Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và các chỉ số siêu âm tử cung buồng trứng trong dậy thì sớm ở trẻ gái

Mục tiêu: Nghiên cứu mô tả đặc điểm lâm

sàng, cận lâm sàng của dậy thì sớm trung

ương (DTSTƯ) và tuyến vú phát triển sớm

(TVPTS) và xác định giá trị của các chỉ số

siêu âm tử cung buồng trứng trong chẩn đoán

phân biệt dậy thì sớm trung ương vô căn và

tuyến vú phát triển sớm ở trẻ gái. Phương

pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Nghiên

cứu gồm 58 các trẻ gái có tuyến vú phát triển

trước 8 tuổi từ tháng 5 năm 2017 đến tháng 7

năm 2019. Kết quả: Có 34 (58,62%) trẻ

DTSTƯ và 24 (41,38%) trẻ TVPTS. Nồng độ

hormone LH, FSH và tỷ số LH/FSH trong

huyết thanh và tỷ lệ tuổi xương lớn hơn tuổi

thực có ý nghĩa của nhóm DTSTƯ cao hơn

nhóm TVPTS p<0,05. chiều="" cao,="" chiều="">

chiều trước sau, thể tích tử cung và thể tích

buồng trứng của nhóm DTSTƯ lớn hơn nhóm

TSPTS p<0,05. chiều="" cao="" tử="" cung="">29,00mm

có giá trị nhất trong chẩn đoán DTSTƯ với

AUC là 0,770 (khoảng tin cậy 95% là 0,641-

0,870).

pdf 7 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và các chỉ số siêu âm tử cung buồng trứng trong dậy thì sớm ở trẻ gái", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và các chỉ số siêu âm tử cung buồng trứng trong dậy thì sớm ở trẻ gái

Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và các chỉ số siêu âm tử cung buồng trứng trong dậy thì sớm ở trẻ gái
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
118 
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ CÁC CHỈ SỐ 
SIÊU ÂM TỬ CUNG BUỒNG TRỨNG TRONG DẬY THÌ SỚM Ở TRẺ GÁI 
Nguyễn Hồ Đan Nguyên1,Hoàng Thị Thủy Yên1, Nguyễn Thị Diễm Chi2 
1. Bộ môn Nhi Đại học Y Dược Huế 
2. Trung tâm Nhi khoa, BV Trung ương Huế 
DOI: 10.47122/vjde.2020.41.17 
ABSTRACT 
Clinical, laboratory and ultrasonographic 
parameters of precocious puberty in girls 
Objective: The aim of this study was to 
compare the clinical and laboratory 
parameters of idiopathic CPP and PT and 
investigate the diagnostic usefulness of pelvic 
ultrasonography to distinguish between 
idiopathic CPP and PT in girls with early 
breast development. Methods: Cross-
sectional descriptive study. This study 
included 58 girls with breast development 
before age of 8 years who visited the clinic 
between May 2017 and July 2019. Results: A 
total of 58 girls were included, among whom 
34 (58.62%) had CPP and 24 (41.38%) had 
PT. The age of pubertal onset, the percentage 
of height for age >2SD. The LH, FSH level, 
LH/FSH ratio and the percentage of advanced 
bone age showed significant differences 
between 2 groups. The uterine length, width, 
anteroposterior diameter, volume, and ovarian 
volume were significantly larger in the CPP 
group. In receiver operating characteristic 
analysis, a uterine length of at least 29.00mm 
was the most predictive parameter for CPP 
with an area under the curve of 0.770 (95% 
confidence interval, 0.641–0.870). 
Conclusion: It is difficult to differentiate 
between central precocious puberty (CPP) 
and premature thelarche (PT) in girls. Uterine 
and ovarian measurements by pelvic 
ultrasonography in girls with early pubertal 
development were significantly larger in the 
CPP group. Therefore, pelvic ultrasonography 
in combination with clinical and laboratory 
tests may be useful to distinguish between 
CPP and PT in girls. 
Key words: Precocious puberty, Central 
precocious puberty, Premature thelarche, 
pelvic ultrasonography. 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Nghiên cứu mô tả đặc điểm lâm 
sàng, cận lâm sàng của dậy thì sớm trung 
ương (DTSTƯ) và tuyến vú phát triển sớm 
(TVPTS) và xác định giá trị của các chỉ số 
siêu âm tử cung buồng trứng trong chẩn đoán 
phân biệt dậy thì sớm trung ương vô căn và 
tuyến vú phát triển sớm ở trẻ gái. Phương 
pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Nghiên 
cứu gồm 58 các trẻ gái có tuyến vú phát triển 
trước 8 tuổi từ tháng 5 năm 2017 đến tháng 7 
năm 2019. Kết quả: Có 34 (58,62%) trẻ 
DTSTƯ và 24 (41,38%) trẻ TVPTS. Nồng độ 
hormone LH, FSH và tỷ số LH/FSH trong 
huyết thanh và tỷ lệ tuổi xương lớn hơn tuổi 
thực có ý nghĩa của nhóm DTSTƯ cao hơn 
nhóm TVPTS p<0,05. Chiều cao, chiều rộng, 
chiều trước sau, thể tích tử cung và thể tích 
buồng trứng của nhóm DTSTƯ lớn hơn nhóm 
TSPTS p29,00mm 
có giá trị nhất trong chẩn đoán DTSTƯ với 
AUC là 0,770 (khoảng tin cậy 95% là 0,641-
0,870). Kết luận: Khó phân biệt DTSTƯ và 
TVPTS bằng các dấu hiệu lâm sàng. Các chỉ 
số của tử cung và buồng trứng trên siêu âm 
của nhóm DTSTƯ lớn hơn nhóm TVPTS có ý 
nghĩa về mặt thống kê. Vì vậy, nên kết hợp 
các chỉ số siêu âm tử cung buồng trứng với 
các dấu hiệu lâm sàng và xét nghiệm sinh hóa 
trong chẩn đoán DTSTƯ ở trẻ gái. 
Từ khóa: Dậy thì sớm, dậy thì sớm trung 
ương, tuyến vú phát triển sớm, siêu âm tử 
cung buồng trứng. 
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Hồ Đan 
Nguyên 
Ngày nhận bài: 8/8/2020 
Ngày phản biện khoa học: 9/9/2020 
Ngày duyệt bài: 13/10/2020 
Email: [email protected] 
Điện thoại: 0934890909 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
119 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Dấu hiệu thường gặp nhất ở trẻ gái là 
tuyến vú phát triển. Sự phát triển của tuyến 
vú trước 8 tuổi ở trẻ gái là biểu hiện lâm 
sàng của dậy thì sớm trung ương, dậy thì 
sớm ngoại vi hoặc là một biến thể lành tính 
của dậy thì sớm (gọi là tuyến vú phát triển 
sớm). Các dấu hiệu lâm sàng không thể giúp 
phân biệt dậy thì sớm trung ương và tuyến 
vú phát triển sớm. Biến đổi nồng độ các 
hormone LH trong huyết thanh, Estradiol 
trong huyết thanh, cho thấy sự khác biệt giữa 
dậy thì sớm trung ương và tuyến vú phát 
triển sớm nhưng các tiêu chuẩn còn nhiều 
tranh cãi [3], [4]. Từ trước đến nay, nghiệm 
pháp kích thích bằng GnRH/aGnRH vẫn 
được coi là tiêu chuẩn vàng chẩn đoán dậy 
thì sớm trung ương [3]. Tuy nhiên, nghiệm 
pháp này có giá thành cao, tốn thời gian và 
không sẵn có ở nhiều cơ sở y tế. 
Trong khi đó, siêu âm tử cung buồng trứng 
là xét nghiệm không xâm nhập, ít tốn thời 
gian, sẵn có ở nhiều cơ sở y tế đang được 
nghiên cứu ngày càng nhiều để ứng dụng trong 
chẩn đoán dậy thì sớm trung ương ở trẻ gái. Vì 
vậy, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm mô tả 
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của dậy thì 
sớm vô căn ở trẻ gái và xác định giá trị của các 
chỉ số siêu âm tử cung, buồng trứng trong chẩn 
đoán dậy thì sớm trung ương vô căn ở trẻ gái. 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tượng: Trẻ gái được chẩn đoán 
dậy thì sớm tại Bệnh viện Trường Đại học Y 
Dược Huế và Bệnh viện Trung ương Huế từ 
tháng 5 năm 2017 đến tháng 7 năm 2019. 
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn: Trẻ gái có tuyến 
vú phát triển từ giai đoạn B2 trở lên (theo 
phân loại Marshall và Tanner) trước 8 tuổi. 
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ: Dậy thì sớm 
ngoại vi và dậy thì sớm trung ương có nguyên 
nhân. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên 
cứu mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu thuận tiện có 58 
bệnh nhi đủ tiêu chuẩn chọn bệnh, phân thành 
2 nhóm: dậy thì sớm trung ương hoặc tuyến 
vú phát triển sớm, dựa trên nghiệm pháp kích 
thích bằng aGnRH. Tiêm dưới da 0,1 mg 
Triptorelin acetate, lấy máu làm xét nghiệm 
nồng độ hormone FSH, LH tại thời điểm 0 và 
60 phút sau khi tiêm. Nhóm dậy thì sớm trung 
ương khi nồng độ LH huyết thanh sau test ≥ 5 
mIU/mlvà nhóm tuyến vú phát triển sớm. 
2.3. Xử lý số liệu: Xử lý số liệu bằng phần 
mềm SPSS 20, Medcalc 19.1. 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
3.1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của dậy thì sớm ở trẻ gái. 
Bảng 3.1. Tuổi đến khám lần đầu 
 Dậy thì sớm (n=58) 
Tuổi đến khám lần đầu 
(năm) 
Trung vị (25th-75th) Thấp nhất Cao nhất 
6,46 (5,13-7,46) 0,58 9,00 
Bảng 3.2. Đặc điểm phát triển tuyến vú theo phân loại Tanner 
Phát triển tuyến vú theo 
Tanner 
DTSTƯ TVPTS 
p 
n % n % 
B2 17 50,00 22 91,70 
<0,05 
B3 13 38,20 2 8,30 
B4 4 11,80 0 0,00 
Tổng 34 100,00 24 100,00 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
120 
Bảng 3.3. Đặc điểm phát triển lông mu theo phân loại Tanner 
Phát triển lông mu theo 
Tanner 
DTSTƯ TVPTS 
p 
n % n % 
P1 29 85,30 24 100 
>0,05 
P2 4 11,76 0 0 
P3 1 2,94 0 0 
Tổng 34 100 24 100 
Bảng 3.5. Tuổi xương của các đối tượng nghiên cứu 
Tuổi xương 
DTSTƯ TVPTS 
p 
n % n % 
Lớn hơn tuổi thực 22 64,70 2 8,30 
<0,01 
Tương đương tuổi thực 9 26,50 18 75,00 
Nhỏ hơn tuổi thực 3 8,80 4 16,70 
Tổng 34 100,00 24 100,00 
Bảng 3.6. Nồng độ hormon FHH-LH nền trong huyết thanh 
Nồng độ trong huyết thanh 
Trung vị (25th-75th) 
DTSTƯ 
(n=34) 
TVPTS 
(n=24) 
p 
Nồng độ LH nền (mIU/ml) 
0,25 
(0,10-1,20) 
0,05 
(0,03-0,10) 
<0,01 
Nồng độ FSH nền (mIU/ml) 
3,24 
(2,23-4,96) 
1,42 
(1,15-2,87) 
<0,01 
Tỷ số nồng độ LH/FSH 
0,08 
(0,05-0,28) 
0,03 
(0,02-0,07) 
<0,01 
Bảng 3.7. Nồng độ sau test aGnRH của các hormone FSH-LH 
Nồng độ trong huyết thanh 
Trung vị (25th-75th) 
DTSTƯ (n=30) TVPTS (n=8) p 
Nồng độ LH sau test 
(mIU/ml) 
12,21 
(7,12-26,42) 
3,85 
(1,53-4,71) 
<0,01 
Tỷ số nồng độ LH/FSH sau 
test 
0,90 
(0,40-1,57) 
0,34 
(0,15-0,64) 
<0,01 
Bảng 3.8. Nồng độ Estradiol trong huyết thanh 
Nồng độ Estradiol máu 
(pg/ml) 
DTSTƯ TVPTS 
p 
n % n % 
<10 20 58,80 21 87,50 
>0,05 ≥10 14 41,20 3 12,50 
Tổng 34 100,00 24 100,00 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
121 
Bảng 3.9. Các chỉ số siêu âm tử cung buồng trứng 
Các chỉ số 
Trung vị (25th-75th) 
DTSTƯ 
(n=34) 
TVPTS 
(n=24) 
p 
Chiều cao tử cung (mm) 
32,00 
(24,75-38,50) 
23,50 
(21,25-26,00) 
<0,01 
Chiều rộng tử cung (mm) 
18,00 
(14,00-24,25) 
13,00 
(10,25-17,00) 
<0,05 
Chiều trước sau tử cung (mm) 
10,00 
(7,38-12,25) 
8,00 
(6,58-9,88) 
<0,05 
Thể tích tử cung (ml) 
2,80 
(1,30-4,89) 
1,36 
(0,77-1,87) 
<0,01 
Thể tích buồng trứng (ml) 
2,26 
(1,11-4,33) 
0,81 
(0,44-1,98) 
<0,01 
3.2. Giá trị chẩn đoán dậy thì sớm trung ương của các chỉ số siêu âm tử cung buồng trứng 
Bảng 3.10. Diện tích dưới đường cong ROC của các chỉ số siêu âm 
Chỉ số AUC Khoảng tin cậy 95% p 
Chiều cao tử cung 0,770 0,641 - 0,870 
>0,05 
Chiều rộng tử cung 0,724 0,591 - 0,833 
Chiều trước sau tử cung 0,668 0,532 - 0,786 
Thể tích tử cung 0,754 0,623 - 0,857 
Thể tích buồng trứng 0,709 0,575 - 0,821 
Biểu đồ 3.1. So sánh đường cong ROC của các chỉ số siêu âm tử cung buồng trứng 
Đ
ộ
 n
h
ạy
100 - Độ đặc hiệu 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
122 
Biểu đồ 3.2. So sánh đường cong ROC của chiều cao tử cung và nồng độ các hormone 
hướng sinh dục trong huyết thanh (p>0,05) 
4. BÀN LUẬN 
4.1. Nhận xét về tuổi 
Từ bảng 3.1 và 3.2, theo nghiên cứu này, 
trẻ gái dậy thì sớm nằm trong độ tuổi từ 7 
tháng đến 9 tuổi, và không có sự khác biệt 
về mặt thống kê khi so sánh tuổi xuất hiện 
dấu hiệu dậy thì đầu tiên của 2 nhóm nghiên 
cứu. Như vậy, tuổi xuất hiện dấu hiệu dậy 
thì đầu tiên không phải là một gợi ý để phân 
biệt dậy thì sớm trung ương và tuyến vú 
phát triển sớm. 
4.2. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng 
của dậy thì sớm ở trẻ gái 
Theo bảng 3.3, các trẻ nhóm tuyến vú phát 
triển sớm có tuyến vú giai đoạn B2. Trong khi 
đó, 50% trường hợp dậy thì sớm trung ương 
đến viện khi tuyến vú phát triển giai đoạn ≥ 
B3. Gonul Catli và cộng sự (2015) cũng cho 
kết quả nghiên cứu tương tự [2]. Theo bảng 
3.4 đa số các trường hợp dậy thì sớm đến viện 
khi chưa có lông mu (85,30%), tương tự 
nghiên cứu của một số tác giả trong nước 
[4],[5],[6]. Bảng 3.5 cho thấy nhóm dậy thì 
sớm trung ương có tuổi xương lớn hơn tuổi 
thực cao hơn có ý nghĩa. Liat de Vries (2006) 
cho thấy tuổi xương của nhóm dậy thì sớm 
trung ương nằm trong khoảng 1,8±1,5 SD, 
cao hơn tuổi xương của nhóm tuyến vú phát 
triển sớm 0,5±0,7 SD với p<0,001 [10]. Các 
nghiên cứu khác cũng có kết quả tương tự 
[8],[13]. Tuy nhiên, có 4 trường hợp dậy thì 
sớm trung ương có tuổi xương nhỏ hơn tuổi 
thực, vì tuổi xương bị ảnh hưởng bởi rất nhiều 
yếu tố các yếu tố vi lượng trong khẩu phần 
hàng ngày; chế độ lao động, luyện tập; các 
bệnh lý kèm theo. 
Bảng 3.6 và 3.7 cho thấy nồng độ các 
hormon trục sinh dục FSH-LH trước và sau 
test aGnRH của nhóm dậy thì sớm trung ương 
cao hơn có ý nghĩa, p < 0,05. Đây là cơ sở để 
ứng dụng đo nồng độ các hormone hướng 
sinh dục trong huyết thanh để chẩn đoán dậy 
thì sớm trung ương. Tuy nhiên, các giá trị tiêu 
chuẩn vẫn chưa thể thống nhất. Nồng độ LH 
nền trong huyết thanh <0,1 UI/l ở trẻ tiền dậy 
thì. Một nghiên cứu dùng ngưỡng LH nền 
trong huyết thanh >0,2 UI/l để xác định trẻ 
gái dậy thì đạt được độ nhạy, độ đặc hiệu 
100%. Tuy nhiên, 50% trẻ gái dậy thì giai 
đoạn B2 có nồng độ LH nền trong huyết 
thanh ở mức tiền dậy thì [3]. So với LH, FSH 
ít có giá trị hơn vì ít thay đổi trong quá trình 
100 - Độ đặc hiệu 
Đ
ộ
 n
h
ạy
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
123 
dậy thì. Một số nghiên cứu đưa ra các tiêu 
chuẩn chẩn đoán cho nồng độ FSH nền trong 
huyết thanh nhưng có độ nhạy và độ đặc hiệu 
thấp [3], [11]. Ngược lại, nồng độ hormone 
sinh dục nữ (Estradiol) huyết thanh lại không 
có sự khác biệt giữa 2 nhóm nghiên cứu (bảng 
3.7), tương tự với các nghiên cứu trước đây, 
của Liat de Vries (2004), Jung Yu (2015) [8], 
[10]. Tương đồng với một số nghiên cứu 
trước đây, bảng 3.9 cho thấy các chỉ số siêu 
âm tử cung buồng trứng có giá trị trong chẩn 
đoán phân biệt dậy thì sớm trung ương và 
tuyến vú phát triển sớm bao gồm chiều cao tử 
cung, chiều rộng tử cung, chiều trước sau tử 
cung, thể tích tử cung và thể tích buồng trứng 
với p < 0,05 [9],[10],[12],[13]. 
4.3. Giá trị chẩn đoán dậy thì sớm trung 
ương của các chỉ số siêu âm tử cung – 
buồng trứng 
Theo biểu đồ 3.1 và bảng 3.10 chiều cao 
tử cung > 29,00mm có giá trị cao nhất với 
AUC lớn nhất là 0,770, độ nhạy 70,59%, độ 
đặc hiệu 87,50%). Kết quả này tương đồng 
với một số nghiên cứu trước đây. Binay và 
cộng sự nhận thấy chiều cao tử cung >30mm 
có độ nhạy 93,10% và độ đặc hiệu 86,60% 
trong chẩn đoán phân biệt dậy thì sớm trung 
ương và tuyến vú phát triển sớm [7]. 
Badouraki và cộng sự (2008) dùng tiêu chuẩn 
chiều cao tử cung >31,85mm thu được độ 
nhạy và độ đặc hiệu lần lượt là 85,70% và 
91,70% [13]. De Vries chọn tiêu chuẩn chiều 
cao tử cung là 34mm với độ nhạy là 80,20%, 
độ đặc hiệu 57,80% và tác giả Jung Yu chọn 
chiều cao tử cung >22mm với độ nhạy 
83,30% và độ đặc hiệu 33,90% [8], 
[10].Nghiên cứu về giá trị của chiều rộng tử 
cung, Liat de Vries cùng cộng sự (2006) cho 
thấy chiều rộng tử cung >15mm có độ nhạy 
67,90%, độ đặc hiệu 100% [10]. Gần đây, 
nghiên cứu của Wen và cộng sự năm 2018, 
cho kết quả chiều rộng tử cung ≥ 16,90mm có 
độ nhạy 70,83% và độ đặc hiệu 95,92%, khá 
tương đồng với nghiên cứu của chúng tôi 
[18]. Sử dụng tiêu chuẩn chẩn đoán thấp hơn, 
Jung Yu và cộng sự cho kết quả, chiều rộng tử 
cung ≥7,60mm có độ nhạy 71%, độ đặc hiệu 
56,50% [12]. Chiều trước sau tử cung cũng có 
giá trị nhất định trong chẩn đoán phân biệt 2 
nhóm đối tượng này.Năm 2006, Liat de Vries 
cùng cộng sự nghiên cứu thấy chiều trước sau 
tử cung > 8mm có độ nhạy 82,50%, độ đặc 
hiệu 76,40% trong chẩn đoán phân biệt dậy 
thì sớm trung ương và tuyến vú phát triển 
sớm [10]. Nghiên cứu của Jung Yu và cộng sự 
(2015) cũng cho kết quả tương tự, chiều trước 
sau tử cung >8,8mm có độ nhạy 73,10% và 
độ đặc hiệu 61,30% trong chẩn đoán phân 
biệt 2 thể dậy thì sớm nói trên [8]. So với các 
nghiên cứu trước, nghiên cứu này có độ nhạy 
thấp hơn. Chỉ số thể tích tử cung đã được khá 
nhiều tác giả nghiên cứu. 
Haber và cộng sự (1995) nhận thấy thể 
tích tử cung >1,80ml có độ nhạy và độ đặc 
hiệu lên đến 100% khi so sánh nhóm dậy thì 
sớm trung ương với nhóm tuyến vú phát triển 
sớm [12]. Theo Liat de Vries- thể tích tử cung 
>1,96ml có độ nhạy 88,80% và độ đặc hiệu 
89,40% [10]. Trong khi đó, Badouraki và các 
cộng sự (2008)nhận thấy thể tích tử cung 
>2,99ml có độ nhạy 85,70% và độ đặc hiệu 
75,00% có thể do 26/50 (52%) trẻ dậy thì sớm 
trung ương trong nghiên cứu này có độ tuổi 
lớn hơn 8 đến 10, với những giai đoạn dậy thì 
muộn hơn [13], trong khi đó nghiên cứu 
chúng tôi tuổi trung bình là 6,4 (Bảng 3.1). 
Giá trị của thể tích buồng trứng trong chẩn 
đoán dậy thì sớm: Theo Haber và cộng sự 
(1995) thể tích buồng trứng >1,20ml có độ 
nhạy 82,00% và độ đặc hiệu 95,00% [12]. 
Badouraki và cộng sự (2008) nhận thấy thể 
tích buồng trứng >1,60ml có độ nhạy 85,70% 
và độ đặc hiệu 75% [13]. 
Kết quả nghiên cứu của Binay và cộng sự 
(2014) cho thấy thể tích buồng trứng >1,3ml 
có độ nhạy 72,70% và độ đặc hiệu 90,00% 
[7]. So với các nghiên cứu trên, bảng 3.10 cho 
thấy có tiêu chuẩn chẩn đoán của thể tích 
buồng trứng nhỏ hơn, độ đặc hiệu thấp hơn 
nhưng độ nhạy tương đương. Có thể thấy 
không chỉ chịu ảnh hưởng của chủng tộc, thể 
tích buồng trứng còn phụ thuộc vào độ tuổi 
của trẻ. 
Khi so sánh diện tích dưới đường cong 
ROC của chiều cao tử cung với nồng độ các 
hormone FSH-LH không thấy sự khác biệt 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
124 
(p>0,05). Như vậy chiều cao tử cung có giá 
trị chẩn đoán tương đương nồng độ hormone 
FSH-LH trong huyết thanh. Kết quả này cũng 
tương đương với các nghiên cứu khác [7],[9]. 
5. KẾT LUẬN 
5.1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng 
của dậy thì sớm ở trẻ gái: 
Tuổi xuất hiện dấu hiệu dậy thì đầu tiên là 
6,17 (4,67-7,12) tuổi, Nhóm dậy thì sớm 
trung ương có 50,00% có tuyến vú B3 trở lên 
(p<0,05). 64,70% nhóm dậy thì sớm trung 
ương có tuổi xương lớn hơn tuổi thực. Nồng 
độ các hormone FSH-LH huyết thanh trước 
test và sau test của nhóm dậy thì sớm trung 
ương đều lớn hơn nhóm tuyến vú phát triển 
sớm có ý nghĩa thống kê (p<0,01). Chiều cao 
tử cung, chiều rộng tử cung, chiều trước sau 
tử cung, thể tích tử cung, thể tích buồng trứng 
có giá trị trong chẩn đoán phân biệt dậy thì 
sớm trung ương và tuyến vú phát triển sớm. 
5.2. Giá trị chẩn đoán dậy thì sớm trung 
ương của các chỉ số siêu âm: 
Chiều cao tử cung >29,00mm có giá trị 
dậy thì sớm trung ương với diện tích dưới 
đường cong ROC lớn nhất-AUC là 0,770, 
p<0,001 với độ nhạy 70,59%, độ đặc hiệu 
87,50%. Không có sự khác biệt khi so sánh 
diện tích dưới đường cong ROC của chiều 
cao tử cung với nồng độ các hormone FSH-
LH huyết thanh (p>0,05). 
6. KIẾN NGHỊ 
Có thể kết hợp siêu âm tử cung buồng 
trứng với các dữ kiện lâm sàng, tuổi xương và 
xét nghiệm hormone trong huyết thanh để 
định hướng chẩn đoán dậy thì sớm trung 
ương ở trẻ gái, khi không thể sử dụng các 
nghiệm pháp động để xác định chẩn đoán. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Carel J.-C., Léger J. (2008), 
"Precocious puberty: Clinical practice", 
The New England Journal of Medicine, 
358 pp. 2366-2377. 
2. Catli G., Erdem P., Anik A., et al 
(2015), "Clinical and laboratory findings 
in the differential diagnosis of central 
precocious puberty and premature 
thelarche", Turk Pediatri Ars, 50 (1), pp. 
20-26. 
3. Ou-Yang L. X., Yang F. (2017), 
"Diagnostic value of baseline serum 
luteinizing hormone level for central 
precocious puberty in girls", Zhongguo 
Dang Dai Er Ke Za Zhi, 19 (7), pp. 729-
733. 
4. Nguyễn Thị Hồng Đào (2013),Nghiên 
cứu đặc điểm lâm sàng và các yếu tố liên 
quan đến trẻ gái dậy thì sớm hoàn toàn 
tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định, 
Luận án chuyên khoa cấp II, Đại học Y 
Dược Huế, Huế, tr. 40,52,60. 
5. Đặng Thị Yên (2015),Nghiên cứu đặc 
điểm lâm sàng và cận lâm sàng dậy thì 
sớm ở trẻ em gái, Luận văn Thạc sĩ y 
học, Đại học Y Dược Huế, Huế, tr. 33-34. 
6. Lê Ngọc Duy (2018),Nghiên cứu đặc 
điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả 
dậy thì sớm trung ương, Đại học Y Hà 
Nội, Hà Nội, tr. 59,62,69. 
7. Binay C., Simsek E., Bal C. (2014), 
"The correlation between GnRH 
stimulation testing and obstetric 
ultrasonographic parameters in 
precocious puberty", Journal Pediatric 
Endocrine Met, 27 (11-12), pp. 1193-
1199. 
8. Yu J., Shin H. Y., Lee S. H., et al 
(2015), "Usefulness of pelvic 
ultrasonography for the diagnosis of 
central precocious puberty in girls", 
Korean Journal Pediatric, 58 (8), pp. 
294-300. 
9. Lee S. H., Joo E. Y., Lee J. E., et al 
(2016), "The Diagnostic Value of Pelvic 
Ultrasound in Girls with Central 
Precocious Puberty", Chonnam Medicine 
Journal, 52 (1), pp. 70-74. 
de Vries L., Horev G., Schwartz M., et al 
(2006), "Ultrasonographic and clinical 
parameters for early differentiation between 
precocious puberty and premature thelarche", 
European Journal of Endocrinology, 154 pp. 
891-898. 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_lam_sang_can_lam_sang_va_cac_chi_so_sieu_am_tu_cung.pdf