Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ca bệnh tay chân miệng vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam, năm 2017-2018

Tại Việt Nam, bệnh tay chân miệng (TCM) đã lưu hành trên toàn bộ 63 tỉnh thành. Tại Hà Nam, bệnh TCM

cũng đã xuất hiện tản mát từ nhiều năm nay và thực sự bùng phát mạnh từ khoảng giữa năm 2011. Nghiên

cứu mô tả cắt ngang nhằm mô tả đặc điểm của các ca bệnh vào Bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Nam trong hai

năm 2017- 2018. Kết quả cho thấy bệnh TCM chủ yếu gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi, đặc biệt nhóm trẻ dưới 3 tuổi

(chiếm 87,2%). Tỷ lệ mắc của nam cao hơn nữ rõ rệt tương ứng 62,72% và 37,28%. Phân bố các ca bệnh

TCM được chẩn đoán lâm sàng ở phân độ 1, 2a và 2b khi nhập viện, trong đó chủ yếu là phân độ 1 và 2a

(48,6% và 43,7%) và phân độ 2b ít gặp hơn với 7,7%. Các triệu chứng thường gặp trên các ca bệnh TCM

bao gồm sốt (90,61%), nổi ban (94,47%), loét miệng (70,17%). Các đặc điểm cận lâm sàng nổi bật là tình

trạng tăng bạch cầu và tiểu cầu (56,4%), giảm glucose máu (39,6%) và kết quả CPR dương tính (38,7%).

pdf 9 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ca bệnh tay chân miệng vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam, năm 2017-2018", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ca bệnh tay chân miệng vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam, năm 2017-2018

Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ca bệnh tay chân miệng vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam, năm 2017-2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
30 TCNCYH 129 (5) - 2020
Tác giả liên hệ: Đỗ Thị Thanh Toàn, 
Viện ĐT YHDP &YTCC, Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 01/02/2020
Ngày được chấp nhận: 09/06/2020
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CA BỆNH TAY CHÂN 
MIỆNG VÀO BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH HÀ NAM,
 NĂM 2017 - 2018
Đỗ Thị Thanh Toàn , Đặng Thị Hương
Viện Đào tạo YHDP&YTCC, Trường Đại học Y Hà Nội
Tại Việt Nam, bệnh tay chân miệng (TCM) đã lưu hành trên toàn bộ 63 tỉnh thành. Tại Hà Nam, bệnh TCM 
cũng đã xuất hiện tản mát từ nhiều năm nay và thực sự bùng phát mạnh từ khoảng giữa năm 2011. Nghiên 
cứu mô tả cắt ngang nhằm mô tả đặc điểm của các ca bệnh vào Bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Nam trong hai 
năm 2017- 2018. Kết quả cho thấy bệnh TCM chủ yếu gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi, đặc biệt nhóm trẻ dưới 3 tuổi 
(chiếm 87,2%). Tỷ lệ mắc của nam cao hơn nữ rõ rệt tương ứng 62,72% và 37,28%. Phân bố các ca bệnh 
TCM được chẩn đoán lâm sàng ở phân độ 1, 2a và 2b khi nhập viện, trong đó chủ yếu là phân độ 1 và 2a 
(48,6% và 43,7%) và phân độ 2b ít gặp hơn với 7,7%. Các triệu chứng thường gặp trên các ca bệnh TCM 
bao gồm sốt (90,61%), nổi ban (94,47%), loét miệng (70,17%). Các đặc điểm cận lâm sàng nổi bật là tình 
trạng tăng bạch cầu và tiểu cầu (56,4%), giảm glucose máu (39,6%) và kết quả CPR dương tính (38,7%).
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh tay chân miệng là bệnh truyền nhiễm 
cấp tính, lây từ người sang người qua đường 
tiêu hóa và dễ gây thành dịch. Bệnh do virus 
đường ruột gây ra với hai nhóm tác nhân chính 
là Coxsackievirus A16 (CVA16) và Enterovirus 
71 (EV71). Bệnh hay gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi 
với biểu hiện chính là tổn thương da, niêm mạc 
dưới dạng phỏng nước ở các vị trí như miệng, 
lòng bàn tay - chân, mông, gối. Ngoài ra, bệnh 
có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm như 
viêm não - màng não, viêm cơ tim, phù phổi 
cấp dẫn đến tử vong nếu không được phát hiện 
sớm và xử trí kịp thời.¹
Tại Việt Nam, bệnh tay chân miệng bắt đầu 
được ghi nhận từ năm 2003,² nhưng tình hình 
bệnh thực sự trở nên phức tạp trong khoảng 5 
năm trở lại đây. Cụ thể, theo Bộ Y tế, trước năm 
2011, mỗi năm chỉ ghi nhận trên dưới 10 nghìn 
ca tay chân miệng trên phạm vi cả nước, nhưng 
trong vài năm trở lại đây con số này đã tăng gấp 
khoảng 10 lần. Năm 2012 bệnh tay chân miệng 
đứng thứ hai trong số 10 bệnh truyền nhiễm có 
số người mắc cao nhất, đồng thời là bệnh có 
số người tử vong đứng thứ ba. Mặc dù từ năm 
2013 đến nay bệnh có chiều hướng giảm,3 - 5 
nhưng trong điều kiện chưa có vắc xin và thuốc 
điều trị đặc hiệu, tỷ lệ người lành mang bệnh 
cao, vệ sinh cá nhân - môi trường còn nhiều bất 
cập thì dịch rất dễ bùng phát trở lại.
Hiện nay, bệnh tay chân miệng đã lưu hành 
trên toàn bộ 63 tỉnh thành. Tại Hà Nam, dịch tay 
chân miệng cũng đã xuất hiện tản mát từ nhiều 
năm nay và thực sự bùng phát mạnh từ khoảng 
giữa năm 2011. Theo Ủy ban nhân dân tỉnh Hà 
Nam6, chỉ trong 3 tháng quý III năm 2011, toàn 
tỉnh đã ghi nhận 150 trường hợp mắc tay chân 
miệng. Đa số các trường hợp mắc tay chân 
miệng nhập viện được điều trị tại Bệnh viện Đa 
khoa tỉnh Hà Nam và một phần nhỏ được điều 
trị tại các cơ sở y tế khác hoặc tại nhà. Do vậy, 
Từ khóa: Tay chân miệng, đặc điểm ca bệnh, bệnh viện đa khoa tỉnh, tỉnh Hà Nam
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
31TCNCYH 129 (5) - 2020
nghiên cứu này được thực hiện để mô tả đặc 
điểm của các ca bệnh vào Bệnh viện đa khoa 
tỉnh Hà Nam trong hai năm 2017 - 2018.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh tay 
chân miệng.
Tiêu chuẩn chẩn đoán (theo quy định của 
Bộ Y tế1): 
+ Ca bệnh lâm sàng (ca bệnh giám sát): Là 
những trường hợp có sốt, ban chủ yếu dạng 
phỏng nước ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, đầu 
gối, mông, miệng, có thể kèm theo loét ở miệng.
+ Ca bệnh xác định: Là ca bệnh lâm sàng 
có xét nghiệm dương tính với vi rút đường ruột 
gây bệnh tay chân miệng.
2. Phương pháp
 - Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả 
cắt ngang
 - Cỡ mẫu và chọn mẫu: Chọn toàn bộ các 
ca bệnh xác định tay chân miệng vào Bệnh viện 
Đa khoa tỉnh Hà Nam trong 2 năm 2017 - 2018. 
Tổng số thu thập là 181 ca bệnh.
 - Phương pháp thu thập thông tin: Sử dụng 
kỹ thuật hồi cứu hồ sơ bệnh án lưu trữ tại phòng 
Kế hoạch tổng hợp, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà 
Nam theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Bộ Y tế. 
 - Nội dung nghiên cứu
• Đặc trưng cá nhân của đối tượng nghiên 
cứu
• Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng các ca 
bệnh tay chân miệng
3. Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu được nhập bằng phần mềm Epidata 
3.0 và xử lý bằng phần mềm Stata 14. Áp dụng 
các phép tính thống kê mô tả như tính giá trị 
trung bình, độ lệch chuẩn đối với các biến số 
định lượng và tính tỉ lệ % đối với các biến số 
định tính.
4. Đạo đức nghiên cứu
• Nghiên cứu được sự đồng ý của Bệnh viện 
Đa khoa tỉnh Hà Nam.
• Nghiên cứu không tiến hành trực tiếp với 
bệnh nhân mà chỉ thông qua hồ sơ bệnh án có 
sẵn hoặc danh sách ca bệnh thu thập tại Bệnh 
viện Đa khoa tỉnh Hà Nam.
III. KẾT QUẢ
1. Phân bố ca bệnh tay chân miệng tại Hà Nam trong hai năm 2017 - 2018 theo tuổi và giới
Biểu đồ 1 (A) và (B) thể hiện sự phân bố của các ca bệnh tay chân miệng theo tuổi và giới. Kết 
quả cho thấy, bệnh tay chân miệng xuất hiện chủ yếu ở trẻ em và tập trung phần lớn ở trẻ dưới 5 
tuổi với 178 ca mắc chiếm 98,79%; trong đó 87,16% là trẻ dưới 3 tuổi. Bệnh cũng có xu hướng cao 
hơn ở trẻ nam so với nữ qua tất cả các năm.
Biểu đồ 1. Phân bố tỷ lệ các ca TCM vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam năm 2012 – 2017 
theo tuổi (A) và theo giới (B) 
1,21%
85,95%
9,79%
3,04%
< 6 tháng
6 tháng - < 
3 tuổi
3 tuổi - < 5 
tuổi
62,72%37,28%
Nam
Nữ
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
32 TCNCYH 129 (5) - 2020
2. Phân bố các ca tay chân miệng vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam năm 2017 - 2018 theo 
phân độ lâm sàng khi nhập viện.
Biểu đồ 2 cho thấy trong hai năm 2017 – 2018, tất cả 181 ca bệnh tay chân miệng khi nhập viện 
đều được chẩn đoán ở các phân độ lâm sàng 1, 2a và 2b mà không có ca bệnh nào ở hai phân độ 
nặng hơn (độ 3 và 4). Số ca bệnh được chẩn đoán ở độ 2a chiếm tỷ cao nhất với 88 ca tương ứng 
48,62%; tiếp sau là độ 1 với ít hơn 9 ca - tương ứng 43,65% và thấp nhất là độ 2b với 14 ca - tức 
7,73%.
Biểu đồ 2. Phân bố các ca TCM vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam năm 2015 – 2016 theo 
phân độ lâm sàng khi nhập viện (n = 181).
3. Đặc điểm lâm sàng các ca tay chân miệng vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam năm 2017 
– 2018.
Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng các ca bệnh TCM vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam
 năm 2017 – 2018 (N=181)
Triệu chứng Tần số Tỉ lệ (%)
Sốt (≥ 37,5°C) 164 90,61
Sốt ≥ 39°C 34 18,78
Đau họng 101 55,80
Tiêu chảy 8 4,42
Nôn 41 22,65
Chán ăn 122 67,40
Phát ban nói chung 171 94,47
Ban ở tay 132 72,93
Ban ở chân 136 75,14
Ban ở mông 58 32,04
Loét miệng 127 70,17
Rối loạn hô hấp, tim mạch 6 3,31
Giật mình 46 25,41
Bứt rứt 9 4,97
Co giật 3 1,66
43,65%
48,62%
7,73%
Độ 1
Độ 2a
Độ 2b
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
33TCNCYH 129 (5) - 2020
Các biểu hiện lâm sàng thường gặp của bệnh tay chân miệng được trình bày trong bảng 1, gồm: 
sốt (90,61%), phát ban (94,47%), loét miệng (70,17%). Ngoài ra, đau họng và chán ăn là cũng hai 
triệu chứng đi kèm khá thường gặp với lần lượt 55,80% và 67,40%. Các biểu hiện của đường tiêu 
hóa như nôn, tiêu chảy chỉ gặp với tỷ lệ thấp (22,65% và 4,42%). Hơn 1/4 số ca có biểu hiện giật 
mình và một tỷ lệ nhỏ có biểu hiện rối loạn hô hấp - tim mạch, bứt rứt, co giật.
4. Đặc điểm cận lâm sàng các ca tay chân miệng vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam năm 
2017 – 2018.
Bảng 2. Đặc điểm sinh hóa máu các ca bệnh TCM vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam
 năm 2017 – 2018 (N=181)
Chỉ số n Đơn vị
Trung 
bình
Độ lệch 
chuẩn
Min - Max
Tỷ lệ bất 
thường
(%)
Hồng cầu 181 T/l 4,42 0,42 3,5 – 6,11 14,36
Bạch cầu 181 G/l
10,96 3,53 4,2 - 21,1
56,35
> 16: 10,5
10 – 16: 45,8
Tiểu cầu 181 G/l
290,50 89,41 129 – 541 16,57
> 400: 12,15
Glucose
106 mmol/l
4,12 1,08 1 – 7,5
40,6
< 3,9: 39,6
> 6,4: 0,95
Natri 107 mmol/l 135,04 4,00 126 – 148 31,8
Kali 107 mmol/l 4,12 0,41 3,05 – 5,8 6,5
Clo 107 mmol/l 93,41 3,66 86 – 103 90,7
CRP 106 ( - )/(+) - - - 38,7
Các đặc điểm sinh hoá máu trên các ca bệnh được trình bày trong bảng 2, cho thấy:
Về công thức máu, sự tăng số lượng bạch cầu xuất hiện ở hơn một nửa số ca, trong đó 10,5% 
số ca có bạch cầu tăng trên 16 G/l. Ngoài ra cũng có một tỷ lệ đáng kể về bất thường số lượng hồng 
cầu và tiểu cầu.
Về lượng glusose máu, có tới 40,57% số ca có biểu hiện bất thường, chủ yếu là giảm glucose 
máu với ngưỡng thấp nhất ghi nhận đươc chỉ là 1 mmol/l.
Về điện giải đồ, có sự bất thường khá lớn về hàm lượng clo máu - chiếm 77,57% tổng số ca. Sự 
bất thường về hàm lượng natri cũng đạt tỷ lệ đáng kể - 13,08%, còn đối với hàm lượng kali, tỷ lệ bất 
thường thấp.
Về xét nghiệm Protein C (CRP), tỷ lệ dương tính đạt 38,68%.
Đặc điểm X - quang các ca bệnh tay chân miệng được trình bày trong biểu đồ 3 cho thấy, trong 
159 ca được chụp X - quang tim phổi, có 24 ca bất thường về hỉnh ảnh X - quang, trong đó tổn 
thương thường gặp nhất là viêm phế quản (20/24 ca) chiếm 83,33%; còn lại 4 ca có tổn thương 
viêm phổi.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
34 TCNCYH 129 (5) - 2020
Biểu đồ 3. Đặc điểm X-quang các ca bệnh TCM vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam 
năm 2015 – 2016.
IV. BÀN LUẬN 
Đặc trưng tuổi và giới của các ca tay chân 
miệng vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam
Trong hai năm 2017 - 2018, tại BV đa khoa 
tỉnh Hà Nam, bệnh tay chân miệng xuất hiện 
chủ yếu ở trẻ em và tập trung phần lớn ở trẻ 
dưới 5 tuổi. Kết quả này cũng tương đồng với 
kết quả của nhiều nghiên cứu khác như tại Hà 
Nội năm 2009 – 2011 với gần như 100% trường 
hợp mắc tay chân miệng là trẻ dưới 5 tuổi,7 hay 
tại 20 tỉnh thành phía Nam giai đoạn 2005 – 
2011 của Trần Ngọc Hữu với 80% các ca mắc 
tay chân miệng là trẻ dưới 3 tuổi.⁸ Đáng chú ý 
tỉ lệ trẻ dưới 6 tháng tuổi mắc tay chân miệng 
rất thấp là do còn kháng thể của mẹ truyền 
sáng trong thời kỳ bào thai. Sau 6 tháng, lượng 
kháng thể này giảm dần nên nguy cơ mắc bệnh 
của trẻ tăng cao.
Nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra rằng 
tỷ lệ mắc tay chân miệng ở trẻ nam cao hơn 
gần gấp đôi so với trẻ nữ (62,7% và 37,3%). 
Một số nghiên cứu trong nước và quốc tế cũng 
cho kết quả tượng tự về sự chênh lệch rõ rệ 
này như nghiên cứu của Trung tâm kiểm soát 
và phòng ngừa bệnh tật châu Âu tại Tây Ban 
Nha năm 2016 với tỷ lệ nam/nữ = 58%/42%9; 
nghiên cứu của Weiwei Zhang và cộng sự tại 
Trung Quốc năm 2012 – 2014 với tỷ lệ nam/nữ 
= 62,4%/37,6%;10 nghiên cứu của Lê Thị Song 
Hương năm 2011 – 2012 tại Hải Phòng với tỷ lệ 
nam/nữ = 59,28%/40,72% 11 và nghiên cứu của 
Nguyễn Kim Thư năm 2012 với tỷ lệ nam/nữ = 
63,5%/36,5%.12 Lý do của hiện tượng này tới 
nay chưa được giải thích rõ nhưng theo chúng 
tôi một nguyên nhân có thể nghĩ tới đó là do các 
bé trai thường hiếu động hơn các bé gái nên sẽ 
có nguy cơ tiếp xúc với các bề mặt nhiễm virus 
gây bệnh cao hơn.
Phân bố các ca tay chân miệng vào Bệnh 
viện Đa khoa tỉnh Hà Nam theo phân độ lâm 
sàng khi nhập viện.
Trong số 181 ca bệnh tay chân miệng nhập 
viện năm 2017 – 2018, các phân độ lâm sàng 1 
và 2a chiếm tỉ lệ cao nhất (48,6% và 43,7%) và 
phân độ 2b ít gặp nhất với 7,7%. Dựa vào phân 
bổ tỷ lệ ca bệnh theo các phân độ lâm sàng có 
thể thấy nhìn chung tại Hà Nam tình trạng bệnh 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
35TCNCYH 129 (5) - 2020
không trầm trọng như một số địa phương khác 
(như nghiên cứu của Nguyễn Kim Thư tại Hà 
Nội và Thành phố Hồ Chi Minh,12 nghiên cứu 
của Bùi Thị Thu Thủy và Phạm Quốc Thắng tại 
Đồng Nai.13 Tuy theo hướng dẫn của Bộ Y tế, 
đối với phân độ lâm sàng 1 chỉ cần điều trị tại 
nhà và theo dõi tại cơ sở y tế nhưng vẫn có một 
tỷ lệ lớn bệnh nhân nhập viện ở phân độ này. 
Điều này có thể lý giải do tâm lý lo lắng của cha 
mẹ khi trẻ bị bệnh, dẫn tới không yên tâm để trẻ 
điều trị tại nhà.
Đặc điểm lâm sàng các ca tay chân miệng 
vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam
Sốt là triệu chứng thường gặp trong các 
bệnh truyền nhiễm nói chung và bệnh tay chân 
miệng nói riêng. Trong nghiên cứu của chúng 
tôi, có 90,61% số ca nhập viện có biểu hiện sốt 
và 18,78% có biểu hiện sốt cao trên 39°C. Kết 
quả này khá tương đồng với nghiên cứu của 
Bùi Thị Thu Thủy và Phạm Quốc Thắng13, tuy 
nhiên lại cao hơn nghiên cứu của Nguyễn Kim 
Thư 12 cũng như Baoyan Liu và cộng sự 14 khi tỷ 
lệ ca có sốt chỉ chiếm trên dưới 60%.
Trong khi sốt là triệu chứng phổ biến trong 
các bệnh truyền nhiễm thì tổn thương dạng 
ban phỏng nước tại chân, tay, mông, gối được 
coi là biểu hiện đặc trưng của bệnh tay chân 
miệng, giúp phân biệt bệnh tay chân miệng và 
bệnh viêm loét miệng. Theo đó, tỷ lệ nổi ban 
nói chung là 94,47%; loét miệng cũng chiếm 
tỷ lệ khá lớn với 70,17%. Một số nghiên cứu 
trong và ngoài nước cũng cho kết quả tương tự 
về tỷ lệ nổi ban,12-15 nhưng đối với triệu chứng 
loét miệng, các nghiên cứu của khu vực cho 
tỷ lệ cao hơn – khoảng trên 90%.14,15 Ngoài ra, 
các triệu chứng chán ăn, đau họng cũng khá 
thường gặp.
Các triệu chứng nặng như giật mình, co giật, 
bứt rứt và rối loạn hô hấp – tim mạch là căn cứ 
quan trọng để xếp bệnh nhân vào các phân độ 
lâm sàng nặng. Theo đó, triệu chứng giật mình 
chiếm khoảng ¼ số ca, 3 triệu chứng còn lại 
chiếm tỷ lệ nhỏ - khoảng dưới 5 %. Do không 
có trường hợp nào nhập viện được xếp vào 
phân độ lâm sàng 3 và 4 nên biểu hiện co giật 
ở đây chủ yếu liên quan đến tình trạng sốt cao 
liên tục (≥ 39°C) còn các rối loạn hô hấp – tim 
mạch (khó thở, mạch nhanh) có thể là hậu quả 
của tình trạng bội nhiễm viêm đường hô hấp 
dưới.
Đặc điểm cận lâm sàng các ca tay chân 
miệng vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam
Tất cả bệnh nhân tay chân miệng nhập 
viện năm 2017 – 2018 đều được xét nghiệm 
công thức máu, ngoài ra một số bệnh nhân còn 
được làm thêm các xét nghiệm khác như CRP, 
đường máu, điện giải đồ và chụp X – quang 
tim phổi thẳng. Theo hướng dẫn của Bộ Y tế, 
tất cả bệnh nhân tay chân miệng khi nhập viện 
từ phân độ 2b trở lên cần phải được làm xét 
nghiệm căn nguyên virus gây bệnh. Tuy nhiên 
tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Nam do điều kiện 
phương tiện kĩ thuật còn hạn chế nên chưa thể 
thực hiện được việc chẩn đoán căn nguyên.
Nếu về mặt lâm sàng, sốt được xem là một 
chỉ điểm quan trọng của phản ứng viêm thì về 
mặt cận lâm sàng, cần phải nói đến số lượng 
bạch cầu máu. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
số ca có tăng bạch cầu máu chiếm ̉̀56,35%, đặc 
biệt có tới 10,50% số ca bệnh có chỉ số bạch 
cầu trên 16G/l – ngưỡng được cho là rất có 
liên quan đến các biến chứng. Tuy nghiên cứu 
của Nguyễn Kim Thư 12 cho kết quả cả hai tỷ lệ 
này đều cao hơn so với chúng tôi nhưng điều 
này lại phù hợp với các đặc điểm lâm sàng của 
riêng từng nghiên cứu. 
Ngoài bạch cầu, trong công thức máu của 
bệnh nhân tay chân miệng cần phải chú ý tới 
tiểu cầu. Lượng tiểu cầu thường tăng dần theo 
mức độ nặng của bệnh do đây là cũng một yếu 
tố quan trọng trong phản ứng viêm. Theo đó, 
nghiên cứu đã chỉ ra số lượng tiểu cầu trung 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
36 TCNCYH 129 (5) - 2020
bình là 290,50 ± 89,41 G/l, dao động từ 129 
đến 541 G/l, trong đó có 12,15% trường hợp 
có lượng tiểu cầu trên 400G/l. Tỷ lệ này trong 
nghiên cứu của Nguyễn Kim Thư có phần cao 
hơn với 18,3%.12
Glucose là một chỉ số rất được quan tâm 
trong sinh hóa máu của bệnh nhân tay chân 
miệng. Glucose máu tăng được cho là do sự 
kích thích hệ thần kinh giao cảm và điều này 
rất có ý nghĩa đối với tình trạng nặng của bệnh. 
Nghiên cứu chỉ ra có 40,57% bệnh nhân có 
bất thường glucose máu, tuy nhiên sự tăng 
glucose máu chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ (dưới 1%), 
toàn bộ số còn lại là các ca bệnh có glucose 
máu giảm. Lượng glucose máu rất phụ thuộc 
vào tình trạng no đói của trẻ, do vậy chưa thể 
khẳng định đây là một hiện tượng bất thường 
khi không nắm được thông tin về thời điểm lấy 
máu của trẻ. Cần phải có nghiên cứu sâu hơn 
để làm rõ vấn đề này, trong đó rất có thể phải 
quy định cụ thể và đồng nhất về thời điểm lấy 
máu.
Nồng độ CRP trong máu phản ánh mức độ 
của tình trạng viêm nhiễm. Với đặc tính tăng 
và giảm rất nhanh theo diễn biến của bệnh 
nên CRP thường có ý nghĩa trong việc theo 
dõi tiến triển của bệnh hơn là chẩn đoán bệnh. 
Tuy CRP không đủ tính đặc hiệu để chẩn đoán 
một bệnh lý nào đó nhưng nó vẫn đóng vai trò 
là một chỉ điểm tổng quát cho viêm nhiễm. Và 
trong 106 bệnh nhân được xét nghiệm CRP, có 
38,68% số bệnh nhân cho kết quả CRP dương 
tính. Đây cũng là một trong những căn cứ đáng 
quý giúp các bác sĩ đánh giá tình trạng bệnh 
nhân, qua đó đưa ra cách xử trí thích hợp.
Thành phần điện giải đồ cho kết quả bất 
thường rất lớn, trong đó chủ yếu là sự giảm 
nồng độ natri và clo. Tuy nhiên khi nhìn vào giá 
trị cao nhất và thấp nhấp có thể thấy sự tăng 
hoặc giảm này không phải quá cao hoặc quá 
thấp nên vẫn có thể coi là chấp nhận được. Việc 
thay đổi thành phần điện giải liên quan nhiều 
đến triệu chứng sốt của trẻ hơn là tác động của 
virus gây bệnh và có thể cải thiện bằng việc cho 
trẻ uống Oresol.
Đối với chẩn đoán hình ảnh, có 159 bệnh 
nhân được chụp X - quang tim phổi thẳng trong 
đó tổn thương thường gặp nhất trên hình ảnh 
X - quang là viêm phế quản (20/24 ca) chiếm 
83,33%, số còn lại là tổn thương viêm phổi. 
Đây là hiện tượng tay chân miệng bội nhiễm 
viêm đường hô hấp dưới do hệ miễn dịch của 
trẻ bị suy yếu khi mắc tay chân miệng.
V. KẾT LUẬN
Bệnh tay chân miệng chủ yếu gặp ở trẻ em 
và tập trung phần lớn ở trẻ dưới 5 tuổi, đặc biệt 
nhóm trẻ dưới 3 tuổi. Trẻ nam có tỉ lệ mắc tay 
chân miệng cao hơn trẻ nữ. 
Phân bố các ca bệnh tay chân miệng được 
chẩn đoán lâm sàng ở phân độ 1, 2a và 2b khi 
nhập viện, trong đó chủ yếu là phân độ 1 và 2a.
Về mặt lâm sàng, các triệu chứng thường 
gặp bao gồm sốt (90,61%), nổi ban (94,47%), 
loét miệng (70,17%). Một số biểu hiện nặng 
cũng được ghi nhận nhưng chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ 
(rối loạn hô hấp, tim mạch - 3,31%; bứt rứt - 
4,97%; co giật - 1,66%).
Về mặt cận lâm sàng, các đặc điểm nổi bật 
là tình trạng tăng bạch cầu và tiểu cầu, giảm 
glucose máu và kết quả CPR dương tính.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Y tế. Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị 
bệnh tay – chân – miệng. Quyết định số 2554/
QĐ - BYT ngày 19 tháng 7 năm 2011 của Bộ 
trưởng Bộ Y tế. 
12. Trương Hữu Khanh và cộng sự. Viêm 
não cấp ở trẻ em nhận dạng tác nhân EV71. 
Tạp chí Y học thực hành, 2003, 462, 210 – 214.
3. WHO Western Pacific Region Hand, Foot 
and Mouth Disease Situation Update, 15 January 
2014. <
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
37TCNCYH 129 (5) - 2020
diseases/hfmd_biweekly_29dec2014.pdf>.
4. WHO Western Pacific Region Hand, 
Foot and Mouth Disease Situation Update, 13 
January 2015. <
emerging_diseases/hfmdbiweekly_13jan2015.
pdf>.
5. WHO Western Pacific Region Hand, 
Foot and Mouth Disease Situation Update, 
13 January 2016. <
emerging_diseases/hfmd_biweekly_20160113.
pdf?ua=1>.
6. UBND Tỉnh Hà Nam. Khung kế hoạch 
truyền thông thay đổi hành vi trong phòng 
chống các bệnh truyền nhiễm mới nổi ở người 
và động vật tại tỉnh Hà Nam, giai đoạn 2011 - 
2015, 1717/QĐ - UBND. Báo cáo UBND Tỉnh 
Hà Nam, 2011.
7. Lê Thị Ngọc Anh, Nguyễn Thị Thanh 
Xuân, Đặng Hồng Hải và cộng sự. Nghiên cứu 
một số đặc điểm dịch bệnh sốt xuất huyết và 
chân - tay miệng tại Hà Nội giai đoạn 2009 - 
2011. Tạp chí Y học thực hành, 2013, 859 (2), 
41 – 46.
8. Trần Ngọc Hữu. Đặc điểm dịch tễ học của 
bệnh tay chân miệng ở 20 tỉnh thành phía Nam 
Việt Nam giai đoạn 2005 - 2011. Tạp chí Y học 
Thành phố Hồ Chí Minh, 2012, 16 (3), 19 – 25.
9. European Centre for Disease Prevention 
and Control, Outbreak of enterovirus A71 with 
severe neurological symptoms among children 
in Catalonia, Spain 14 June 2016, ECDC, 
Stockholm, 2016.
10. Weiwei Zhang, Bo Huang, Chaokun She 
et al. An epidemic analysis of hand, foot, and 
mouth disease in Zunyi, China between 2012 
and 2014. Saudi Med J, 2015, 36(5), 593–598.
11. Lê Thị Song Hương. Một số đặc điểm 
dịch tễ học bệnh tay chân miệng tại Hải Phòng, 
2011 - 2012. Tạp chí Y học dự phòng, 2013, 2 
(138), 17 – 22.
12. Nguyễn Kim Thư, Nghiên cứu đặc điểm 
lâm sàng, cận lâm sàng và căn nguyên virus 
gây bệnh Tay Chân Miệng tại Việt Nam, Luận 
án Tiến sĩ Đại học Y Hà Nội 2016.
13. Bùi Thị Thu Thủy và Phạm Quốc Thắng. 
Đặc điểm dịch tễ - lâm sàng - cận lâm sàng và 
kết quả điều trị bệnh tay chân miệng tại khoa 
Hồi sức Bệnh viện Nhi đồng Đồng Nai 01/2012 
- 12/2013. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí 
Minh, 2014, 18 (1), 346 – 352. 
14. Baoyan Liu, Lin Luo, Shiyan Yan et al 
(2015). Clinical Features for Mild Hand, Foot 
and Mouth Disease in China. PloS One, 2015, 
10(8).
15. Shah VA, Chong CY, Chan KP et al. 
Clinical characteristics of an outbreak of hand, 
foot and mouth disease in Singapore. Ann Acad 
Med Singapore, 2003, 32(3), 381–387.
Summary
CLINICAL AND LABORATORY CHARACTERISTICS OF HAND 
FOOT AND MOUTH DISEASE IN HA NAM PROVINCE, 2017-2018
In Vietnam, HFMD has spread in all 63 provinces. In Ha Nam, there has been an increasing 
trend of HFMD in recent years which peaked in 2011. This cross-sectional study was conducted 
to describe the characteristics of HFDM cases in Ha Nam General Hospital from 2017 to 2018. 
The results showed that HFDM is mainly found in children under 5 years old, especially among 
children under 3 years old (accounting for 87.2%). The prevalence of HFDM was higher among 
male than female, 62.72% and 37.28% respectively. There were three main grading for HFMD 
found in our patients: grade 1 (48.6%), grade 2a (43.7%) and grade 2b (7.7%). Typical clinical 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
38 TCNCYH 129 (5) - 2020
manifestations of HFDM in our study included fever (90.61%), skin eruptions on hands and feet 
(94.47%), and vesicles in mouth (70.17%). Typical laboratory findings include leukocytosis 
and platelets (56.4%), decreased blood glucose (39.6%) and positive CRP results (38.7%).
Keywords: hand foot mouth disease, characteristics

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_lam_sang_can_lam_sang_ca_benh_tay_chan_mieng_vao_be.pdf