERISTICS 
AND RENAL FUNCTION OF HYDRONEPHROSIS 
AND PYONEPHROSIS PATIENTS TREATED 
BY PERCUTANEOUS NEPHROSTOMY
Hydronephrosis and pyonephrosis are renal pelvis dilation. Percutaneous nephrostomy 
is a routine procedure in Hanoi Medical University Hospital proven to be effective with the least 
complications. The purpose of this study was to review signs and symptoms of hydronephrosis and 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 134 (10) - 2020262
pyonephrosis and to evaluate renal function pre- and post- percutaneous nephrostomy. A cross-
sectional study in 122 hydronephrosis and pyonephrosis patients treated with PCN in Surgery 
Department B, Hanoi Medical University Hospital was conducted from November 2017 to March 
2018. 66.4% of participants were male (81 subjects). The dominant symptom was lower back 
pain (86.1%). Associated signs were rates of infection, chronic kidney disease, anemia, leukouria, 
haematuria and mild renal pelvis dilation representing 66.1%, 89.8%, 8.5%, 91.9%, 87.9% and 
74.1%, respectively. Lower back pain could be the early marker for hydronephrosis. There was no 
difference of kidney failure pre- and post- percutaneous nephrostomy and pyonephrosis diagnosis. 
Key words: Percutaneous Nephrostomy, hydronephrosis, pyonephrosis.

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_lam_sang_can_lam_sang_va_chuc_nang_than_cua_benh_nh.pdf